Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

ĐIỀU TRỊ TĂNG sản LÀNH TÍNH TUYẾN TIỀN LIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (50.33 KB, 4 trang )

ĐIỀU TRỊ TĂNG SẢN LÀNH TÍNH TUYẾN TIỀN LIỆT
PGS. TS. Nguyễn Tuấn Vinh, Khoa Niệu, BV Bình Dân, TPHCM
ThS. BS Trần Thượng Phong, BV Thủ Đức, TPHCM
Các vấn đề liên quan
Tăng sản lành tính tuyến tiền liệt là một bệnh lý thường gặp ở những người
nam trên 60 tuổi. Cấu trúc tiền liệt tuyến gồm mô tuyến, mô cơ và cả mô
sợi; với những cá thể khác nhau thì các thành phần này có tỉ lệ khác nhau dù
đều gây triệu chứng bế tắc đường tiểu dưới như nhau, không thể phân biệt
được trên lâm sàng. Do có thành phần các loại mô khác nhau nên có nhiều
phương pháp điều trị khác nhau và đáp ứng của từng bệnh nhân cũng khác
nhau với từng loại thuốc điều trị và do đó cũng nảy sinh nhiều vấn đề cần
lưu ý do tác dụng của thuốc. Ngoài ra cũng cần lưu ý đến ung thư tuyến tiền
liệt một bệnh lý cũng thường gặp ở người nam lớn tuổi với tần suất cao thứ
nhất trong ung thư đường niệu dục ở nam giới; bản thân ung thư tuyến tiền
liệt cũng có triệu chứng lâm sàng giống tăng sản lành tính tuyến tiền liệt hay
trên một bệnh nhân có thể có cả hai bệnh lý phát triển song song nên khi
điều trị tăng sản lành tính tuyến tiền liệt phải luôn lưu ý đến ung thư kèm
theo.
Tăng sản lành tính tuyến tiền liệt có thể gây ra hai nhóm triệu chứng chính
là triệu chứng bế tắc và triệu chứng kích thích.Trong bệnh lý bướu lành
tuyến tiền liệt bệnh nhân có thể chỉ có triệu chứng bế tắc đơn thuần hay
triệu chứng kích thích hay kết hợp cả hai nhóm triệu chứng và cần lưu ý là
mức độ trầm trọng của các triệu chứng không phải luôn tỉ lệ với kích thước
của tuyến tiền liệt.
Điều trị nội khoa
Điều trị bằng chất ức chế 5 alpha reductase: Finasteride có tác dụng trên các
tế bào tuyến của tuyến tiền liệt, ngăn cản sự chuyển hóa của
dihydrotestosterone; cho đến hiện nay với nhiều công trình nghiên cứu cho
thấy chỉ có nhóm này là có thể làm nhỏ kích thước tuyến tiền liệt đến 20%.
Ngoài ra finasteride còn có khả năng điều trị tiểu máu do bướu tuyến tiền
liệt và làm giảm trị số PSA do đó khi điều trị với thuốc này cần lưu ý có thể


làm giảm khả năng tình dục, làm nữ hóa tuyến vú, che lấp các triệu chứng
của ung thư tuyến tiền liệt tiềm ẩn, tuy nhiên có một số nghiên cứu nhận
thấy sự giảm PSA đều cho cả PSA toàn phần và PSA tự do nên khi điều trị
với Finasteride nên theo dõi tỉ lệ PSA tự do với PSA toàn phần.
Dutasteride (Avodart): Một hoạt chất cùng họ với Finasteride; vì người ta
nhận thấy dù tỏ ra có hiệu quả trong điều trị bướu lành tiền liệt tuyến nhưng
DHT chỉ bị ức chế khoảng 70% trong huyết tương do Finasteride chỉ ức chế


hoạt động của 5 alpha reductase type 1 nên nếu sử dụng Dutasteride có khả
năng ức chế cả type 1 và 2 thì 90% lượng DHT sẽ bị ức chế. Các nghiên cứu
cho thấy Dutasteride có khả năng làm nhỏ đến 26% khối lượng bướu tuyến
tiền liệt. Khi dùng Dutasteride thì cần lưu ý các tác dụng phụ như
Finasteride.
Thuốc ức chế thần kinh giao cảm alpha: do trong cấu trúc của tuyến tiền liệt
có các sợi cơ trơn nên người ta có thể sử dụng các thuốc ức chế giao cảm
alpha để ức chế sự co thắt của các cơ trơn vùng cổ bàng quang và trong
tuyến tiền liệt. Các loại thuốc này có lợi điểm là có tác dụng nhanh trong
vòng 48 giờ. Các thuốc ức chế giao cảm không chọn lọc lúc đầu được sử
dụng nhưng sau đó do có nhiều phản ứng phụ nên không được sử dụng nữa.
Ngày nay tuy các thuốc ức chế chọn lọc ra đời nhưng cũng còn nhiều tác
dụng không mong muốn cần lưu ý như tụt huyết áp tư thế, chóng mặt, nhức
đầu, khô miệng, xuất tinh ngược dòng; các tác dụng ngoại ý này đôi khi
nặng nề đến mức làm bệnh nhân phải chấm dứt điều trị. Do cấu trúc tuyến
tiền liệt khác nhau với từng cá thể nên hiệu quả điều trị cũng khác nhau, vì
vậy nếu điều trị trong 8 tuần nhưng không hiệu quả thì đa số tác giả khuyên
nên đổi phương thức điều trị khác.
Các thảo dược: Ở châu Âu các thảo dược khá thịnh hành trong điều trị bướu
tuyến tiền liệt, điển hình là Pygeum Africanum và Serenoa Repens, còn ở
Việt Nam cũng sử dụng Trinh nữ hoàng cung. Tuy các nghiên cứu cho thấy

các thuốc này cũng có hiệu quả cải thiện chất lượng cuộc sống nhưng thành
phần chủ yếu là chất gì cũng khó xác định. Cơ chế tác dụng cũng không rõ
ràng tuy là có nghiên cứu cho là tác dụng vào nguyên bào sợi như trong
trường hợp Pygeum Africanum, Trinh nữ hoàng cung hay có tác dụng trên
mô tuyến như trong Serenoa Repens. Các thảo dược này ít ghi nhận tác
dụng phụ và các tương tác với các thuốc khác. Khi dùng thuốc triệu chứng có
thể cải thiện nhưng cần thời gian tương đối dài hơn các thuốc ức chế giao
cảm alpha.
Điều trị ngoại khoa
Hiện nay về điều trị ngoại khoa bướu lành tuyến tiền liệt có rất nhiều phương
pháp, điều đó cho thấy không có phương pháp nào là tuyệt hảo có thể ứng
dụng cho tất cả bệnh nhân, mỗi phương pháp đều có những hạn chế nhất
định và khi áp dụng cần phải lưu ý một số vấn đề; trong phạm vi bài này
chúng tôi chỉ đề cập đến các phương pháp hiện áp dụng tại Việt Nam.
Mổ hở bóc bướu: Đây là phương pháp hữu hiệu trong điều trị các bướu lành
tuyến tiền liệt lớn, rất thịnh hành tại Việt Nam trong khoảng thập niên trước.
Mổ hở bóc bướu là một cuộc mổ tương đối lớn đối với bệnh nhân cao tuổi,
thường có nhiều bệnh phối hợp, phẫu trường sâu nên cầm máu khó vì thế


khi quyết định phẫu thuật cần phải khảo sát tình trạng sức khỏe bệnh nhân
về hô hấp, tim mạch, chức năng đông máu, … Hiện nay phương pháp này rất
ít được dùng vì tính xâm hại của nó.
Cắt đốt nội soi là phương pháp được sử dụng rộng rãi hiện nay không chỉ ở
Việt Nam mà còn trên thế giới vì tính hiệu quả cao và ít xâm hại hơn mổ hở
bóc bướu nhiều. Tuy nhiên khi áp dụng phương pháp này cần lưu ý có thể có
chảy máu lúc mổ và chảy máu thứ phát nhiều ngày sau khi xuất viện, có thể
có ngộ độc nước, hẹp niệu đạo, … và cần lưu ý là có tỉ lệ tử vong nhưng
thường rất thấp.
Điều trị bóc hơi bướu với Laser KTP: với phương pháp này bệnh nhân ít bị

chảy máu hơn, có thể rút thông tiểu sau 24 giờ nhưng khi thực hiện thủ
thuật vẫn phải cho ngủ hay tê tủy sống nên vẫn có tính xâm hại đáng kể.
Với phương pháp này thường chỉ áp dụng với các bướu có khối lượng vừa hay
nhỏ, với các bướu quá to thường không bóc hơi hết bướu mà chỉ tạo một
đường hầm và bệnh nhân có cải thiện triệu chứng tiểu khá rõ rệt nhưng
trong trường hợp đó có thể bệnh nhân bị tiểu khó lại sau vài năm. Phương
pháp điều trị này không thể lấy mẫu mô để thử giải phẫu bệnh nên cần truy
tầm ung thư tuyến tiền liệt trước khi điều trị. Ngoài ra có thể có chảy máu
thứ phát sau thủ thuật và vẫn có thể có nguy cơ hẹp niệu đạo.
Điều trị xâm hại tối thiểu
Mở bàng quang ra da: chỉ áp dụng khi tổng trạng bệnh nhân quá yếu, đây là
một phẫu thuật nhẹ, tiến hành với tê tại chỗ là đủ, có thể mở bàng quang ra
da bằng trocar và tiến hành tại giường bệnh nhưng cần lưu ý là chất lượng
cuộc sống kém, vẫn có trường hợp chảy máu khi bệnh nhân dùng thuốc
chống đông. Cần thay thông thường xuyên mỗi 2 tuần.
TUNA (Đốt tuyến tiền liệt bằng sóng cao tần): phương pháp khá hữu hiệu có
thể áp dụng với vô cảm tại chỗ nhưng có khuyết điểm là hiệu quả không
cao, nhất là khi bệnh nhân bị bế tắc đường tiểu dưới nặng, bướu quá to. Cần
lưu ý là triệu chứng bệnh có thể tái phát sau 2-3 năm, phương pháp này
không lấy mẫu mô thử giải phẫu bệnh được.
Tiêm độc tố botulinum vào tuyến tiền liệt: đây là một phương pháp nhẹ
nhàng, đơn giản, thậm chí còn ít xâm hại hơn mở bàng quang ra da nhưng
cũng như TUNA hiệu quả không cao, thời gian tái phát càng ngắn hơn nên
mỗi 9-12 tháng phải làm lại và chi phí cao.
Kết luận: bướu lành tuyến tiền liệt là một bệnh lý phổ biến ở những người
nam lớn tuổi. Hiện tại có nhiều phương pháp điều trị nhưng chưa có phương
pháp nào là tuyệt hảo, trong khi chờ đợi một phương pháp lý tưởng nhất


trong tương lai thì trong giai đoạn hiện nay cần cân nhắc kỹ trước khi chọn

phương pháp điều trị và khi tiến hành điều trị theo phương pháp nào cũng
nên lưu ý đề phòng các tai biến, biến chứng có thể xảy ra.



×