Tải bản đầy đủ (.doc) (165 trang)

vấn đề phát triển con người toàn diện ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (745.65 KB, 165 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong mọi thời đại lịch sử, vấn đề con người luôn là vấn đề trung tâm của
triết học. Học thuyết Mác là sự tiếp nối và là bước ngoặt trong nhận thức về phát
triển con người, nó tạo ra tiền đề lý luận để nhân loại bước sang một kỷ nguyên
mới, “con người từ vương quốc của tất yếu chuyển sang vương quốc của tự do”
và ngược lại “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự
do của tất cả mọi người”. Đây là bản chất nhân văn sâu xa của học thuyết Mác
và qua đó, nó định hướng cho sự phát triển tiến bộ tiếp theo của loài người.
Là người Việt Nam đầu tiên đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ
Chí Minh, hơn ai hết là người ý thức rõ, nhận thức sâu sắc học thuyết Mác về
con người và phát triển con người toàn diện. Tiếp thu và vận dụng sáng tạo học
thuyết đó của chủ nghĩa Mác vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định: “con người là vốn quý nhất, chăm lo
cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta”, rằng
“muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ
nghĩa”. Từ lập trường tư tưởng đó, mọi hoạt động của Hồ Chí Minh luôn luôn
“vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Và việc xây
dựng con người Việt Nam mới – con người phát triển toàn diện đã trở thành tư
tưởng quán xuyến, nhất quán trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
Người. Và với Người, “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”, đào tạo
“những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa”, có sự phát triển toàn diện,
“vừa hồng, vừa chuyên”, vừa có đức, vừa có tài, bao giờ cũng là “một việc rất
quan trọng và rất cần thiết”, là mối quan tâm hàng đầu.
Lấy chủ nghĩa Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người và phát
triển con người toàn diện làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho đường lối
và chiến lược phát triển con người toàn diện ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt
1
Nam đã ban hành và thực hiện trên thực tế đường lối và nhiều chủ trương, chính
sách, giải pháp phát triển con người Việt Nam mới - con người Việt Nam phát
triển toàn diện cả về trí lực lẫn thể lực, cả về khả năng lao động lẫn tính tích cực


chính trị - xã hội, cả về lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản
lĩnh văn hoá, nhằm thực hiện thành công chiến lược phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao cho công cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và hội nhập quốc tế.
Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, trong những năm qua, chúng
ta đã gặt hái được nhiều thành tựu to lớn về phát triển con người toàn diện. Con
người Việt Nam không ngừng phát triển cả về thể lực, trí lực và tâm lực, có ý
thức và khả năng làm chủ ngày càng cao. Song, trong bối cảnh hiện nay, khi
nhân loại đã và đang có những bước tiến rất dài trong chiến lược và thực tiễn
phát triển con người. Cùng với đó là sự phát triển như vũ bão của cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ, của xu thế hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri
thức, đòi hỏi chúng ta phải có sự phát triển nhanh về chất lượng con người Việt
Nam, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đang đặt ra.
Đáp ứng sự đòi hỏi đó, trong gần 30 năm đổi mới, nhất là trong những
năm gần đây, ở Việt Nam đã có không ít công trình nghiên cứu, đề tài khoa học,
luận án tiến sĩ, luận văn cao học lấy quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác - Lênin về con người, bản chất con người, giải phóng con người và phát
triển con người toàn diện. Lấy tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người
Việt Nam mới, “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”, đào tạo “những người
kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội” và lấy quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về phát triển con người Việt Nam hiện đại - con người Việt Nam của thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức
làm đối tượng nghiên cứu. Không ít những đề tài và chương trình khoa học đã
được ứng dụng trong thực tế và kết quả đạt được trong sự nghiệp phát triển con
người Việt Nam cũng không nhỏ. Tuy nhiên, bản thân sự phát triển con người ở
nước ta đã và đang tồn đọng nhiều yếu kém, nhiều hạn chế và nhiều bất cập,
2
như: thể lực con người Việt Nam còn chưa tốt, mặt bằng dân trí còn chưa cao,
trình độ chuyên môn và trình độ khoa học, kỹ thuật của người lao động còn thấp,
tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm còn chưa cao, tính sáng tạo và khả năng thích

ứng với những biến đổi mới trong lao động và cuộc sống còn chưa tốt, sự tự mãn
dẫn đến tinh thần học hỏi và trí tiến thủ còn yếu…. Nhiều vấn đề khác, như: sự
chênh lệch về mức sống và điều kiện sống của người dân giữa các vùng, miền,
các dân tộc, các bộ phận dân cư; tình trạng thất nghiệp còn nhiều; tình trạng mất
dân chủ trong xã hội làm cho quyền của một bộ phận không nhỏ nhân dân bị vi
phạm; sự yếu kém về y tế và trong công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng; sự
yếu kém, bất cập trong giáo dục - đào tạo; nạn ô nhiễm môi trường, bệnh dịch;
sự xuống cấp về văn hóa cũng như sự suy thoái về đạo đức, lối sống và thẩm
mỹ, v.v và v.v cũng đã và đang trở thành lực cản và là thách thức rất lớn cho
sự phát triển con người Việt Nam. Tất cả những vấn đề đó đặt ra: phải có một
công trình có khả năng cung cấp cơ sở lý luận, phương pháp luận và cơ sở thực
chứng khoa học, sát thực, khả thi nhằm đẩy mạng sự nghiệp xây dựng con người
Việt Nam mới – con người phát triển toàn diện, đáp ứng sự đòi hỏi của thực tiễn.
Với những lý do trên đây, chúng tôi chọn Vấn đề phát triển con người toàn
diện ở Việt Nam hiện nay làm đề tài nghiến cứu cho luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ quan niệm về phát triển con người toàn diện trong học
thuyết Mác, trong tư tưởng Hồ Chí Minh và trong quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam, luận án phân tích thực trạng, những vấn đề đặt ra trong phát triển con
người toàn diện ở Việt Nam hiện nay; từ đó, xác định định hướng, đề xuất một
số giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển con người toàn diện ở Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ cụ
thể sau đây:
3
Thứ nhất, luận giải quan niệm của C.Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người toàn diện.
Thứ hai, phân tích thực trạng và luận giải những vấn đề đặt ra trong phát
triển con người toàn diện ở Việt Nam trong những năm đổi mới vừa qua.

Thứ ba, xác định định hướng, đề xuất và luận giải một số giải pháp nhằm
đẩy mạnh phát triển con người toàn diện ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là quan niệm của C.Mác, tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển
con người toàn diện; thực trạng và những vấn đề đặt ra trong phát triển con
người toàn diện ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận án nghiên cứu quan niệm của C.Mác về phát triển con người toàn
diện được ông đưa ra trong một số tác phẩm tiêu biểu; đồng thời tập trung
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện trong các
tác phẩm mà Người viết và nói về mục tiêu xây dựng con người Việt Nam hiện
đại. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự phát triển con người toàn
diện ở Việt Nam được luận án nghiên cứu qua đường lối, chủ trương của
Đảng trong thời kì đổi mới đất nước.
- Luận án tập trung khảo sát thực trạng và những vấn đề đặt ra trong phát
triển con người toàn diện ở Việt Nam trong những năm đổi mới đất nước.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận, phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người toàn diện.
4
Luận án dựa trên những tác phẩm lý luận chủ yếu của C.Mác và
Ph.Ăngghen, Hồ Chí Minh; các văn kiện, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt
Nam; dựa vào các nguyên tắc và tiêu chí đánh giá phát triển con người của
Chương trình phát triển liên hợp quốc - UNDP, đồng thời kế thừa có chọn lọc
những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài của các học giả đi trước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu

Để nghiên cứu và trình bày kết quả nghiên cứu, trong luận án này, chúng
tôi sử dụng các phương pháp như: phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch sử, tổng
hợp và khái quát hoá, đối chiếu và so sánh, thống kê
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án đã đưa ra và khẳng định: Phát triển con người toàn diện ở Việt
Nam hiện nay là sự phát triển toàn diện, hài hòa giữa con người cá nhân và con
người xã hội; giữa thể lực, trí lực và tâm lực; giữa đức và tài; giữa “hồng” và
“chuyên” trong mỗi con người; phát triển cá tính và sự phong phú của bản chất
con người, làm cho con người trở thành một nguồn lực chủ yếu, một chủ thể vẹn
toàn cả về năng lực lẫn phẩm chất, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
- Từ thực trạng phát triển con người toàn diện ở Việt Nam, luận án đã
đưa ra và luận giải một số vấn đề đặt ra: 1) Mâu thuẫn giữa yêu cầu khách
quan của sự phát triển nhanh về con người toàn diện với thực tế phát triển con
người toàn diện ở nước ta còn chậm; 2) Mâu thuẫn giữa yêu cầu cần phải tạo
ra những điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi cho phát triển con người toàn
diện với thực tế yếu kém, bất cập của những điều kiện này là trở lực đối với
phát triển con người toàn diện ở Việt Nam.
- Luận án xác định định hướng cơ bản và đề xuất, luận giải tính khả thi
của một số giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển con người toàn diện, đáp ứng
những đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển
kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Ở một mức độ nhất định, luận án góp phần làm sáng tỏ lý luận chung về
phát triển con người toàn diện.
- Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng,
hoạch định chiến lược phát triển con người Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.
- Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,

giảng dạy triết học Mác - Lênin về vấn đề con người và phát triển con người.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Vấn đề con người, phát triển con người đã được nghiên cứu từ rất sớm
trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, ở cả phương Đông lẫn phương Tây. Tuy
nhiên, đến những năm 80 của thế kỉ XX, vấn đề con người và phát triển con
người mới thực sự được nghiên cứu một cách sâu rộng, thành quả lớn đầu tiên là
báo cáo phát triển con người của Chương trình phát triển liên hợp quốc – UNDP,
năm 1990. Ở Việt Nam, vấn đề con người và phát triển con người, mặc dù mới
được quan tâm nghiên cứu trong những năm gần đây. Nhưng cho đến nay, đã có
rất nhiều công trình nghiên cứu được đăng tải trên các tạp chí triết học, nghiên
cứu con người, xã hội học, tâm lý học, …, nhiều sách tham khảo, chuyên khảo,
giáo trình được đăng tải khắp cả nước, một số công trình khoa học cấp bộ, cấp
nhà nước, luận văn thạc sỹ, luận án tiến sĩ đã bảo vệ thành công. Chúng ta cũng
đã có báo cáo quốc gia về phát triển con người, lần đầu tiên vào năm 2001 và
những năm tiếp theo. Có thể nói, các nhà nghiên cứu đã tiếp cận vấn đề này ở rất
nhiều góc độ khác nhau, nhiều chuyên ngành khoa học khác nhau. Đồng thời họ
cũng luận giải vấn đề này một cách hết sức đa dạng và sâu sắc trên cả bình diện
lý luận và thực tiễn. Vì vậy, việc nghiên cứu tổng quan các công trình nghiên
cứu liên quan đến đề tài luận án là hết sức cần thiết, trước tiên giúp chúng tôi có
một cái nhìn tổng thể về các công trình khoa học có nội dung liên quan đến đề
tài. Quan trọng hơn, nó sẽ cho chúng tôi những cơ sở lý luận, phương pháp luận,
những luận cứ, luận chứng cho việc nghiên cứu đề tài. Đồng thời, cũng giúp
chúng tôi tham chiếu nội dung đề tài của mình với những công trình khoa học
đó, để tránh sự trùng lặp, phát huy những thành quả đã đạt được, tránh những

hạn chế mà các đề tài đó mắc phải. Hơn nữa, cho phép chúng tôi tập trung vào
những điểm mới cần được nghiên cứu trong đề tài.
7
1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LÝ LUẬN CHUNG VỀ
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN
Cuốn sách Về vấn đề xây dựng con người mới [16], là công trình tập hợp
nhiều bài viết của một tập thể tác giả, ngoài phần mở đầu và kết luận, công trình
được chia làm hai phần. Phần thứ nhất, bao gồm các bài viết về những tư tưởng
về con người trong lịch sử triết học phương Đông, phương Tây. Phần thứ hai,
chia làm hai mục I và II, tập hợp bảy bài viết của các nhà khoa học. Các bài viết
trong cuốn sách đã khẳng định vấn đề con người là vấn đề trọng tâm được
nghiên cứu trong suốt quá trình lịch sử phát triển của tư tưởng của nhân loại. Xã
hội càng phát triển, sự nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò và cuộc sống của chính
bản thân con người càng được quan tâm hàng đầu. Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời
là bước ngoặt cách mạng trong nghiên cứu con người và sự phát triển con người.
Dưới ánh sáng của Đại hội Đảng IV về nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới
và xây dựng con người Việt Nam mới, các tác giả đã luận giải một cách sâu sắc
các nội dung, tiêu chuẩn, phương thức và biện pháp để xây dựng con người Việt
Nam mới, trong bài: “Triết học và nhiệm vụ nghiên cứu vấn đề xây dựng con
người mới dưới ánh sáng của Đại hội Đảng lần thứ IV”, tác giả Phạm Như
Cương đã cho rằng: “Phương hướng chung của việc xây dựng con người mới xã
hội chủ nghĩa là con người phát triển toàn diện, cân đối, là chăm lo đến mọi mặt
của đời sống con người. Nhưng vấn đề cấp bách nhất hiện nay là xây dựng một
phong cách lao động mới: Lao động vì tập thể, lao động có kỷ luật, có kỹ thuật,
có năng xuất lao động cao, có hiệu quả lao động thiết thực. Biết lao động vì tập
thể thành nghĩa vụ của mỗi người, thành niềm vinh dự và tự hào cao nhất của
mỗi người, là cả một cuộc cách mạng sâu sắc về thái độ và kỷ luật lao động.
Một cuộc cách mạng như vậy trong ý thức, tâm lý của mỗi cá nhân và của cả xã
hội chỉ có thể là kết quả của sự kết hợp các biện pháp giáo dục, kinh tế, hành
chính, pháp luật” [16, tr.55-56].

8
Nguyễn Thế Kiệt trong Luận án phó tiến sỹ của mình với đề tài: Vai trò của
những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong việc xây dựng con người
mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [71], trên cơ sở quan
điểm mácxít về mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan với
tính cách là nguyên tắc phương pháp luận nền tảng, luận án này đã luận giải vấn
đề xây dựng con người Việt Nam mới. Trong đó, tác giả luận án đặc biệt nhấn
mạnh đến vai trò lãnh đạo của Đảng, nhất là đội ngũ đảng viên – với tư cách là
nhân tố chủ quan có vị trí hàng đầu trong việc xây dựng con người Việt Nam
mới. Theo tác giả luận án, “xây dựng con người trong hàng ngũ Đảng với tư
cách là bộ phận tiên phong của toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”,
là “mắt xích chủ yếu của việc xây dựng con người mới trong quảng đại quần
chúng” [71, tr.5]. Có thể nói, đây là luận án có giá trị về lý luận và thực tiễn
trong việc nghiên cứu con người, cũng như việc xây dựng chiến lược phát triển
con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Cuốn sách Vấn đề con người và chủ nghĩa “Lý luận không có con người”
[133]. Ngoài phần nhập đề và phụ lục, cuốn sách gồm sáu chương. Đồng thời với
việc phê phán chủ nghĩa lý luận không có con người của phái Althusser ở Pháp
trong việc phái này cho rằng chủ nghĩa Mác là thứ lý luận không có con người (con
người nói chung), tác giả cuốn sách đã luận giải sâu sắc về những giá trị của chủ
nghĩa Mác - Lênin và khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin luôn xem con người là vấn
đề cơ bản và mục đích tối hậu của học thuyết này là nhằm giải phóng và phát triển
con người. Vì vậy, cuốn sách là tài liệu quan trọng trong nghiên cứu về con người
và phát triển con người toàn diện.
Tư tưởng triết học về con người [126], cuốn sách bao gồm 9 chương. Đây
là cuốn sách thể hiện công tình nghiên cứu công phu, có hệ thống về vấn đề con
người trong lịch sử tư tưởng triết học của nhân loại. Trên cơ sở luận giải các
quan điểm về con người của những nhà triết học tiêu biểu của các trường phái,
các nền triết học trong lịch sử, các tác giả khẳng định triết học Mác - Lênin nói
riêng, chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung có mục đích cao nhất là khắc phục sự

9
tha hóa con người, giải phóng và phát triển con người. Lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin về con người thể hiện tính nhân văn, nhân đạo, khoa học và cách
mạng triệt để.
Cuốn sách: Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội [135]
được kết cấu theo hai chương: Chương 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người;
Chương 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội. Các tác giả của công
trình này đã trình bày tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người và về chính sách
xã hội trong mối quan hệ biện chứng tạo thành một chỉnh thể. Các tác giả đã luận
giải những tác phẩm và những luận điểm của Hồ Chí Minh về con người; về sự
yêu thương, kính trọng con người; về vai trò và vị trí của các bộ phận quần
chúng nhân dân trong đấu tranh cách mạng. Trên cơ sở đó, các tác giả đã luận
giải nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về các chính sách xã hội nhằm đảm bảo
công bằng và tiến bộ xã hội với mục tiêu cao quý là làm cho mọi người dân Việt
Nam có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện - cả
đức và tài, có lý tưởng cách mạng.
Đặng Hữu Toàn - một trong những nhà khoa học có nhiều tâm huyết trong
nghiên cứu về con người và phát triển con người Việt Nam. Trong bài “Phát
triển vì con người trong quan niệm của Mác và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nhằm mục tiêu phát triển con người ở nước ta hiện nay” [141], trên cơ sở
luận giải mục tiêu tối hậu trong quan điểm của C.Mác là vì sự nghiệp giải phóng
con người, tác giả đã luận giải một cách sâu sắc những quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong chỉ đạo sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì
mục tiêu phát triển con người Việt Nam. Cũng trong năm đó, trên Tạp chí Khoa
học xã hội, với tiêu đề "Phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư cách là
mục tiêu, động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [142],
tác giả tiếp tục khẳng định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhằm mục
tiêu phát triển con người Việt Nam toàn diện, có đủ đức và tài, có chuyên môn
giỏi, có trình độ khoa, học kỹ thuật, có đạo đức và bản lĩnh chính trị Và chính
10

những con người Việt Nam phát triển toàn diện đó trở thành động lực của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, tác giả cũng thấy
rằng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội kinh tế quốc tế cũng có
nhiều mặt trái tác động đến đời sống xã hội, đặt ra nhiều thánh thức trong chiến
lược phát triển con người Việt Nam. Từ nhận thức đó, tác giả đã đi tới quan
điểm rằng, phát triển con người Việt Nam cần phải gắn với phát triển văn hóa, và
trong bài“Gắn phát triển con người Việt Nam hiện đại với giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc” [143], tác giả đã khẳng định văn hóa là động lực quan
trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội, vì vậy “phát triết văn hóa, giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cũng cần phải được coi là quốc sách hàng
đầu” [143, tr.9]. Và trong mối quan hệ với con người thì con người là chủ thể
sáng tạo văn hóa, đồng thời văn hóa sẽ hướng con người đến với giá trị chân -
thiện - mỹ. Do đó, “văn hóa, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
không thể đứng ngoài chiến lược phát triển con người Việt Nam hiện đại” [143,
tr.9]. Hơn nữa, sự phát triển con người là thước đo quan trọng hàng đầu về tính
nhân văn của sự tiến bộ xã hội – điều này được tác giả luận giải trong bài “Phát
triển con người - thước đo nhân văn của tiến bộ xã hội trong thời đại ngày nay và
trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam” [147]. Có thể nói, những công trình khoa
học này là cơ sở lý luận quan trọng cho việc nghiên cứu con người và phát triển
con người toàn diện Việt Nam.
Phát triển con người - từ quan niệm đến chiến lược và hành động [161]
-Công trình tập hợp một số bài viết của các nhà khoa học trên thế giới, trong đó có
Amartya Sen - Người được nhận giải Noben về kinh tế năm 1999 nhờ đóng góp to
lớn của ông trong việc nghiên cứu vấn đề đói nghèo và phát triển con người. Các
tác giả đã trình bày quan điểm của mình về khái niệm con người, chiến lược phát
triển con người, đồng thời đưa ra các công cụ phân tích, đánh giá trình độ phát
triển con người; nguồn lực và những nhân tố tác động đến phát triển con người, và
về thực trạng phát triển con người ở các nước trên thế giới. Các tác giả đã khẳng
11
định, việc phát triển con người là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nhân

loại trong kỷ nguyên mới. Công trình cũng là cơ sở tham chiếu quan trọng cho vấn
đề phát triển con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá [48],
Cuốn sách do GS,VS Phạm Minh Hạc chủ biên, đây là một công trình khoa học
thể hiện sự nghiên cứu công phu của các tác giả về vấn đề phát triển con người
Việt Nam theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Cuốn sách được chia làm hai phần với
mười hai chương nội dung. Ở phần thứ nhất của cuốn sách, các tác giả đã trình
bày những cơ sở khoa học của chiến lược phát triển toàn diện con người Việt Nam
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cơ sở lý luận cho chiến lược phát triển con
người toàn diện ở Việt Nam chính là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Bên cạnh đó, kinh nghiệm của nước ngoài về phát triển con người cũng là
cơ sở quan trọng trong việc phát triển con người Việt Nam. Đông thời, sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện hóa đất nước đã trở thành cơ sở thực tiễn của chiến lược
phát triển con người toàn diện ở Việt Nam. Các tác giả cũng đã đưa ra mô hình
nhân cách con người Việt Nam, con người Việt Nam là “Con người có lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, giữ gìn và phát huy
các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại;
có ý chí kiên cường, có hoài bão lớn lao phát huy tiềm năng của dân tộc và con
người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, có tư
duy sáng tạo và có óc thực nghiệm, có kỹ năng thực hành giỏi, tay nghề cao, có
tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, tinh thần trách nhiệm cao, có
lòng nhân ái, tôn trọng và hợp tác được với người khác, có sức khỏe, có khả năng
tự hoàn thiện không ngừng, năng động và thích ứng, có tinh thần pháp luật và có
ý thức công dân, ý thức bảo vệ môi sinh, biết yêu cái đẹp” [48, tr.106-107]. Đó là
mô hình gắn bó chặt chẽ giữa đức và tài trong con người. Trong phần thứ hai, các
tác giả đã đưa ra định hướng chiến lược và luận giải những giải pháp cụ thể cho
việc phát triển con người Việt Nam trên bốn phương diện cơ bản là đạo đức, trí
tuệ, thẩm mỹ và thể chất.
12
Nguyễn Hữu Công trong Luận án tiến sỹ triết học, với đề tài: Tư tưởng Hồ

Chí Minh về phát triển con người toàn diện [14], tác giả luận án đã trình bày
trong ba chương nội dung. Chương thứ nhất, trình bày hai cơ sở lý luận cơ bản
để hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát triển con người toàn
diện. Bên cạnh việc nhấn mạnh tư tưởng của Dân tộc Việt Nam, tác giả đã khẳng
định chủ nghĩa Mác - Lênin là tiền đề lý luận cơ bản cho sự hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện. Chương thứ hai, trình bày nội
dung tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện, đồng thời luận
giải vai trò của các nhân tố kinh tế, chính trị, văn hóa trong quá trình hình thành
và phát triển con người toàn diện. Theo tác giả: “Để có những con người phát
triển toàn diện cho chế độ mới, xã hội cần phải tạo ra được những điều kiện
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội phù hợp, phải tổ chức giáo dục, đào tạo, phát
triển con người mọi mặt. Có như vậy, sự nghiệp đào tạo, phát triển con người
toàn diện ở Việt Nam mới có thể đi tới thành công” [14, tr.128].
Triết học Mác - Lênin về con người và việc xây dựng con người Việt Nam
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa [170], Cuốn sách gồm 3 chương.
Trong chương 1. Những quan điểm cơ bản của triết học Mác - Lênin về con
người, trên cơ sở phê phán những hạn chế và sai lầm của một số quan niệm trước
Mác về con người, tác giả đã khẳng định sự ra đời của chủ nghĩa Mác là bước
ngoặt cách mạng trong quan niệm về con người. Các quan điểm của Mác,
Ăngghen, Lênin về bản chất con người, về con người - chủ thể sáng tạo của lịch
sử và giải phóng con người được tác giả phân tích sâu sắc và đi đến khẳng định,
học thuyết Mác - Lênin đã “coi con người là điểm xuất phát và sự giải phóng con
người là mục tiêu cao nhất mà nhân loại cần đạt tới” [170, tr.31]; “giải phóng
con người là đưa con người ra khỏi sự khép kín về đẳng cấp, địa vị, về vị trí của
con người trong xã hội, là sự thừa nhận bản chất phổ biến của con người, thừa
nhận bản tính loài của con người xuyên suốt sự tồn tại hiện thực của con người;
làm cho lao động và hòa bình, nhân bản, nhân đạo và bình đẳng…những thuộc
13
tính nội tại của con người được thực hiện vững chắc ở từng con người và cả
cộng đồng xã hội” [170, tr.81]. Và “con đường duy nhất để thực hiện sự giải

phóng ấy là tiến hành cuộc cách mạng vô sản, xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản” [170, tr.98].
Mấy vấn đề triết học về xã hội và phát triển con người [62], Cuốn sách
được kết cấu thành hai phần chính. Phần thứ nhất với nhan đề chủ nghĩa xã hội
và sự phát triển xã hội Việt Nam, được tác giả Nguyễn Văn Huyên trình bày
trong mười một chương nội dung. Trong phần này, trên cơ sở cho rằng chủ
nghĩa xã hội là xu hướng phát triển tất yếu của xã hội loài người, tác giả đã
khẳng định chỉ có chủ nghĩa xã hội mới là môi trường, điều kiện để tiến tới
phát triển con người Việt Nam. Phần thứ hai của cuốn sách với nhan đề lý
tưởng xã hội chủ nghĩa và vấn đề phát triển con người ở Việt Nam và được
trình bày trong mười chương nội dung. Tác giả cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin
là cơ sở lý luận quan trọng cho sự nghiệp phát triển con người Việt Nam
(chương 2), đồng thời tác giả đã đưa ra hướng tiếp cận mới về con người và
phát triển con người, theo tác giả “quá trình tiến bộ của lịch sử vươn tới tự do
- hạnh phúc, chính là quá trình giảm dần mẫu số hy sinh, chịu đựng, tăng dần
tử số thưởng ngoạn, hưởng thụ cho con người. Sáng tạo, cống hiến - tạo ra văn
hóa, làm phong phú thế giới xã hội bên ngoài và thưởng ngoạn, hưởng thụ - sự
văn hóa bản thân, làm giàu thế giới tinh thần bên trong - đó là một trong
những nội dung quan trọng nhất, cao cả nhất, tập trung nhất của đời sống con
người; đó cũng chính là nội dung quan trọng nhất của mục tiêu và chiến lược
phát triển con người hiện đại” [62, tr.153-154]. Từ đó tác giả cho rằng, con
người hiện đại là con người phải có trí tuệ, có kỹ năng nghề nghiệp, có trình độ
khoa học, kỹ thuật. Đặc biệt là phải biết sáng tạo, biết thưởng ngoạn - hưởng
thụ văn hóa. Rằng văn hóa, các giá trị nhân văn và kinh tế thị trường, môi
trường đô thi, văn hóa thẩm mỹ, nghệ thuật và giáo dục là những nhân tố cho
sự hình thành và phát triển các phẩm chất đó của con người hiện đại.
14
Cuốn sách Con người và phát triển con người: trong quan niệm của
C.Mác và Ph.Ăngghen [117], do Hồ Sĩ Quý chủ biên. Cuốn sách gồm 2
phần. Phần thứ nhất: Di sản kinh điển - những tư tưởng cơ bản về con người

và phát triển con người. Phần này trình bày những luận điểm về con người
và phát triển con người trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, tương
ứng với các quan điểm đó là các trích dẫn tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ăngghen về chủ đề con người, về bản chất con người, về vấn đề giải
phóng con người. Phần thứ hai: Di sản kinh điển nhìn từ thời đại ngày nay -
ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận đối với nhận thức và phát triển
con người. Phần này gồm những bài viết của các tác giả, trong đó phân tích,
làm sáng tỏ quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn đề con người và
phát triển con người. Trong bài: Học thuyết Mác về con người và giải phóng
con người, PGS,TS Đặng Hữu Toàn đã khẳng định vấn đề cơ bản trong học
thuyết Mác là coi “con người là điểm xuất phát và giải phóng con người là
mục tiêu cao cả nhất mà nhân loại cần đạt tới” [117, tr.479]. Cuốn sách là
tư liệu quan trọng cho việc nghiên cứu cơ sở lý luận và phương pháp luận
phục vụ nghiên cứu vấn đề con người và phát triển con người.
Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh - Phương pháp luận nghiên cứu con
người: Niên giám nghiên cứu [49], do GS,VS Phạm Minh Hạc chủ biên. Cuốn
sách được chia làm 3 phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh - Những vấn đề phương pháp
luận; Hồ Chí Minh và sự nghiệp phát triển con người; Hồ Chí Minh với các thế
hệ người Việt Nam. Đây là một công trình trình tập hợp nhiều bài viết của các tác
giả và được trình bày một cách có hệ thống, phản ánh sâu rộng những tư tưởng,
quan điểm và triết lý của Hồ Chí Minh về con người, bản chất con người,
phương pháp luận nghiên cứu con người, sự nghiệp trồng người, và về con người
phát triển toàn diện; tư tư tưởng của Hồ Chí Minh về lao đồng và người lao
động, trí thức, người nghệ sỹ, người cán bộ, người cao tuổi, phụ nữ, thanh niên,
trẻ em. Trong đó, có nhiều bài viết của những người đã nhiều lần tiếp xúc và làm
việc với Chủ tịch Hồ Chí Minh, như Đại tướng Võ Nguyên Giáp (bài Chủ tịch
15
Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng và phát triển con người), Tố Hữu (bài Chủ
tịch Hồ Chí Minh và con người Việt Nam), Vũ kỳ (bài chuyện Bác Hồ viết di
chúc), Hoàng Tùng (bài Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh)…và báo

cáo của một số chuyên gia đã có nhiều năm nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí
Minh như GS,VS,TSKH Nguyễn Duy Quý; GS Đặng Xuân Kỳ, đồng chí Việt
Phương, GS Hồ Tôn Trinh, ; nhiều nhà nghiên cứu tâm huyết với sự nghiệp giáo
dục và phát triển con người, như GS,VS Phạm Minh Hạc; GS,TS Phan Ngọc
Liên, Chính vì vậy, cuốn sách cung cấp cho những người nghiên cứu về Hồ
Chí Minh, nhất là nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và con người
Việt Nam phát triển toàn diện những cơ sở lý luận, phương pháp luận và luận cứ
hết sức quan trọng.
Giáo trình Con người và phát triển con người [119]. Cuốn giáo trình này
được chia làm 3 phần, Phần 1. Một số vấn đề lý luận về con người và phát triển
con người, luận giải quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về việc nghiên cứu
con người là một khoa học. Tiếp đến làm rõ vấn đề khái niệm con người, bản
chất con người, con người trong quan hệ với giới tự nhiên và vấn đề phát triển
con người. Đồng thời khẳng định: “Nghiên cứu con người nói chung và con
người Việt Nam nói riêng, hiện đang đứng trước những nhu cầu đặc biệt cấp
thiết đặt ra từ sự phát triển của bản thân khoa học và từ sự phát triển của đất
nước trong tương quan chung với sự phát triển của khu vực, của thế giới và của
nhân loại” [119, tr.127]. Phần 2. Trình bày một số vấn đề phương pháp luận và
phương pháp nghiên cứu con người. Trong phần này, nhiều hướng nghiên cứu
con người đã được tác giả đưa ra, như: nghiên cứu phát triển con người, nguồn
lực con người, con người trong quan hệ với văn hóa, với môi sinh, nhân cách con
người, tiềm năng con người, tài năng, danh nhân…, nghiên cứu phức hợp về con
người, nghiên cứu định lượng về con người…tác giả khẳng định việc nghiên cứu
con người cần phải có sự kết hợp chặt chẽ của nhiều ngành khoa học, cả khoa
học lý luận chung (triết học) và các khoa học chuyên biệt, mới có thể xem xét
con người một cách đúng đắn, toàn diện.
16
Vấn đề xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, được trình bày trong phần thứ 3 của cuốn giáo trình. Trong đó,
những vấn đề đổi mới nhận thức lý luận về con người, con người Việt Nam

phát triển toàn diện, vai trò và vị trí của con người trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển kinh tế - xã hội mà tác giả đưa ra là
cơ sở lý luận và phương pháp luận quan trọng cho việc nghiên cứu sự phát
triển con người Việt Nam.
Bài viết “Một số vấn đề về con người trong quan niệm của C.Mác và
Ph.Ăngghen dưới ánh sáng của khoa học hiện đại” trong Triết học với đổi mới
và đổi mới nghiên cứu giảng dạy triết học [132], GS,TS Nguyễn Trọng Chuẩn
đã phân tích những quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen trong mối quan hệ
với các thành tựu khoa học hiện đại trong nghiên cứu con người, như tâm lý
học, khảo cổ học, xã hội học, nhân chủng học, sinh học, Từ đó làm sâu sắc
thêm về nguồn gốc, bản chất con người.
Con người - Văn hóa, quyền và phát triển [103], do Mai Quỳnh Nam
(chủ biên). Trong đó, bài viết của GS,VS Phạm Minh Hạc: “Vấn đề xây dựng
con người và phát triển nguồn nhân lực: Quan niệm và chính sách”; và bài:
“Người Việt Nam trong mối quan hệ giữa triết học, đạo đức và tôn giáo” của
GS Vũ Khiêu là hai bài viết đã đề xuất cơ sở phương pháp luận cho việc
nghiên cứu con người Việt Nam. Tiếp theo là ba phần nội dung: 1) Con người
và Văn hóa, 2) Quyền con người, 3) Phát triển con người, phát triển nguồn
nhân lực. Có thể nói, cuốn sách là công trình nghiên cứu công phu của tập thể
các tác giả. Với 34 bài viết, cuốn sách đề cập một cách sâu sắc các vấn đề về
mối quan hệ giữa văn hóa với con người, quyền con người, nguồn nhân lực và
sự phát triển con người. Cuốn sách là một tư liệu quý báu cho việc nghiên cứu
vấn đề phát triển con người toàn diện trên cả bình diện lý luận, phương pháp
luận, thực trạng và giải pháp.
17
Con người và văn hóa: Từ lý luận đến thực tiễn phát triển [109]. Cuốn
sách được chia làm hai phần. Phần thứ nhất, trình bày những quan niệm Đông -
Tây truyền thống và hiện đại về mối quan hệ giữa con người và văn hóa. Phần 2,
với 12 bài viết, là những nghiên cứu về ứng dụng thực tiễn các quan điểm truyền
thống và hiện đại (ở phần thứ nhất) trong sự nghiệp phát triển con người Việt

Nam. Cuốn sách là tài liệu tham khảo bổ ích cho việc nghiên cứu quan hệ biện
chứng giữa văn hóa và con người trong sự phát triển.
Nguyễn Thị Nga với bài: “Phát triển con người toàn diện ở Việt Nam những thập
niên đầu thế kỷ XXI” [105]. Tác giả bài viết khẳng định: “Con người là nhân tố
quan trọng nhất bảo đảm cho sự phát triển bền vững. Việc đầu tư cho sự phát
triển của con người không chỉ vì mục tiêu nhân văn mà còn là sự đầu tư có lợi
nhất cho sự phát triển bền vững”. Trên cơ sở luận giải một số vấn đề lý luận và
thực trạng về con người, phát triển con người toàn diện ở Việt Nam, tác giả đề
xuất một số giải pháp cơ bản có tính định hướng như những nguyên tắc cần được
quán triệt để có thể phát triển con người toàn diện.
Từ khi thành lập Đảng, nhất là trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng ta
luôn coi phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất và cũng là động lực lớn
nhất của cách mạng Việt Nam. Đặc biệt đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng ta đã coi
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong ba khâu đột phá trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020. Để nghị quyết của Đảng đi
vào cuộc sống, đã có nhiều công trình trình bày, phân tích và luận giải về những
chủ trương, đường lối và chiến lược phát triển con người Việt Nam theo các văn
kiện của Đảng, trong số đó, gần đây có các công trình như của PGS,TS Nguyễn
Thế Kiệt: “Xây dựng và phát triển con người, nâng cao chất lượng nguồn lực con
người trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay” [72]; Hoàng Đình Cúc:
“Vấn đề con người trong học thuyết Mác và phương hướng, giải pháp phát triển
con người cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay”
[15]; Trong cuốn Một số vấn đề triết học trong các văn kiện Đại hội XI của
Đảng [115], do PGS,TS Trần Văn Phòng và GS,TS Nguyễn Hùng Hậu đồng chủ
18
biên, có các bài: “Vấn đề phát huy nguồn lực con người ở Việt Nam hiện nay”
của PGS,TS Nguyễn Thế Kiệt; “Chiến lược phát triển con người trong Văn kiện
Đại hội XI của Đảng” của Bùi Thị Phương Thùy và bài “Phát huy nhân tố con
người theo tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI” của PGS,TS Nguyễn
Thị Nga. Những chủ trương, phương hướng và chiến lược về phát triển nguồn

nhân lực, phát triển con người Việt Nam của Đảng được các nhà khoa học đưa ra
và luận giải, hoặc chính các nhà khoa học của các công trình trên đề xuất là cơ
sở lý luận quan trọng cho việc nghiên cứu đề tài luận án của chúng tôi.
1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TRẠNG
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN Ở VIỆT NAM
Cuốn sách Phát triển con người - từ quan niệm đến chiến lược và hành động
[165]. Tác giả Keith Griffin và Terry Mckinley với bài viết “Hướng tới một chiến
lược phát triển con người”, đã trình bày thực trạng của nhiều vấn đề liên quan đến
sự phát triển con người ở nhiều nước trên thế giới, như những vấn đề suy dinh
dưỡng, tỷ lệ biết chữ của trẻ em, mức đầu tư cho y tế, giáo dục; thu nhập, bình đẳng
giới, thất nghiệp, Các dữ liệu được đưa ra về các vấn đề trên, nhất là những chỉ số
thấp, đòi hỏi mỗi quốc gia và cộng đồng thế giới phải có những chiến lược và hành
động để nâng cao chất lượng sống của con người trên hành tinh chúng ta; bài “Một
số vấn đề về phát triển con người Việt Nam” của Edouard A.Wattez - Điều
phối viên thường trú Liên hợp quốc ở Hà Nội - Việt Nam, đã đưa ra các kết
quả nghiên cứu một số vấn đề về thực trạng phát triển con người Việt Nam
trong những năm qua, trong đó tác giả khẳng định: “Tình trạng nghèo đói và
cận nghèo đói hiện nay vẫn đang là thách thức cấp bách nhất về phát triển
con người Việt Nam” [161, tr.11]. Vì vậy, ông đặt ra vấn đề là Việt Nam, mặc
dù đã đạt được nhiều thành tựu trong công cuộc đổi mới, góp phần tạo điều
kiện cho con người Việt Nam phát triển, song Đảng và Nhà nước Việt Nam
phải có những chiến lược, biện pháp tích cực hơn nữa. Đồng thời ông cũng
đưa ra quan niệm:“Phát triển con người là quá trình mở rộng cơ hội lựa chọn
để con người có thể nâng cao chất lượng cuộc sống toàn diện của chính mình
một cách bền vững” [161, tr.11].
19
Tác giả Vũ Thiện Vương với cuốn sách Triết học Mác - Lênin về con người
và việc xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa [170]. Trong chương 2 (Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và một số vấn đề đặt
ra đối với việc xây dựng con người Việt Nam theo quan điểm của triết học Mác -

Lênin về con người) của cuốn sách, tác giả đã nhấn mạnh yêu cầu khách quan
của việc xây dựng con người Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Thực trạng xây dựng con
người Việt Nam được tác giả phân tích qua ba giai đoạn cơ bản: Con người Việt
Nam truyền thống (giai đoạn trước khi Đảng ra đời), con người Việt Nam trước
đổi mới và sau đổi mới. Nhìn chung, tác giả đã phân tích thực trạng xây dựng
con người gắn với bối cảnh lịch sử của cách mạng Việt Nam, bên cạnh việc nêu
lên những bản chất tốt đẹp của người Việt Nam, những thành quả đạt được, tác
giả cũng đã trình bày những hạn chế của việc xây dựng con người Việt Nam. Từ
thực trạng đó, tác giả đã thẳng thắn đặt ra bốn vấn đề cần giải quyết để xây dựng
con người Việt Nam đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Thứ nhất,
vấn đề cơ cấu lao động còn bất hợp lý và lạc hậu; thứ hai, trình độ học vấn và
trình độ chuyên môn còn thấp; thứ ba, chính sách xã hội ở nước ta còn bộc lộ
nhiều bất cập; thứ tư, quyền dân chủ của nhân dân còn nhiều vấn đề tiếp tục
phải giải quyết.
Trong phần hai của cuốn sách Về phát triển toàn diện con người thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá [48], để luận giải cho những định hướng lớn cũng
như các giải pháp cụ thể về chiến lược phát triển con người Việt Nam trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, các tác giả đã đưa ra những luận cứ, luận
chứng dựa trên những khảo sát thực trạng về phát triển con người Việt Nam trên
cả bốn phương diện là đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và thể chất. Những kết quả khảo
sát thực tiễn về phát triển con người Việt Nam giai đoạn trước năm 2001, đồng
thời những mục tiêu phát triển con người Việt Nam đến năm 2005, 2010, và
những giai đoạn tiếp theo mà Đảng và Nhà nước ta đưa ra đòi hỏi chúng ta phải có
những giải pháp thiết thực, hiệu quả, đồng bộ và có sự tham gia của nhiều cấp,
20
nhiều ngành, mọi tầng lớp nhân dân mới có thể xây dựng con người Việt Nam
phát triển toàn diện đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh - phương pháp luận nghiên cứu
con người: Niên giám nghiên cứu [49], vấn đề thực trạng phát triển con người

toàn diện ở Việt Nam được các tác giả trình bày trong tiết 1 của chương 3. Trong
đó, các tác giả không nêu những thành tựu đạt được, mà chỉ nhấn mạnh đến
những mặt hạn chế đang đặt ra trong quá trình phát triển con người Việt Nam,
như giáo dục - đào tạo trong gia đình, nhà trường và xã hội ít quan tâm đến tính
chỉnh thể (ít quan tâm đến giáo dục lịch sử dân tộc và lý tưởng cách mạng); chưa
xây dựng được lối sống xã hội chủ nghĩa; sự nghiệp phát triển con người chưa
tạo thành một phong trào có tính cách mạng, lôi cuốn được đông đảo quần chúng
tham gia. Trên cơ sở đó, các tác giả nêu lên mấy vấn đề “nổi cộm” cần giải quyết
nhằm xây dựng con người mới ở nước ta là: độ chênh lệch giữa mục tiêu với
thực tế phát triển con người toàn diện trong những năm đổi mới là rất lớn; sự
mất cân đối khá trầm trọng giữa các mặt trong nội dung giáo dục - đào tạo ở
trong nhà trường, gia đình và xã hội; đầu tư cho các lĩnh vực liên quan đến sự
phát triển của con người chưa tương xứng. Theo các tác giả, nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến tình trạng trên là trong những năm qua, chúng ta chưa hiểu sâu sắc
và vận dụng chưa đúng đắn tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí
Minh vào phát triển con người Việt Nam. Vì vậy, để có được thành công trong
phát triển toàn diện con người ở Việt Nam, chúng ta cần phải vận dụng đúng đắn
tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh.
Bộ sách gồm ba cuốn: 1) Đặng Quốc Bảo, Trương Thị Thúy Hằng (đồng
chủ biên), Chỉ số phát triển kinh tế trong HDI - Cách tiếp cận và một số kết quả
nghiên cứu; 2) Đặng Quốc Bảo, Trương Thị Thúy Hằng (đồng chủ biên), Chỉ số
tuổi thọ trong HDI - Một số vấn đề thực tiễn Việt Nam; 3) Đặng Quốc Bảo, Đặng
Thị Thanh Huyền (đồng chủ biên), Chỉ số giáo dục trong HDI - Cách tiếp cận
và một số kết quả nghiên cứu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Bộ sách là
công trình nghiên cứu chuyên sâu về cách tính và thực trạng phát triển con người
21
qua các chỉ số thành phần trong HDI. Vì vây, đây là tài liệu quan trọng cho việc
nghiên cứu thực trạng phát triển con người Việt Nam qua chỉ số HDI.
Hồ Sỹ Quý, Con người và phát triển con người [119]. Một số vấn đề thực
tiễn của sự phát triển con người Việt Nam được tác giả trình bày trong chương 9

thuộc phần thứ 3 của cuốn sách. Tác giả đã luận giải về chỉ số phát triển con người
HDI và HPI. Tác giả đã phân tích những thành tựu và hạn chế trong việc phát triển
con người Việt Nam những năm gần đây. Cách luận giải của tác giả về các chỉ số
này là cơ sở lý luận quan trong trong việc nghiên cứu thực trạng phát triển con
người ở Việt Nam. Theo tác giả,“Chỉ số phát triển con người HDI với tính hợp lý
đáng kể của nó là bộ công cụ nghiên cứu khá hữu hiệu về phát triển con người
được đông đảo cộng đồng thế giới chấp nhận…Tuy nhiên, đối với nhà nghiên cứu
và hoạch định chính sách xã hội, sự tỉnh táo nhất định là điều cần phải có, vì bộ
công cụ HDI có thể che giấu những khiếm khuyết của sự phát triển con người
trong thực tế” [119, tr.274-275].
Nguyễn Hữu Châu (chủ biên), Giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỷ
XXI [12]. Cuốn sách chia làm 6 chương, đề cập một cách toàn diện về mạng
lưới, quy mô, chất lượng, đội ngũ giáo viên, chương trình, quản lý giáo dục, mức
đầu tư cho giáo dục, phương pháp giảng dạy và chiến lược phát triển, các cấp
bậc học từ giáo dục đại học trở xuống của cả hệ thống giáo dục, đào tạo công lập
và ngoài công lập. Nội dung cuốn sách là tư liệu quan trọng cho việc nghiên cứu
thực trạng phát triển con người Việt Nam ở phương diện trí lực.
Phùng Danh Cường, “Phát triển con người ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng
và giải pháp” [19]. Tác giả đã đi luận giải thực trạng phát triển con người Việt
Nam trong những năm gần đây. Bên cạnh những thành tựu đạt được, còn một số
hạn chế nhất định trên các bình diện: chỉ số HDI, giáo dục và đào tạo, công tác
phát triển y tế - chăm sóc sức khỏe nhân dân và thành tích trong xóa đói giảm
nghèo. Bằng cách tiếp cận của Chương trình phát triển liên hợp quốc (UNDP),
trong bài “Thực trạng về sự phát triển con người Việt Nam qua chỉ số HDI” [21],
22
tác giả tiếp tục luận giải, phân tích những thành tựu và hạn chế phát triển con
người Việt Nam qua chỉ số HDI và vạch ra một số điểm mới trong nghiên cứu
con người qua chỉ số này. Các công trình này là tư liệu quan trọng cho việc
nghiên cứu thực trạng phát triển con người Việt Nam.
Nguyễn Đình Tuân, “Báo cáo phát triển con người 2010: Xu hướng phát

triển con người và một số thay đổi trong tính toán các chỉ số” [162]. Bằng cách
luận giải sâu sắc và chi tiết, tác giả đã cho chúng ta thấy trong báo cáo thế giới
về phát triển con người năm 2010 có sự thay đổi cách tính toán chỉ số HDI và
bổ sung thêm 3 chỉ số mới, gồm: IHDI (bất bình đẳng), GII (bất bình đẳng
giới), MPI (nghèo khổ đa chiều). Chính vì vậy, thứ hạng về phát triển con
người của các quốc gia cũng vì thế bị thay đổi và chúng ta nên cân nhắc kỹ
trong việc lấy chỉ số phát triển con người năm 2010 để so sánh với các năm
trước. Công trình là căn cứ quan trọng trong việc tính toán các chỉ số phát triển
con người Việt Nam.
Bên cạnh những công trình trên, những công trình của Tổng cục thống kê,
gồm: Tổng điều tra dân số và nhà ở 2009; Niên giám thống kê năm 2010; Kết
quả khảo sát mức sống dân cư năm 2010; Niên giám thống kê năm 2011; Điều
tra lao động và việc làm 2011; Niên giám thống kê 2010, 2011, 2012; Điều tra
biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình thời điểm 1/4/2012 - Các kết quả chủ
yếu; Thông cáo báo chí tình hình kinh tế - xã hội tháng 12 và cả năm 2012;
Thông cáo báo chí tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2013; ; cùng với
các Báo cáo phát triển con người của tập thể tác giả Viện hàn lâm Khoa học xã
hội Việt Nam; các Báo cáo phát triển con người của UNDP, gồm: 1) Báo cáo
Quốc gia về phát triển con người năm 2001: “Đổi mới và phát triển con người ở
Việt Nam”. Báo cáo đề cập đến những hậu quả lớn do cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp đến phát triển con người Việt Nam. Đồng thời đưa ra những thách thức
mới mà chúng ta phải đối mặt và những mục tiêu cần thiết nhằm đẩy nhanh quá
trình phát triển con người Việt Nam trong thời kì mới; 2) Báo cáo Quốc gia về
phát triển con người năm 2006: “Phát triển con người Việt Nam 1999-2004 -
23
Những thay đổi và xu hướng chủ yếu”. Báo cáo này giới thiệu các thành tựu
phát triển con người đã đạt được trong quá trình đổi mới ở nước ta trong thời
gian 1999-2004. Bên cạnh đó, báo cáo này còn trình bày những thay đổi và xu
hướng chính trong phát triển con người Việt Nam qua so sánh chỉ số HDI,
HPI và GDI ở cấp quốc gia, vùng, tỉnh, giai đoạn 1999-2004; 3) Báo cáo

Quốc gia về phát triển con người năm 2011: “Dịch vụ xã hội vì sự phát triển
con người”. Báo cáo gồm 2 phần chính: phần 1 (3 chương), trình bày khung
phân tích, quan điểm phát triển, con người và xu hướng phát triển con người ở
Việt Nam. Phần 2 (3 chương), phân tích những thách thức mà người dân gặp
phải trong tiếp cận các dịch vụ y tế và giáo dục. Các công trình này đã đề cập
một cách chi tiết đến mức cụ thể về các mặt của sự phát triển con người Việt
Nam. Vì vậy, các công trình đó là tài liệu quan trọng trong nghiên cứu thực
trạng phát triển con người Việt Nam.
1.3. NHỮNG NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỊNH HƯỚNG VÀ
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN Ở VIỆT NAM
Bài viết của Đặng Xuân Kỳ: “Những phương thức và biện pháp xây dựng
con người mới”, trong Vấn đề xây dựng con người mới [16]. Tác giả bài viết cho
rằng, quá trình xây dựng con người mới không phải là quá trình đơn giản, riêng
rẽ và khép kín, mà là một quá trình mở và “để xây dựng con người mới, chúng
ta phải tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng - cách mạng về quan hệ sản
xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa Trong ba
cuộc cách mạng, cách mạng tư tưởng và văn hóa có nhiệm vụ trọng tâm là xây
dựng con người mới; bởi vì nó là động lực trực tiếp đến các mặt của con người
như nhận thức, tư tưởng, tình cảm, tác phong, lối sống” [16, tr.466].
Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá do
Phạm Minh Hạc (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. Trong phần
hai (Định hướng chiến lược phát triển toàn diện con người Việt Nam thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước) của cuốn sách, các tác giả đã nêu lên
những tư tưởng và mục tiêu chung về chiến lược phát triển toàn diện con người
24
Việt Nam (chương 6); định hướng chiến lược xây dựng con người Việt Nam về
đạo đức (chương 7), về trí tuệ (chương 8), về thẩm mỹ (chương 9), về thể chất
(chương 10) và định hướng phát triển năng lực nghề nghiệp (chương 11). Trong
mỗi định hướng lớn đó, các tác giả đã đưa ra những mục tiêu, yêu cầu, nguyên
tắc cụ thể về việc phát triển con người Việt Nam. Đồng thời luận giải những giải

pháp thiết thực, hiệu quả về việc phát triển con người Việt Nam trong sự nghiệp
công nghiệp hóa. Vì vậy, cuốn sách là tài liệu quan trọng trong việc nghiên cứu
định hướng và giải pháp phát triển con người toàn diện ở Việt Nam.
Nguyễn Hữu Công, Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn
diện [14]. Trong tiết thứ 2 của chương 3, tác giả đã nêu lên những định hướng cơ
bản để vận dụng và phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn
diện vào sự nghiệp xây dựng con người ở Việt Nam hiện nay, cụ thể là: Kết hợp
chặt chẽ giữa dạy “chữ”, dạy “nghề” với “dạy người” trong giáo dục, đào tạo;
đổi mới quan điểm đánh giá và tiêu chuẩn tuyển chọn, sắp xếp đội ngũ cán bộ,
công chức và lực lượng lao động xã hội; tạo ra môi trường thuận lợi để con
người Việt Nam có cơ hội nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, phát triển toàn
diện phẩm chất, năng lực bản thân. Tác giả khẳng định, việc thực hiện tốt những
vấn đề trên, chúng ta sẽ tạo ra bước chuyển biến tích cực trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển con người mới ở Việt Nam hiện nay.
Cuốn sách Triết học Mác - Lênin về con người và việc xây dựng con người
Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa [170]. Trong chương 3:
Phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tác giả Vũ Thiện Vương đã đưa
ra và phân tích ba phương hướng và bốn nhóm giải pháp chủ yếu. Về phương
hướng: Thứ nhất, trong việc xây dựng con người, phải coi con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; thứ hai, xây
dựng con người, đầu tư cho con người phải chiếm vị trí ưu tiên; thứ ba, phải gắn
liền chiến lược phát triển con người với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Trong đó tác giả khẳng định phương hướng thứ nhất là phương hướng chủ đạo.
25

×