Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Chiến lược quảng cáo với việc mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm may của HANOSIMEX sang thị trường Hoa Kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.45 KB, 59 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
MỤC LỤC
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải năng
động và ra quyết định chính xác,kịp thời và có hiệu quả.Trong cơ chế thị trường của
nước ta hiện nay,mọi doanh nghiệp đều có mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối đa hoá
lợi nhuận .Để đạt được mục tiêu này doanh nghiệp không chỉ quan tâm đến chính
sách giá cả hàng hoá mua hàng cho giảm thiểu chi phí kinh doanh khi sử dụng các
yếu tố đầu vào mà điều không kém phần quan trọng là phải quan tâm mở rộng thị
trường và đầu tư cho thị trường xuất khẩu, tìm hiểu thị trường mới.
Thời kỳ trước đây,trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, các công ty chỉ
chú trọng phát triển thị trường trong nước. Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế
thị trường các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc tự chủ,
và có xu thế đầu tư vào lĩnh vực xuất khẩu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được hiệu quả trong sản xuất kinh doanh thì bất kỳ một doanh nghiệp
nào cũng phải tìm cho mình một giải pháp thích hợp mà mục tiêu cuối cùng là làm
tăng lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp mình. Nghĩa là trong doanh nghiệp cần sản
xuất một loại sản phẩm gì? tiêu thụ thế nào? giá thành ra sao? có phù hợp với người
tiêu dùng không? cho nên việc tìm ra thị trường tiềm năng có chính sách đầu tư hiệu
quả lâu dài là một việc làm cần thiết hiện nay
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong thời đại kinh tế hội nhập hiện nay, khi Việt Nam chính thức gia nhập
WTO, đã tạo ra nhiều cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam, đặc
biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong ngành dệt may.
Là một doanh nghiệp lớn trong ngành dệt may Việt Nam, Công Ty Dệt May
Hà Nội( HANOSIMEX) nay mới đổi thành Tổng Công Ty Dệt May Hà Nội đã có
nhiều đóng góp trong ngành dệt may nước ta nói chung và thị trường dệt may nói
riêng.


2
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Tổng công ty Dệt May Hà Nội năm 2006 kim ngạch xuất khẩu đạt 30 triệu
USD, chiếm một tỉ lệ lớn trong kim ngạch xuất khẩu của Tập Đoàn Dệt May Việt
Nam nói riêng và kim ngạch xuất khẩu của cả nước nói chung. Trong thời kì kinh tế
hội nhập hiện nay, để mở rộng thị trường xuất khẩu Công ty cần có những biện
pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, nâng cao năng lức cạnh trạnh và khẳng
định vị thế của mình trên thị trường quốc tế.
4. Kết cấu của đề tài
Trong thời gian thực tập tại Tổng Công Ty em đã đi sâu vào tìm hiểu khá kỹ
tình hình kinh doanh và hoạt động xuất khẩu tại Tổng Công Ty.Vì vậy em đã lựa
chọn đề tài: "Chiến lược quảng cáo với việc mở rộng thị trường xuất khẩu sản
phẩm may của HANOSIMEX sang thị trường Hoa Kỳ".
Bằng kiến thức đã học và thực tế khi đi thực tập tại Tổng Công Ty em xin
trình bày
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp gồm có 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về hoạt động marketing và quảng cáo quốc tế
Chương 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu và hoạt động quảng cáo sản
phẩm may của Tổng công ty Dệt may Hà Nội sang thị trường Hoa Kỳ
Chương 3: Chiến lược quảng cáo với việc mở rộng thị trường xuất khẩu
sản phẩm may của Tổng công ty Dệt may Hà Nội sang thị trường Hoa Kỳ.
3
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO QUỐC TẾ
1.1. Khái quát Marketing quốc tế
1.1.1. Khái quát chung về Marketing quốc tế
Toàn cầu hoá và tiêu chuẩn hoá trở thành một đặc điểm quan trọng của kinh

tế và thương mại quốc tế . Trong nhiều thập kỷ qua, Marketing quốc tế đã có sự
phát triển mạnh mẽ . Xu hướng toàn cầu hoá sản phẩm và thị trường ngày càng trở
nên rõ nét.Nguyên nhân là do:
Tính chất đồng nhất của nhu cầu thế giới ngày càng cao
Nhu cầu và mong muốn có tính chất toàn cầu của người tiêu dùng là muốn
được có những sản phẩm với giá thấp và chất lượng đảm bảo
Nhiều doanh nghiệp theo đuổi chiến lược chi phí vì vậy tìm cách thực hiện
theo quy mô sản xuất
Chính xu hướng toàn cầu hoá thị trường và sản phẩm dẫn đến nhiều thay đổi
trong thương mại quốc tế và nâng cao vai trò của Marketing quốc tế .
Trên thị trường thế giới , Marketing được thể hiện ở 2 góc độ:Marketing ra
nước ngoài hay Marketing xuất khẩu Marketing đa quốc gia hay Marketing toàn cầu
Marketing xuất khẩu là Marleting nội địa được vận dụng trong một môi
trường nước ngoài. Marketing ra nước ngoài đòi hỏi quản lý cùng một hoạt động
như Marketing trên thị trường nội địa, nhưng trong một môi trường không quen
thuộc .Marketing ra nước ngoài hay Marketing xuất khẩu là kết quả của sự phát
triển quốc tế của hãng nên cũng được gọi là Marketing quốc tế
Cùng với sự phát triển quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới , khái niệm thị
trường nước ngoài có những thay đổi . Đối với cá hãng đa quốc gia , do có thể tổ
chức các cơ sở sản xuất kinh doanh ở khắp nơi nên không tồn tại thị trường nước
ngoài mà chỉ có thị trường ở các vùng khác nhau trên thế giới , có mức độ phát triển
4
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
khác nhau , và có những đặc điểm khác nhau . Trong trường hợp này , Marketing có
tên gọi là Marketing đa quốc gia
Vì vậy trên thực tế , Marketing bao gồm:
Marketing xuất khẩu là Marketing của các doanh nghiệp xuất khẩu với yêu
cầu cơ bản là làm thích ứng các chính sách Marketing với nhu cầu của thị trường
xuất khẩu bên ngoài

Marketing toàn cầu là Marketing của một hãng lớn theo đuổi mục tiêu hướng
ra thị trường thế giới và thoả mãn nhu cầu của đoạn thị trường quốc tế hoặc của
toàn bộ thị trường thế giới.
Khác với quản lý Marketing nội địa , quản lý Marketing quốc tế phải tính
đến sự can thiệp của các chính quyền sở tại , tính đa dạng của các điều kiện thị
trường bên ngoài và đòi hỏi những kiến thức riêng như kỹ thuật Marketing , hiểu
biết môi trường bên ngoài , khả năng mức độ sử dụng các kiến thức tích luỹ.
Trong môi trường quốc tế , khái niệm Marketing mang tính chất chiến lược.
Như vậy, bản chất Marketing quốc tế là một trạng thái cân bằng giữa những thay
đổi của các yếu tố môi trường bên ngoài với các chính sách Marketing hỗn hợp của
doanh nghiệp trên thị trường quốc tế .Chính bản chất này đòi hỏi các doanh nghiệp
phải đưa ra các kế hoạch Marketing quốc tế bao gồm các quyết định cơ bản:
Nghiên cứu môi trường Marketing quốc tế .
Quyết định có nên thâm nhập thị trường nước ngoài không?
Quyết định những thị trường nào cần thâm nhập?
Quyết định các phương pháp thâm nhập thị trường.
Các chương trình Marketing quốc tế , việc triển khai các chính sách bộ phận
của Marketing hỗn hợp.
Quyết định về cơ cấu của bộ phận Marketing quốc tế của doanh nghiệp.
1.1.2. Tầm quan trọng và sự cần thiết của Marketing quốc tế
a. Những lợi ích của Marketing quốc tế
Việc mở rộng hoạt động ra thị trường thế giới cho phép các công ty, lớn
hoặc nhỏ, tăng tỷ lệ lợi nhuận của mình bằng cách mà các doanh nghiệp trong nước
không có.
5
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Các công ty hoạt động trên phạm vi quốc tế có thể đạt mức doanh số lớn hơn
nhờ thực hiện chuyển giao các khả năng riêng của mình .Các khả năng riêng biệt
được định nghĩa là những điểm mạnh duy nhất cho phép các công ty đạt được hiệu

quả , chất lượng đổi mới, hoặc sự nhạy cảm với khách hàng cao hơn.Những điểm
mạnh này thường được thể hiện trong các sản phẩm đưa ra mà các công ty khác khó
làm theo hoặc bắt chước. Như vậy, các khả năng riêng biệt tạo ra nền tảng cho lợi
thế cạnh tranh của công ty. Chúng làm cho công ty có thể hạ thấp chi phí trong việc
tạo ra giá trị hoặc tạo ra những sự khác biệt và đặt giá cao hơn.Với khả năng riêng
biệt có giá trị , các công ty thường có thể đạt mức doanh số khổng lồ bằng việc thực
hiện những khả năng riêng biệt đó và bằng các sản phẩm sản xuất ra cho các thị
trường nước ngoài mà ở đó các đối thủ cạnh tranh bản địa thiếu khả năng sản xuất
ra các sản phẩm tương tự.
Nhờ các hoạt động quốc tế , doanh nghiệp có thể thực hiện được lợi thế theo
vị trí .Lợi thế theo vị trí là lợi thế phát sinh từ việc thực hiện hoạt động tạo ra giá trị
ở mức tối ưu đối với hoạt động đó, bất kể nơi nào trên thế giới với các chi phí vận
chuyển và các hàng rào thương mại cho phép
Việc tham gia vào hoạt động quốc tế cho phép doanh nghiệp có thể hạ thấp
chi phí nhờ có được lợi thế quy mô và hiệu ứng đường cong
b. Những lý do thúc đẩy công ty tiếp cận với Marketing quốc tế
Xu hướng buộc các doanh nghiệp ngày càng phải tham gia vào thị trường
quốc tế và thúc đẩy thực hành thông thạo quản trị Marketing quốc tế . Một nhân tố
thúc đẩy các công ty phải tính đến việc bắt đầu hoạt động trên các lĩnh vực quốc tế
là do số lượng các nhà cạnh tranh nước ngoài tham gia vào thị trường trong nước họ
càng tăng và thực tế việc kinh doanh ở nước ngoài chiếm một tỷ lệ càng lớn trong
tổng số GNP của tất cả các nước công nghiệp lớn . Một lý do khác làm cho việc
quốc tế hoá kinh doanh ngày càng tăng là tổ chức thương mại xuyên biên giới các
quốc gia ngày càng dễ dàng hơn nhiều so với trước kia . Các thiết bị thông tin ngày
càng phát triển , phương tiện đi lại trong kinh doanh quốc tế ngày càng thuận tiện
hơn và các các công ty phục vụ cho việc kinh doanh (như quảng cáo , nghiên cứu
thị trường, vận chuyển đường bộ ….). Hiện nay hoạt động mang tính quốc tế cao.
6
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Do vậy việc đi lại, thăm và kiểm tra thị trường nước ngoài đơn giản hơn và do đó
việc kiểm soát quốc tế cung đơn giản hơn .
1.1.3. Marketing xuất khẩu - một hình thức của marketing quốc tế
Một trong những hình thức của marketing quốc tế được biểu hiện dưới hình
thức marketing xuất khẩu . Đó là hoạt động marketing của các doanh nghiệp của
một quốc gia nhất định , ứng dụng vào việc xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ của
mình ra nước ngoài với yêu cầu cơ bản là làm thích ứng các chiến lược marketing
nội địa với môi trường và nhu cầu của thị trường xuất khẩu bên ngoài.
Như vậy , marketing quốc tế có nghĩa rộng xuất khẩu quốc tế . Bởi vì
marketing quốc tế có thể bao hàm cả việc một công ty thực hiện sản xuất hay lắp
giáp một phần hàng hoá ở trong nước của công ty và một phần ở nước ngoài , hoặc
nhập khẩu cho một nước khác những hàng hoá từ một nước thứ hai để họ bán trong
nước hoặc tái sản xuất hoặc việc thành lập những đại diên thường trực ở nước ngoài
để lưu kho và phân phối các sản phẩm . Marketing quốc tế còn có thể thông qua
việc cấp giấy phép sản xuất những sản phẩm của công ty cho các doanh nghiệp địa
phương , hoặc tổ chức các hoạt động marketing khác ở nước ngoài .
1.2. Tầm quan trọng của marketing xuất khẩu
1.2.1. Marketing trong hoạt động kinh doanh quốc tế
Khi mới ra đời, marketing chỉ là một khái niệm đơn giản giới hạn trong lĩnh
vực thương mại. Nó chỉ bao gồm các hoạt động của doanh nghiệp nhằm tiêu thụ
những hàng hoá và dịch vụ đã có sẵn nhằm thu đưọc lợi nhuận. Việc áp dụng các
biện pháp marketing đã tạo điều kiện kích thích sản xuất hàng hoá phát triển. Với
những tính ưu việt của nó marketing không chỉ phát huy trong lĩnh vực thương mại
mà ngày càng được áp dụng rộng rãi trong các lĩnh vực phi thương mại khác. Đặc
biệt với các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế , Marketing có một vai trò hết sức
quan trọng . Marketing quốc tế có vai trò như là một trung tâm nghiên cứu , dự báo ,
thiết kế chiến lược cho việc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường nước nhập khẩu . Nơi
mà việc thích ứng các sản phẩm nhãn hiệu , xúc tiến và thu thập thông tin hết sức
khó khăn .
7

7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Marketing có vai trò đặc biệt quan trọng trong quản trị kinh doanh của doanh
nghiệp. Marketing làm cho khách hàng và người sản xuất xích lại gần nhau hơn.
Ngoài ra, nó còn có vai trò hướng dẫn, chỉ đạo và phối hợp các hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp một cách nhịp nhàng giữa công ty và nước nhập khẩu
hàng của công ty . Nhờ marketing mà doanh nghiệp có những thông tin phản hồi từ
phía khách hàng, để rồi có sự thay đổi và thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng.
Ngày nay, marketing là một trong những công cụ hữu hiệu giúp cho doanh nghiệp
có được vị thế trên thương trường.
Với các lợi thế trên marketing đã mang lại những thắng lợi huy hoàng cho
nhiều doanh nghiệp. Nó đã trở thành một trong những vũ khí cạnh tranh rất hiệu
quả trên thị trường quốc tế.
1.2.2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế.
Thông qua xuất khẩu, hàng hoá sản xuất trong nước được bán ra nước ngoài, thu
ngoại tệ. Qua đó có thể đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, giải quyết công ăn việc làm
nâng cao đời sống của nhân dân, tạo ra nguồn ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết
bị hiện đại ở nước ngoài đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm phát huy lợi thế của đất nước.
Đối với nước ta, nền kinh tế đang bước đầu phát triển, cơ sở vật chất kỹ
thuật phần nào được cải thiện nhưng vẫn còn thấp kém, dân số phát triển nhanh nên
lao động dư thừa nhiều. Do đó, việc đẩy mạnh xuất khẩu, thu ngoại tệ để nhập khẩu
máy móc thiết bị, giải quyết công ăn việc làm là rất quan trọng. Đảng và Nhà nước
ta chủ trương phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại, trong đó đặc biệt hướng mạnh
vào xuất khẩu hàng hoá dịch vụ. Đó là một đường lối đúng đắn, phù hợp với qui
luật kinh tế khách quan. Có thể nói, xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ đóng vai trò cực
kỳ quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta hiện nay.
1.2.3. Tầm quan trọng của marketing xuất khẩu
Xuất khẩu và nhập khẩu là hai mặt của cùng một đồng xu. Hoạt động xuất

khẩu cung cấp cho các khách hàng những sản phẩm được sản xuất ở một quốc gia
khác, hoạt động nhập khẩu cũng thực hiện chính chức năng trên. Tuy nhiên có một
8
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
sự khác nhau quan trọng giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Người nhập khẩu là người
mua- khách hàng, ngược lại người xuất khẩu là người bán- người làm marketing.
Điều quan trọng là chúng ta phải phân biệt được giữa bán hàng xuất khẩu và
marketing hàng xuất khẩu. Trong kỷ nguyên định hướng khách hàng bằng sản
phẩm, bán hàng xuất khẩu không phải là marketing. Bán hàng xuất khẩu không liên
quan đến việc biến đổi sản phẩm, giá cả, các công cụ xúc tiến cho thích hợp với nhu
cầu của thị trường quốc tế. Yếu tố duy nhất của marketing hỗn hợp có sự khác biệt
đó là phân phối (place), tức là quốc gia nơi hàng hóa được bán. Phương thức bán
hàng này có thể phát huy tác dụng đối với một số hàng hóa và dịch vụ; với những
sản phẩm độc nhất với rất ít hoặc không có sự cạnh tranh ở phạm vi quốc tế, cách
tiếp cận này có thể khả thi. Tương tự như vậy, những công ty mới tham gia hoạt
động xuất khẩu khởi đầu có thể gặt hái được thành công với việc bán hàng. Thậm
chí ngày nay, các bộ óc quản lý ở nhiều công ty vẫn ưa thích bán hàng xuất khẩu
hơn. Nhưng khi công ty đã trưởng thành trên thương trường quốc tế, hoặc khi tham
gia vào thị trường có nhiều đối thủ cạnh tranh, việc tiến hành hoạt động marketing
xuất khẩu bắt đầu trở nên cần thiết hơn.
Marketing xuất khẩu là marketing hỗn hợp của hàng hóa và dịch vụ dành
riêng cho khách hàng trên thị trường quốc tế. Marketing xuất khẩu yêu cầu:
- Một sự hiểu biết về môi trường của thị trường mục tiêu.
- Sự áp dụng tất cả các công cụ marketing, đặc biệt là:
+ Việc sử dụng nghiên cứu marketing và xác định tiềm năng thị trường.
+ Các quyết định về thiết kế sản phẩm, giá cả, các quyết định về kênh phân
phối, quảng cáo và xúc tiến.
+ Vấn đề tổ chức, hoạch định và kiểm soát.
Mục đích của chúng ta là có được một cái nhìn bao quát về những thực tế và

vấn đề nảy sinh với các công ty tiến hành marketing xuất khẩu cung như thấy được
tầm quan trọng của nó đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp.
1.3. Đặc trưng của hoạt động quảng cáo
1.3.1. Khái niệm về quảng cáo:
9
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Quảng cáo là những hình thức truyền thông không trực tiếp, phi cá nhân,
được thực hiện thông qua các phương tiện truyền tin phải trả tiền và các chủ thể
quảng cáo phải chịu chi phí.
Theo quan điểm quản lý, quảng cáo là phương sách có tính chất chiến lược
để đạt được hoặc duy trì vị thế cạnh tranh trên thương trường. Trong nhiều trường
hợp đầu tư cho quảng cáo là một đầu tư dài hạn.
Quảng cáo là một công cụ truyền thông được sử dụng khá phổ biến đặc biệt
là trong thị trường tiêu dùng cá nhân. Hoạt động quảng cáo là rất phong phú. Các
công ty hoạt động tích cực để truyền tin của mình qua quảng cáo ra thị trường. Việc
xử lí thông tin quảng cáo tuỳ thuộc vào từng đối tượng nhận tin. Tuy nhiên, tuỳ theo
điều kiện cụ thể của từng công ty, từng ngành, từng vùng và từng loại hàng hoá cụ
thể mà hoạt động quảng cáo được tiến hành với những nét đặc trưng riêng biệt.
Các chủ thể quảng cáo có thể truyền tin quảng cáo cho các hàng hoá, dịch vụ
hay cho chính uy tín hình ảnh của công ty thông qua các phương tiện truyền thông
tới đối tượng người nhận là các khách hàng tương lai.
Như vậy, có thể thấy trong khái niệm trên nổi bật tính gián tiếp của quảng
cáo đối với các khách hàng. Hay nói cách khác, quảng cáo tác động một cách gián
tiếp đến các hành vi mua của khách hàng, làm thay đổi ý tưởng và cách nhìn của họ
về bản thân sản phẩm và doanh nghiệp.
Cũng trong khái niệm trên, một điểm nữa cần lưu ý đó là sự khác biệt có tính
đặc thù đối với từng loại mặt hàng, từng vùng địa lí, từng tầng lớp dân cư và trình
độ dân trí khác nhau mà các chương trình quảng cáo cần phải được xây dựng với
những nét đặc trưng riêng để phù hợp với mục đích.

Chi phí cho các hoạt động quảng cáo cũng là một vấn đề cần quan tâm trong
khái niệm trên, bởi không một hoạt động nào khi tính đến hiệu quả của nó mà
không liên quan đến chi phí. Chi phí cho quảng cáo là một dạng chi phí trong các
hoạt động quản lí hay nói đúng hơn là một thành phần trong chi phí cho hỗn hợp
marketing của một doanh nghiệp.
1.3.2. Bản chất của quảng cáo:
10
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Do có nhiều hành thức và cách sử dụng nên khó có thể tổng quát hoá các đặc
trưng riêng của quảng cáo như là một bộ phận của các hoạt động truyền thông cổ
động của một công ty, tuy nhiên có thể ghi nhận những đặc tính sau:
• Giới thiệu có tính đại chúng: Quảng cáo là một kiểu truyền thông có tính
đại chúng cao. Tính đại chúng của nó khiến sản phẩm có được một dạng
như một sự hợp lí hoá, cũng như làm nảy ra một ý nghĩa đã được tiêu
chuẩn hoá. Vì có nhiều người cùng nhận được một thông điệp như nhau
nên các khách mua yên tâm rằng việc mua hàng của mình sẽ được mọi
người thông hiểu.
• Tính lan truyền: Quảng cáo là một phương tiện truyền thông có tính lan
truyền, điều này cho phép người ta có thể lặp đi lặp lại một thông điệp.
Nó cũng cho phép người mua tiếp nhận và so sánh các thông điệp của các
hãng cạnh tranh khác nhau. Việc quảng cáo ở quy mô lớn của một người
bán cũng nói lên một số điều tích cực gì đó về tầm cỡ, sự nổi tiếng, và
mức thành công của người bán ấy.
• Sự diễn đạt khuyếch đại: Quảng cáo cung cấp cơ hội cho công ty và sản
phẩm của nó trở nên ngoạn mục hơn, nhờ khéo sử dụng các kĩ thuật in ấn,
âm thanh và màu sắc. Tuy nhiên, có khi sự diễn đạt quá hay cũng làm
loãng thông điệp hoặc khiến người ta sao lãng.
• Tính vô cảm: Quảng cáo không có tính thúc ép như một người đại diện
bán hàng của công ty. Khán thính giả không thấy bó buộc phải chú ý hay

có đáp ứng. Quảng cáo chỉ có thể chuyển đi một cuộc độc thoại chứ
không đối thoại với khán thính giả.
Một mặt, quảng cáo có thể được dùng để xây dựng một hình ảnh lâu dài cho
sản phẩm; mặt khác đẩy mạnh doanh số tăng nhanh hơn. Quảng cáo là cách thức
hữu hiệu để vươn tới người mua ở rải rác trong một lãnh thổ rộng lớn, với một mức
tổn phí không cao cho mỗi lẫn trình diện. Một số dạng quảng cáo nào đó, như
quảng cáo trên TV có thể cần đến một ngân sách lớn, những dạng khác như quảng
cáo trên nhật báo thì có thể thực hiện được với mức ngân sách nhỏ.
1.3.3. Mục tiêu của quảng cáo:
11
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Xác định đúng mục tiêu của quảng cáo là bước đầu tiên quan trọng nhất
quyết định toàn bộ quá trình hoạt động quảng cáo. Các mục tiêu này xuất phát từ
những quyết định về thị trường mục tiêu, về việc định vị sản phẩm hàng hoá của
công ty trên thị trường và về hỗn hợp marketing hay còn gọi là marketing - mix.
Tuỳ theo những điều kiện cụ thể của công ty, của doanh nghiệp và của thị
trường mà các mục tiêu của quảng cáo là khác nhau. Mục tiêu của quảng cáo còn
phụ thuộc vào yêu cầu của hỗn hợp truyền thông của công ty. Thông thường mục
tiêu quảng cáo của công ty thường hướng vào các vấn đề sau:
+ Tăng số lượng hàng tiêu thụ trên thị trường truyền thống.
+ Mở ra thị trường mới.
+ Giới thiệu sản phẩm mới.
+ Xây dựng và củng cố uy tín của những nhãn hiệu hàng hoá và uy tín của
công ty.
Các mục tiêu quảng cáo có thể được xếp loại tuỳ theo ý muốn là thông tin,
thuyết phục hay nhắc nhớ. Quảng cáo thông tin thường được dùng nhiều trong giai
đoạn đầu của chu kì sống sản phẩm với mục tiêu tạo nhu cầu ban đầu. Quảng cáo
thuyết phục trở nên quan trọng ở giai đoạn cạnh tranh khi mục tiêu của công ty làm
tăng nhu cầu Một vài các quảng cáo thuyết phục đã chuyển thành loại quảng cáo

so sánh, nó xác định vị trí siêu đẳng của nhãn hiệu này bằng cách so sánh trực tiếp
hoặc gián tiếp với một hay một vài nhãn hiệu khác. Quảng cáo nhắc nhớ rất quan
trọng trong giai đoạn trưởng thành của sản phẩm nhằm duy trì khách hàng
Mục tiêu của quảng cáo có thể được khái quát hoá trong sơ đồ dưới đây:
12
12
Xác định mục tiêu
Mục tiêu truyền
thông
Mục tiêu doanh số
Đánh giá chiến dịch
Tác động truyền
thông
Tác động về doanh
số
Q.đ về ngân sách
Phương pháp khả thi
Tỉ lệ doanh số
Phía cạnh tranh
Mục tiêu và nhiệm vụ
Q.đ về nội dung
Khơi nguồn nội dung
Đánh giá nội dung
chọn lọc và thực hiện
nội dung truyền đạt
Q.đ về phương tiện
truyền thông
Các dạng truyền
thông chính
Phương tiện truyền

thông chuyên biệt
Định thời điểm
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Sơ đồ 1: Các quyết định lớn trong quảng cáo.
1.3.4. Ngân sách quảng cáo:
Sau khi xác định những mục tiêu quảng cáo, công ty cần thiết lập ngân sách
quảng cáo cho từng sản phẩm. Nhiệm vụ của quảng cáo là làm đường biểu diễn
mức cầu đối với sản phẩm chạy lên. Công ty muốn chi số tiền cần thiết đó để được
mục tiêu về doanh số.
Các phương pháp xác định ngân sách quảng cáo nói riêng hay ngân sách cho
các hoạt động truyền thông thông tin nói chung có thể tổng hợp trong bốn phương
pháp sau đây:
+ Phương pháp tuỳ khả năng: Công ty xác định ngân sách cho các hoạt động
của mình dựa trên mức mà công ty nghĩ ra và cho là hợp lý. Đây là phương pháp
hoàn toàn bỏ qua sự tác động của việc cổ động trên lượng tiêu thụ điều đó là cho
ngân sách cổ động hàng năm không ổn định gây trở ngại cho việc hoạch định thị
trường dài hạn.
+ Phương pháp phần trăm trên mức tiêu thụ: Được nhiều công ty áp dụng
bằng cách ấn định một con số phần trăm cụ thể cho ngân sách trên mức tiêu thụ
hiện tại hay mức tiêu thụ dự kiến. Con số này thường là cố định trong cơ cấu ngân
sách. Phương pháp này có một số ưu điểm là: Ngân sách có thể thay đổi và có tính
khả thi và có thể giữ vững sự cân bằng tài chính cho công ty. Phương pháp này
cũng giúp cho các nhà quản trị thấy được sự tương quan trong chi phí cổ động, giá
bán và lợi nhuận tính trên mỗi đơn vị sản phẩm. Ngoài ra, phương pháp này cũng
tạo ra sự khuyến khích cạnh tranh ổn định nếu các công ty có cùng mức chi theo tỉ
lệ doanh số hiện tại.
Tuy nhiên phương pháp này cũng tồn tại một số nhược điểm: Theo phương
pháp trên, người ta chú trọng nhiều hơn đến doanh số, coi doanh số là nguyên nhân
chứ không phải là kết quả của các hoạt động cổ động. Chi phí của việc cổ động tính
theo phương pháp này tuỳ thuộc vào khả năng ngân quỹ hơn là theo cơ hội bán

hàng. Nó không khuyến khích việc thử nghiệm cổ động có tính chất tuần hoàn
ngược, hay chi tiêu xông xáo. Sự phụ thuộc của ngân sách vào kết quả tiêu thụ hàng
13
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
năm làm trở ngại cho xác định ngân sách dài hạn. Phương pháp này cũng không
cung cấp được cơ sở có tính lô-gic cho việc lựa chọn số phần trăm nhất định nào đó,
ngoại trừ việc làm theo số có trước hay bắt chước các đối thủ cạnh tranh đang làm.
Cuối cùng nó không khuyến khích việc xây dựng ngân sách bằng cách xác định sản
phẩm hay vùng nào đáng được chi bao nhiêu.
+ Phương pháp ngang bằng cạnh tranh: Một số công ty định ngân sách cho
các hoạt động cổ động của mình bằng cách chi ngang bằng với mức chi của các đối
thủ cạnh tranh. Phương pháp này dựa trên hai cơ sở: thứ nhất, chi phí của các hãng
cạnh tranh trong một chừng mực nào đó thể hiện mức chi phí hợp lí nhất trong
ngành, thứ hai, việc duy trì một mức ngang bằng trong cạnh tranh có thể tránh được
các cuộc chiến tranh về quảng cáo. Tuy nhiên, phương pháp này cũng thể hiện sự
yếu kém về mặt lí luận, bởi không có cơ sở để khẳng định cạnh tranh là cách tốt
nhất để công ty dựa vào đó mà đề ra ngân sách dành cho cổ động. Bên cạnh đó, tài
lực, uy tín, cơ hội và mục tiêu của các công ty là khác nhau rất lớn nên khó có thể
dùng ngân sách làm kim chỉ nam cho các hoạt động quảng bá của mình và không
thể tránh được các cuộc chiến tranh quảng cáo bằng cách duy trì mức ngang bằng
trong chi phí cổ động.
+ Phương pháp mục tiêu và công việc: Phương pháp này đòi hỏi các nhà lập
ngân sách tiến hành xác định ngân sách của mình theo một quy trình nhất định là:
Bước 1, xác định ngân sách các mục tiêu riêng của mình, bước 2, xác định những
công việc phải làm để đạt được các mục tiêu trên và bước 3 là xác định các chi phí
cần thiết để tiến hành các công việc đó. Tổng các chi phí đó chính là ngân sách dự
tính để dành cho các hoạt động cổ động.
Phương pháp này có lợi điểm là buộc các nhà quản trị phải bày tỏ các giả
định của mình về mối liên quan giữa số tiền chi ra, mức độ xuất hiện của quảng cáo,

tỉ lệ thử và số sử dụng chính thức.
1.3.5. Nội dung của quảng cáo:
Nội dung của quảng cáo là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự thành
công của quảng cáo. Các quảng cáo phải đảm bảo tính hấp dẫn, gây sự chú ý, thu
hút quan tâm của khách hàng, tạo cho họ niềm tin về sản phẩm, doanh nghiệp và
14
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
quan trọng hơn là làm cho họ có mong muốn, nhu cầu sử dụng sản phẩm trong tiềm
thức.
Tuỳ theo mục tiêu của chủ thể quảng cáo và các giai đoạn phát triển khác
nhau của sản phẩm mà nội dung của quảng cáo là các thông điệp mang các ý nghĩa
khác nhau. Khi mục tiêu của chủ thể là quảng bá giới thiệu về hình ảnh doanh
nghiệp thì nội dung của quảng cáo mang tính truyền đạt thông tin hay người ta còn
gọi theo cách khác là quảng cáo thông tin. Khi mục tiêu của chủ thể là giới thiệu sản
phẩm mới hay các sản phẩm đang ở giai đoạn đầu của chu kì sống sản phẩm thì nội
dung của quảng cáo mang tính thuyết phục. Các quảng cáo mang ý nghĩa nhắc nhớ
thường được sử dụng trong các trường hợp chủ thể mong muốn duy trì lượng khách
hàng truyền thống, giữ vững thị trường.
Những nhà quảng cáo thường dùng nhiều giải pháp để hình thành những ý
tưởng diễn tả mục tiêu quảng cáo. Một số người thường sử dụng giải pháp quy nạp
bằng cách nói chuyện với khách hàng, với các nhà buôn, các nhà khoa học, các đối
thủ cạnh tranh để tìm ra nội dung cần truyền đạt. Một số người khác sử dụng giải
pháp suy diễn để hình thành nội dung thông điệp quảng cáo.
Nhìn chung, nội dung của quảng cáo thường được đánh giá dựa trên tính hấp
dẫn, tính độc đáo và tính đáng tin. Thông điệp quảng cáo phải nói lên những điều
đáng mong ước hay thú vị về sản phẩm. Nó cũng cần nói lên khía cạnh độc đáo,
khác biệt so với các sản phẩm khác. Các chủ thể quảng cáo cần phân tích ba tính
chất này khi truyền tải các thông điệp của quảng cáo tới khách hàng.
Sau đó công ty phải thể hiện được nội dung đó thông qua các thông điệp để

đảm bảo cho sự thành công của quảng cáo. Tác dụng của thông báo hay nói đúng
hơn là nội dung truyền đạt không chỉ tuỳ thuộc vào điều nó nói cái gì mà còn ở cách
nói ra sao nữa. Việc thể hiện nội dung truyền đạt có thể mang tính quyết định đối
với các sản phẩm rất tương tự nhau như bột giặt, thuốc lá, cà phê và bia. Người làm
quảng cáo phải thể hiện thành công một thông báo thế nào đó để chiếm được sự chú
ý và quan tâm của thị trường chủ đích.
15
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Người quảng cáo thường chuẩn bị một bản thuyết minh chiến lược mẫu
quảng cáo diễn tả mục đích, nội dung, chỗ dựa và giọng điệu mẫu quảng cáo.
Chiến lược chọn lời lẽ có thể diễn tả như sau:
• Mục tiêu: Là thuyết phục người tiêu dùng rằng bây giờ họ có thể mua sản
phẩm tốt như họ mong muốn.
• Nội dung: bao gồm việc nhấn mạnh vào những đặc điểm sau của sản
phẩm: Cấu tạo, hình thức, bao bì, mẫu mã, chất liệu, kiểu dáng, giá cả,
• Giọng điệu: quảng cáo sẽ là thông báo tin tức hoà lẫn với tâm tình hoài
niệm ấm áp bắt nguồn từ việc nhìn lại chất lượng sản phẩm truyền
thống.
Những nhân viên sáng tạo bây giờ phải tìm ra phong thái, giọng điệu, từ ngữ
và hình thức để thể hiện thông báo này.
Bất kì thông báo nào cũng có có thể trình bày theo nhiều phong thái thể hiện
khác nhau chẳng hạn như:
• Một mẩu đời. Trình bày một hay nhiều người đang sử dụng sản phẩm trong
một bối cảnh bình thường.
• Lối sống. Cho thấy sản phẩm thích hợp như thế nào với một lối sống.
• Tưởng tượng. Tạo một sự mới lạ ly kỳ chung quanh sản phẩm hay việc sử
dụng nó.
• Tâm trạng hoặc hình ảnh. Kiểu này xây dựng một tâm trạng hay hình ảnh
khơi gợi quanh một sản phẩm, chẳng hạn như cái đẹp, tình yêu hay sự

thanh thản. Không nói ra điều gì về sản phẩm cả mà chỉ có sự gợi ý.
• Âm nhạc. Cho một hay nhiều nhân vật hoặc hình hoạt hoạ hát một bài hát
nói về sản phẩm
• Biểu tượng nhân cách. Tạo một nhân vật làm biểu tượng cho sản phẩm. Có
thể là hình vẽ vui nhộn hoặc người thật.
• Chuyên môn kỹ thuật. Mô tả trình độ chuyên nghiệp của công ty hoặc kinh
nghiệm trong việc làm ra sản phẩm.
16
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
• Bằng chứng khoa học. Trình bày kết quả khảo sát hay bằng chứng khoa
học cho thấy sản phẩm được ưa chuộng hay xuất sắc hơn những sản phẩm
khác cùng loại.
• Bằng cứ chứng minh. Đặc tả một nguồn tin đáng tin cậy hoặc dễ mến xác
nhận sản phẩm. Có thể đó là một nhân vật nổi tiếng hay những người bình
thường phát biểu họ ưa thích sản phẩm đến chừng nào.
Người truyền đạt quảng cáo cũng phải chọn một giọng điệu thích hợp cho
mẫu quảng cáo. Những từ ngữ đáng nhớ, gợi chú ý phải được tìm ra. Sự sáng tạo
đặc biệt cần thiết cho việc đặt tít. Có sáu kiểu đặt tít cơ bản: Tin tức; câu hỏi; kể lại;
ra lệnh; kiểu kê số 1- 2- 3 và kiểu thế nào - cái gì - tại sao.
Yếu tố hình thức như kích cỡ, màu sắc và hình minh hoạ sẽ tác động cũng
như chi phí khác nhau cho mỗi mẫu quảng cáo. Chỉ cần sắp xếp đôi chút lại các chi
tiết trên một mẫu quảng cáo là có thể thu hút thêm sự chú ý đến mấy phần. Những
mẫu quảng cáo khổ lớn sẽ được chú ý nhiều, nhưng không hẳn chi nhiều tiền sẽ thu
hút được sự chú ý tối đa. Những hình minh hoạ màu thay vì trắng đen làm tăng hiệu
quả cũng như chi phí quảng cáo.
17
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU VÀ HOẠT ĐỘNG
QUẢNG CÁO SẢN PHẨM MAY CỦA TỔNG CÔNG TY DỆT MAY
HÀ NỘI SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng công ty Dệt may Hà Nội
- Tên công ty: Tổng Công ty Dệt - May Hà Nội.
- Tên tiếng Anh: Ha Noi Textile and Garment Corporation.
- Tên giao dịch: Hanosimex corp
- Địa chỉ: Số 1 – Mai Động – Hoàng Mai – Hà Nội.
- Email:
- Web site: Hanosimex.com.vn
- Vốn điều lệ : 151 tỷ đồng
Tổng Công ty Dệt may Hà Nội là một doanh nghiệp nhà nước, là một thành
viên hạch toán độc lập của Tập đoàn Dệt May Việt Nam. Tổng công ty hoạt động
theo luật doanh nghiệp nhà nước, các quy định của pháp luật và điều lệ tổ chức hoạt
động của Tổng công ty Dệt May Hà Nội được chủ tịch hội đồng quản trị Tập Đoàn
Dệt May phên chuẩn.
Tổng công ty là đơn vị sản suất – kinh doanh – xuất khuẩu các ngành hàng
sợi, dệt kim, dệt thoi, may mặc, khăn… theo giấy phép kinh doanh do Sở kế hoạch
và đầu tư thành phố Hà Nội cấp.
Tổng Công ty Dệt may Hà Nội tiền thân trước đây là Nhà máy sợi Hà Nội;
Xí nghiệp liên hợp Sợi - Dệt kim Hà Nội là một doanh nghiệp nhà nước thuộc
ngành công nghiệp nhẹ Việt Nam. Với hơn 20 năm xât dựng và trưởng thành , Tổng
Công ty đã trở thành đơn vị hạch toán độc lập của Tổng Công ty Dệt may Việt
Nam, có nhiệm vụ sản xuất kinh daonh các sản phẩm sợi, sản phẩm dệt kim, cung
cấp cho thị trường trong nước và quốc tế.
- Tháng 2/1979: Khởi công xây dựng nhà máy.
- Ngày 21/11/1984: hoàn thành các hạng mục cơ bản, chính thức bàn giao
công trình cho nhà máy quản lý và điều hành với tên gọi là; Nhà máy sợi Hà Nội.
18
18

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Tháng 12/1989: Đầu tư xây dựng dây truyền dệt kim số 1 và tới tháng
6/1990 dây truyền được hoàn thành và đưa vào sản xuất.
- Tháng 6/1993: Xây dựng dây truyền dệt kim số 2 và tới tháng 3/1994 dây
truyền được hoàn thành và đưa vào sản xuất.
- Ngày 19/5/1994: Nhà máy dệt kim Hà Nội được khánh thành bao gồm 2
dây truyền số 1 và số 2.
- Tháng 10/1993: Bộ Công nghiệp nhẹ quyết định sát nhập nhà máy sợi Vinh
(tỉnh Nghệ An) vào xí nghiệp.
- Năm 2000: Công ty đổi tên thành Công ty Dệt - May Hà Nội.
- Tháng 1/2006: Công ty là 1 trong 3 thành viên của tập đoàn Dệt may Việt
Nam.
- Tháng 2/2007 :Công ty được đổi tên thành Tổng Công ty Dệt may Hà Nội
hoạt động theo mô hình quản lý Công ty mẹ - Công ty con. Dệt may Hà
Nội sẽ là Công ty mẹ, các nhà máy thành viên hiện nay sẽ được cổ phần
hoá và trở thành các công ty cổ phần ( công ty con ), là doanh nghiệp có
pháp nhân độc lập.
Với thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến trình độ quản lý giỏi, đội ngũ cán bộ
có năng lực, đội ngũ công nhân lành nghề, sản phẩm của công ty luôn đạt chất
lượng cao, được trao tặng nhiều huy chương vàng và bằng khen tại các hội chợ triển
lãm kinh tế
Cho đến nay Tổng Công ty Dệt - May Hà Nội nhiều đơn vị thành viên trong
đó có cả các thành viên ở Hải phòng, Hà Đông, Hà Nội. Nhiêm vụ sản xuất của
Tổng Công ty được thực hiện thông qua các nhà máy thành viên:
•Khu vực Hà Nội: có nhiệm vụ sản xuất sợi, sản phẩm may dệt kim theo kế
hoạnh đã đề ra
- Nhà máy sợi : diện tích nhà xưởng : 54.680 m2
- Các nhà máy may :
+ Các nhà máy may dệt kim:
Diện tích nhà xưởng : 14.254 m2

Năng lực sản xuất : 8.000.000 sp/năm
19
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
+ Các nhà máy dệt thoi
Diện tích nhà xưởng :2.448m2
Năng lực sản xuất : 1.500.000 sp/năm
•Trung tâm dệt kim Phố Nối : đựoc giao nhiệm vụ phụ trách sản xuất vải dệt
kim , sản xuất ra vừa để bán ra ngoài vừa để tiêu thụ nội bộ .
Diện tích nhà xưởng : 13.5000 m2
Năng lực sản xuất : 3.300 tấn/năm
•Nhà máy Dệt Denim: có trách nhiệ sản xuất vải bò theo chỉ tiêu của Tổng
Công ty
Diện tích nhà xưởng : 14.880 m2
Năng lực sản xuất : 9.000.000 m/năm
•Trung tâm cơ khí _ Tự động hoá
- Sản xuất, chế tạo phụ tùng dệt may
- Dịch vụ lắp đặt , sửa chữa thiệt bị Cơ -Điện -Nhiệt
- Sửa chữa, lặp ráp thiết bị điện tủ - tự động hoá
- Sản xuất kinh doanh ống giấy
•Công ty cổ phần dệt Hà Đông : tiến hành sản xuất vải dệt kim
Diện tích nhà xưởng :5.800 m2
•Công ty cổ phần may Đông Mỹ : sản xuất hàng may mặc
Diện tích nhà xưởng : 2.500 m2
Năng lực sản xuất : 1.500.000 sp/ năm
•Công ty cổ phần dệt Hoàng thị Loan.
•Công ty SX - XNK Dệt may Hải Phòng
•Siêu thị Vinatex Hà Đông.
2.1.1. Mô hình tổ chức sản xuất và tổ chức bộ máy quản trị
2.1.1.1 Cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý của Tổng Công Ty Dệt May Hà Nội

• Tổng Giám Đốc
- Chức năng: Điều hành mọi hoạt động của công ty.
20
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Nhiệm vụ: Nhận các nhiện vụ, nguồn lực do tập đoàn giao. Sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực và tài sản của Nhà nước.
• Phó Tổng Giám Đốc I
- Chức năng: Quản lý điều hành lĩnh vực sản xuất.
- Nhiệm vụ: Chỉ đạo hoạt động của các nhà máy thành viên, chỉ đạo công tác
thu mua vật tư.
• Phó Tổng Giám Đốc II
- Chức năng: Quản lý điều hành lĩnh vực sản xuất, chỉ đạo công tác tiêu thụ
nội địa.
- Nhiệm vụ: Điều hành hệ thống chất lượng (QMR) và hệ thống trách nhiệm
xã hội (SAMR).
• Phó Tổng Giám Đốc III
- Chức năng: Thực hiện các công tác tài chính của công ty.
- Nhiệm vụ: Chỉ đạo công tác lao động tiền lương, chính sách cho cán bộ
công nhân viên trong công ty.
• Phòng kế hoạch tài chính
- Chức năng: Thực hiện các công tác kế hoạch tài chính của công ty
- Nhiệm vụ: Quản lý nguồn vốn, thực hiện công tác tín dụng, kiểm tra phân
tích hoạt động tài chính của công ty.
• Phòng xuất nhập khẩu
- Chức năng: Tìm kiếm khách hàng, thị trường trong và ngoài nước, tham
mưu cho Tổng Giám Đốc.
- Nhiệm vụ: Nghiên cứu, đánh giá thị trường, bạn hàng xuất khẩu và nhập
khẩu giúp lãnh đạo công ty có những thông tin cần thiết trong định hướng phát triển
thị trường.

• Phòng tổ chức hành chính
- Chức năng: Tổ chức cán bộ, đào tạo lao động …
- Nhiệm vụ: Nghiên cứu tổ chức đề xuất các phương án tổ chức bộ máy quản
lý trong các đơn vị cho phù hợp với nhu cầu.
21
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
• Phòng kỹ thuật đầu tư
- Chức năng: Tham mưu cho Tổng Giám Đốc kế hoạch đầu tư mua sắm.
Nhiệm vụ: Xây dựng chiến lược và điều hành việc thực hiện kế hoạch sản
xuất của công ty.
- Nhiệm vụ: Xây dựng các kế hoạch ngắn hạn, trung hạn, dài hạn của các vấn
đề khác nhau như tiêu thụ, nguyên vật liệu …
• Phòng thương mại
- Chức năng: Tham mưu cho Tổng Giám Đốc nghiên cứu dự đoán sự phát
triển của thị trường.
- Nhiệm vụ: Nghiên cứư tổng thể các loại sản phẩm May - Mặc … trên thị
trường về mẫu mã, giá cả …
2.1.1.2 Sơ đồ cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý của Tổng Công Ty Dệt May Hà Nội
22
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
22
PHÒNG
KCS
TỔNG GIÁM ĐỐC
PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC I
PHÒNG KTTC
PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC III PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC II
PHÒNG XNK

PHÒNG
KTĐT
PHÒNG
KHTT
PHÒNG
TCHC
PHÒNG
Y TẾ
PHÒNG
ĐỜI SỐNG
PHÒNG
T/MẠI
NM
SỢI
NM
SỢI
VINH
TBCB
SX OE
NM
DỆT

ĐÔNG
TBCB
SX
DENIM
NM
DỆT VẢI
DENIM
NM

MAY
1
NM
MAY
2
NM
MAY
3
NM
MAY
THỜI
TRANG
NM
MAY
ĐÔNG
MỸ
TRUNG
TÂM DỆT
KIM PHỐ
NỐI
Sơ đồ 2: Sơ đồ các phòng ban của Công ty Dệt - May Hà Nội
22
Báo cáo tổng hợp Khoa: Marketing
2.1.2. Các kết quả kinh doanh chủ yếu mà Tổng Công Ty đã đạt được
2.1.2.1 Doanh thu của doanh nghiệp trong 5 năm qua
Trong những năm qua, mặc dù có những biến động lớn trên thị trường,
nhưng Tổng Công ty Dệt - May Hà Nội vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng đều và
vượt kế hoạch Tập đoàn giao cũng như kế hoạch Tổng Công ty tự đặt ra cho chính
mình. Trong 10 năm trở lại đây, doanh thu của công ty tăng 2.95 lần. Đây có thể là
một tốc độ tăng mà bất kỳ doanh nghiệp nào trong ngành cũng muốn. Với những lợi

thế của mình về các sản phẩm xuất khẩu đã đen lại cho doanh nghiệp một lợi thế
không nhỏ so với các doanh nghiệp khác. Doanh thu trên thị trường trong nước các
năm gần đây lúc nào cũng chiếm hơn 50% tổng doanh thu của cả Tổng Công ty
Qua bảng trên ta thấy tổng doanh thu của Tổng Công ty luôn tăng trong thời
gian qua. Trong đó doanh thu trên thị trường nội địa chiếm một tỷ lệ không nhỏ.
Chỉ có năm 2003 là có giảm tỷ lệ trong tổng doanh thu của Tổng Công ty. Sau đó,
trong các năm tiếp theo, doanh thu trên thị trường nội địa luôn chiếm một tỷ lệ >
50% tổng doang thu của cả Tổng Công ty
Để có được con số doanh thu như trên, doanh nghiệp đã nỗ lực mở rộng thị
trường đồng thời cũng mở rộng mặt hàng tiêu thụ. Những mặt hàng sau đây đã đóng
góp tích cực vào thành tích của doanh nghiệp. Trong tất cả các năm, doanh thu của
sản phẩm sợi và sản phẩm dệt kim lúc nào cũng đứng đầu trong tất cả các mặt hàng
đem lại doanh thu cho doanh nghiệp. Trong năm 2007, doanh thu của sản phẩm sợi
là 479361 triệu đồng tương đương 34%tổng doang thu, còn đối với sản phẩm dệt
kim là 309821 triệu đồng tương đương 22% tổng doanh thu của toàn Tổng Công ty
Sự thay đổi nhu cầu và định hướng tiêu dùng của người tiêu dùng đã thúc
đẩy Tổng Công ty Dệt - May Hà Nội thay đổi cơ cấu sản phẩm như không sản xuất
các loại mũ nữa mà thay vào đó là các sản phẩm quần áo bò, hay các sản phẩm dệt
thoi. Điều này là chính xác vì sản phẩm mũ của Tổng Công ty Dệt - May Hà Nội
không phù hợp với nhu cầu thị trường hơn nữa, các sản phẩm được làm ra từ vải bò
lại đang được người tiêu dùng ưa chuộng.
2.1.2.2 Lợi nhuận và nộp ngân sách của Tổng Công Ty Dệt May Hà Nội
Trong những năm gần đây, mặc dù Tổng Công ty Dệt - May Hà Nội gặp
không ít khó khăn khách quan và chủ quan nhưng lợi nhuận của Tổng công ty vẫn
SV: Vũ Đức Thành Lớp: Quảng Cáo 46
Báo cáo tổng hợp Khoa: Marketing
không ngừng tăng. Lợi nhuận tăng phản ánh đóng góp của Tổng Công ty Dệt - May
Hà Nội vào ngân sách Nhà nước cũng tăng. Sự tăng lên của lợi nhuận một phần là
do Tổng Công ty Dệt - May Hà Nội có lượng sản phẩm tiêu thụ luôn tăng, một phần
là do trong những năm qua Tổng Công ty Dệt - May Hà Nội đã có sự đầu tư đổi

mới công nghệ, làm cho chi phí sản xuất cũng như khả năng tiết kiệm nguyên vật
liệu, nhiên liệu của Tổng Công ty tăng dẫn tới giá thành sản xuất giảm.
Trong năm 2003, Tổng Công ty đóng góp vào ngân sách Nhà nước là 3174
triệu đồng. Sang năm 2004 Tổng Công ty đóng góp vào ngân sách Nhà nước là
4252 triệu đồng tăng 134% so với năm trước.
Trong năm 2005, Tổng công ty đóng góp vào ngân sách Nhà nước là 4800
triệu đồng và sang năm 2006 con số này là 5086 triệu đồng, năm 2007 là 6004 triệu
đồng
Còn đối với lợi nhuận của Tổng Công ty Dệt - May Hà Nội trong các năm
gần đây tăng tương đối cao. Năm 2002 lợi nhuận chỉ là 1446 triệu đồng nhưng khi
kết thúc năm 2007 con số này là 12500 là triệu đồng.
Sự tăng lên của lợi nhuận và sự đóng góp vào ngân sách Nhà nước của Tổng
Công ty Dệt - May Hà Nội luôn tăng trong những năm gần đây càng khẳng định
một điều rằng Tổng Công ty đã có những bước đi đúng đắn và vững chắc, và cũng
khẳng định sự cố gắng nỗ lực của cán bộ công nhân viên trong Tổng Công ty Dệt -
May Hà Nội.
2.1.2.3 Lao động và tiền lương của công nhân viên trong Tổng Công Ty
Năm 2002 số lao động của Tổng Công ty Dệt - May Hà Nội chỉ là 4625 lao
động bao gồm cả công nhân trực tiếp tham gia sản xuất và lao động gián tiếp, trong
đó tỷ lệ lao động trực tiếp sản xuất chiếm 80% tổng số lao động. Nhưng trong
những năm gần đây, sự lớn mạnh của Tổng Công ty Dệt - May Hà Nội có sự đóng
góp vô cùng lớn của cán bộ công nhân viên trong Tổng Công ty Dệt - May Hà Nội.
Với chính sách sử dụng lao động của Tổng Công ty Dệt - May Hà Nội là giảm lao
động gián tiếp, tăng lao động trực tiếp tham gia sản xuất công ty đã có chính sách
tuyển dụng và đào tạo cũng như sử dụng lao động hợp lý cho nên đến năm 2007, số
lao động của Tổng Công ty Dệt - May Hà Nội là 5600 lao động, trong đó công nhân
trực tiếp là 5150 người chiếm 90% tổng số lao động bình quân và lao động gián tiếp
SV: Vũ Đức Thành Lớp: Quảng Cáo 46

×