Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

PHẪU THUẬT NỘI SOI Ổ BỤNG TRONG DÒ NIỆU QUẢN pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.46 KB, 8 trang )

PHẪU THUẬT NỘI SOI Ổ BỤNG TRONG DÒ NIỆU QUẢN

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Dò niệu quản - âm đạo là một trong những biến chứng
gặp trong các phẫu thuật sản – phụ khoa. Can thiệp niệu khoa tạo hình niệu
quản trước nay là mổ mở cắm lại niệu quản vào thời điểm thường là 3 tháng
sau mổ. Trên thế giới có vài báo cáo đau tiên trong năm nay 2006 về việc
ứng dụng phương pháp mổ nội soi ổ bụng tạo hình niệu quản dò không cần
chờ đợi sau 3 tháng, với kết quả khích lệ. Chúng tôi đặt vấn đề ứng dụng
phương pháp ít xâm hại này cho sản phụ chẳng mai bị dò bàng qung niệu
quản.
Bệnh nhân và kết quả: Hai bệnh nhân nữ tuổi 32 và 41 có cùng một
chẩn đoán dò niệu quản P sau cắt tử cung ngày thứ 30 và ngày thứ 21. Bệnh
nhân đến trong tình trạng dò nước tiểu qua âm đạo, không biến chứng nhiễm
trùng. Thận có niệu qủan dò có bị trướng nước nhưng còn phân tiết thuốc.
Phương pháp mổ là cắm lại niệu quản vào bàng quang với bàng quang cơ
thăn, thực hiện qua nội soi ổ bụng (4 trocars và 3 trocars). Bệnh nhân hế xì
dò ngay và xuất viện sau 10 ngày, không biến chứng hẹp và ngược dòng
bàng quang-niệu quản kiểm tra qua UIV và UCR.
Bàn luận: Bệnh nhân thường nhập viện vào tuần lễ thứ 2 với triệu
chứng dò nước tiểu ra âm đạo, thận ứ nước 1 hoặc 2 bên trên cơ thể suy
yếu sau một cuộc đại phẫu. Chọn phương pháp mổ sao cho đơn giản, nhẹ
nhàng nhưng có kết quả cao là xu hướng phát triển hiện nay của ngành phẫu
thuật.
Kết luận: Phẫu thuật nội soi qua phúc mạc trong dò niệu quản-âm đạo
sau mổ sản phụ khoa còn là phẫu thuật mới bắt đau trong kỹ thuật mổ của
thế giới. Nhưng triển vọng khả quan vì tính ít xâm hại và không phải đợi
thời gian 3 tháng để ổn định vết thương. Phẫu thuật cần được nghiên cứu với
số lương nhiều hơn để hoàn thiện.
ABSTRACT
Objectives: Iatrogenic Vagino-Urteral Fistula is the most difficulty in


the iatrogenic urinary fistula. The laparoscopic fistula repairing is the new
concept in the new millennium. We adapt this concept in our preliminary
cases in Cho ray Hospital.
Patient and results: 2 female patients 23 and 41 yo, postoperative by
ulterus adenoma hysterectomy (2 weeks) and by caesarian hysterotomy (3
weeks), hospitalized with ureteral fitula, both are the right side. She
undergone 3 trocars laparoscopic plastic surgery. A vesical dissection to
create a psois bladder in the right side then a reimplantaion was performed.
The leakage were immediately stopped. The results of both patients were
satisfactory.
Discussions and conclusion: By the new concept, we can repair the
fistula when the time the patient hospitalize, no waiting longer for 3 month
as before. The results were acceptable, but adjuvant therapy is
postoperatively necessary. The second is the new technology in laparoscopy,
we can perform easy this plastic surgery. The result were satisfactory for
patient. But we need the number of the operations to perfect the surgical
procedure.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Dò niệu quản - âm đạo là một trong những biến chứng gặp trong các
phẫu thuật sản – phụ khoa. Can thiệp niệu khoa tạo hình niệu quản trước nay
là mổ mở cắm lại niệu quản vào thời điểm thường là 3 tháng sau mổ. Trên
thế giới có vài báo cáo đau tiên trong năm nay 2006 về việc ứng dụng
phương pháp mổ nội soi ổ bụng tạo hình niệu quản dò không cần chờ đợi
sau 3 tháng, với kết quả khích lệ. Chúng tôi đặt vấn đề ứng dụng phương
pháp ít xâm hại này cho sản phụ chẳng mai bị dò bàng qung niệu quản.
BỆNH NHÂN VÀ KẾT QUẢ
Hai bệnh nhân nữ tuổi 32 và 41 có cùng một chẩn đoán dò niệu quản
P sau cắt tử cung ngày thứ 30 và ngày thứ 21. Bệnh nhân đến trong tình
trạng dò nước tiểu qua âm đạo, không biến chứng nhiễm trùng. Thận có niệu
qủan dò có bị trướng nước nhưng còn phân tiết thuốc.

Bệnh nhân 1
NGUYỄN THỊ KIM TH.
Sinh năm: 1965 Hồ sơ số: 80677
Vào viện: 12/10/2006
Bệnh sử: Bệnh nhân được chẩn đoán u xơ tử cung và mổ cắt tử cung + 2
phần phụ tại bệnh viện bạn 2 tuần trước nhập viện. Sau mổ 12 ngày thấy nước
tiển chảy ra âm đạo. Chuyển viện Chợ Rẫy.
Tiền căn: Bệnh nhân chưa có gia đình, mổ cắt tử cung và 2 phần phụ 2
tuần.
Thăm khám bệnh lúc nhập viện: Bệnh nhân tỉnh táo, tiếp xúc tốt.
Mạch 86 lần/ phút, Huyết áp 120/80mmHg.
Nhiệt độ 37
0
C, Nhịp thở 22 lần/phút
Bụng mềm, không điểm đau khu trú. Thận 2 bên không to.
Thăm khám âm đạo: có nhiều nước tiểu trong âm đạo chảy ra. Test 3
cục bông âm tính.
Cận lâm sàng:
- Siêu âm: thận P ứ nước độ I, khó quan sát niệu quản P. Thận T
không ứ nước. Các cơ quan khác chưa phát hiện bất thường.
- X quang hệ niệu có cản quang: hình ảnh giãn đài thận P, thận kém
phân tiết. Hệ niệu T bình thường.
- Nội soi bàng quang: niệu quản bên T phun nước tiểu trong. Niệu
quản bên P không phun nước tiểu. Niêm mạc bàng quang bên P phù nề. Đưa
thông lên niệu quản P chỉ được 3cm bị vướng. Không tìm thấy các tổn
thương khác trong long.Bàng quang
- Chụp niệu quản ngược dòng: bế tắc niệu quản P đoạn chậu.
- Các xét nghiệm Sinh hoá, máu trong giới hạn bình thường.
Chẩn đoán: Dò niệu quản (P) – âm đạo sau phẫu thuật cắt tử cung và 2
phần phụ do nhân xơ hậu phẫu ngày 12

Bệnh nhân được chỉ định mổ cắm lại niệu quản (P) qua nội soi
25/10/2006
PTV: TS Trần Ngọc Sinh.
Tường trình phẫu thuật: Đặt 4 trocar vào ổ bụng 2 X10 mm và 2 X
5mm. Bóc tách đại tràng đến mạc told. Thấy ruột thừa bị khâu vào mỏm cụt
– Bộc lộ niệu quản phải chậu – niệu quản bị khâu vùi vào âm đạo.
-Cắt niệu quản tại chỗ dò – Bóc tách bàng quang cắt dây chằng tròn
phải.
-Cố định đỉnh bàng quang vào cơ thăn (P) bằng vicryl1.0
-Cắn niệu quản (P) vào bàng quang, phương pháp leduc. Có 1 nòng
niệu quản bên bàng quang.
-Đóng bàng quang 1 lớp mũi liên tục
-Dẫn lưu phúc mạc đóng trocar.
-Hậu phẫu ổn định – bệnh nhân xuất viện ngày thứ 10.
Bệnh nhân 2
TRẦN THỊ HỒNG H
Sinh năm: 1972 Hồ sơ số: 88527
Vào viện: 13/11/2006
Chẩn đoán: Dò niệu quản (P) – tử cung sau mổ bắt con 3 tuần.
Bệnh nhân được chỉ định mổ cắm lại niệu quản (P) qua nội soi
20/11/2006
PTV: TS Trần Ngọc Sinh, BS Trần Trọng Trí
Tường trình phẫu thuật: Đặt 3 trocar vào ổ bụng 2 X10 mm rốn và hố
chậu P. 1 X 5mm vào hố chậu T. Vào ổ bụng, thấy niệu quản P giãn, tử cung
to, vết mổ vùng eo đã được phúc mạc hoá
- Vùng niệu quản ngay chỗ bắt chéo với động mạch tử cung có hiện
tượng viêm dính cứng chắc.
- Cắt niệu quản tại chỗ dính – Bóc tách bàng quang cắt dây chằng tròn
phải.
- Cố định đỉnh bàng quang vào cơ thăn (P) bằng vicryl1.0

- Cắn niệu quản (P) vào bàng quang Có 1 nòng niệu quản bên bàng
quang.
- Đóng bàng quang 1 lớp mũi liên tục
- Dẫn lưu phúc mạc đóng trocar.
Hậu phẫu ổn định – bệnh nhân xuất viện ngày thứ 10 không biến
chứng hẹp và ngược dòng bàng quang-niệu quản kiểm tra qua UIV và UCR.
BÀN LUẬN
Bệnh nhân thường nhập viện vào tuần lễ thứ 2 với triệu chứng dò
nước tiểu ra âm đạo, thận ứ nước 1 hoặc 2 bên trên cơ thể suy yếu sau một
cuộc đại phẫu. Chọn phương pháp mổ sao cho đơn giản, nhẹ nhàng nhưng
có kết quả cao là xu hướng phát triển hiện nay của ngành phẫu thuật.
Nội soi là phẫu thuật được ưa chuộng hiện nay của cả phẫu thuật viên
và người bệnh. Do rút ngắn thời gian nằm viện giảm đau vết mổ, bệnh nhân
có thể trở lại sinh hoạt với gia đình sớm hơn.
Phẫu thuật nội soi để tạo hình trong các biến chứng về sản khoa chưa
được phát triển rộng rãi, do có thể các phẫu thuật viên còn e ngại về mức độ
phức tạp của cuộc phẫu thuật trước.
Nhân hai trường hợp đầu tiên áp dụng nội soi trong phúc mạc cắm lại
niệu quản vào bàng quang cơ thăn thành công. Xin báo cáo đến quý đồng
nghiệp.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật nội soi qua phúc mạc trong dò niệu quản-âm đạo sau mổ
sản phụ khoa còn là phẫu thuật mới bắt đau trong kỹ thuật mổ của thế giới.
Nhưng triển vọng khả quan vì tính ít xâm hại và không phải đợi thời gian 3
tháng để ổn định vết thương. Phẫu thuật cần được nghiên cứu với số lương
nhiều hơn để hoàn thiện.

×