Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

MỘT VÀI ĐẶC ĐIỂM VỀ DỊCH TỄ HỌC VÀ HÌNH ẢNH CỘNG HƯỞNG TỪ CỦA U SỌ HẦU potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.94 KB, 15 trang )

MỘT VÀI ĐẶC ĐIỂM VỀ DỊCH TỄ HỌC
VÀ HÌNH ẢNH CỘNG HƯỞNG TỪ CỦA U SỌ HẦU

Tóm tắt
Mở đầu: Cộng hưởng từ là một kĩ thuật hình ảnh mới và giúp ích
nhiều trong các bệnh lý thần kinh.
Mục tiêu: Nghiên cứu khảo sát một số đặc điểm dịch tễ học và hình
ảnh cộng hưởng từ của u sọ hầu.
Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu khảo sát tại bệnh viện Chợ Rẫy
với 70 bệnh nhân u sọ hầu đã được phẫu thuật và có kết quả giải phẫu bệnh.
Kết quả và kết luận: U sọ hầu có 2 đỉnh tuổi, 5-15 tuổi và 35-45 tuổi,
xuất độ bệnh thiên về nam giới. Vị trí thường ở vùng trên yên, có hoặc
không kèm thành phần trong yên. Cấu trúc thường là dạng nang với tín hiệu
dịch nang cao hơn dịch não tủy trên T1W. Thường không xâm lấn xoang
hang.
Abstract
Background: Magnetic resonance imaging is a new technique playing
a key role in neurology.
Objectives: We studied some epidemiologic and MR imaging
characteristics of craniopharyngioma.
Method: Retrospective study 70 craniopharyngioma cases operated in
Cho Ray hospital and having pathological results.
Results and conclusions: Craniopharyngioma has two peak of age: 5-
15 and 35-45 year-old, male predominance. Common location is suprasellar
area, with or without intrasellar component. Usually seen as cystic masses
with cyst signal intensity higher than cerebral spinal fluid signal intensity.
Cavernous sinuses involvement is not often observed.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Vùng yên và quanh yên là một vùng có cấu trúc giải phẫu phức tạp. Đây
là nơi đan xen giữa hệ nội tiết, các cấu trúc thần kinh, mạch máu, dịch não tủy,
màng não, và xương bản sọ. Tổn thương tại vùng khá đa dạng, phản ánh sự liên


quan phức tạp và chặt chẽ giữa những cấu trúc ở đây với các chức năng thần
kinh, nội tiết, mạch máu khác nhau.
Tổn thương tân sinh tại vùng tùy theo vị trí mà chia thành tổn thương
trong yên, trên yên, và cạnh yên. Chẩn đoán phân biệt trên hình ảnh học
những khối u vùng yên phần nào dựa vào vị trí chủ yếu của khối.
Tại hố yên, ngoài u tuyến yên là loại u thường gặp nhất còn có một số
loại u khác, cả lành tính và ác tính. Trong số này có các u tương đối thường
gặp như u màng não và u sọ hầu. U sọ hầu chiếm khoảng 2-4% u não
nguyên phát, 10-15% u trong-trên yên, và khoảng 50-60% u trong-trên yên ở
trẻ em. Đây là loại u không thuộc nhóm u thần kinh đệm thường gặp nhất ở
trẻ em
(1,2,5)
. U sọ hầu có mô học lành tính nhưng lại có khuynh hướng dính
vào các cấu trúc xung quanh, trong đó có các cấu trúc thần kinh, mạch máu
quan trọng. Đường tiếp cận cũng như tiên lượng trước những vấn đề trong
khi phẫu thuật các u này ngoài việc tùy theo loại u còn phụ thuộc vào liên
quan của u với các cấu trúc lân cận. Cộng hưởng từ đóng vai trò quan trọng
để giúp xác định những điều này.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang, thực hiện trên 70 bệnh
nhân u sọ hầu đã được phẫu thuật ở Khoa Ngoại Thần kinh bệnh viện Chợ
Rẫy từ tháng 01/2002 đến tháng 06/2005, đã có kết quả giải phẫu bệnh và có
chụp cộng hưởng từ. Thu thập số liệu và thống kê một số đặc điểm về dịch
tễ như tuổi, giới tính, và một số đặc điểm hình ảnh trên cộng hưởng từ như
vị trí phân bố, cấu trúc, cường độ tín hiệu dịch nang trên T1W, tính xâm lấn
xoang hang.
KẾT QUẢ
Tuổi
Tuổi của bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu nhỏ nhất là 2 tuổi và lớn
nhất là 61 tuổi. Tuổi trung bình là 27 với độ lệch chuẩn 17,58. Số bệnh nhân

dưới 20 tuổi là 32 bệnh nhân, tỉ lệ 45,7%, trên 50 tuổi là 9 bệnh nhân, tỉ lệ
12,8%. Trong đó, hai khoảng tuổi có số lượng bệnh nhân tập trung nhiều nhất
là 5-15 tuổi với tần số và tỉ lệ lần lượt là 25 bệnh nhân và 35,7%; khoảng tuổi
thứ hai là 35-45 tuổi với 15 bệnh nhân chiếm tỉ lệ 21,4%. Số bệnh nhân trong
khoảng tuổi 50-60 là 8 bệnh nhân, 11,4%.
Giới tính
Trong 70 bệnh nhân u sọ hầu này, số lượng bệnh nhân nữ là 25
bệnh nhân, chiếm tỉ lệ 35,7%; số lượng bệnh nhân nam là 45 bệnh nhân,
chiếm tỉ lệ 64,3%.
Vị trí
U sọ hầu trong nhóm nghiên cứu chia thành các nhóm vị trí trên yên,
trong yên hoàn toàn, phối hợp vị trí trong và trên yên. Nhóm nằm hoàn toàn
trong yên có 2 bệnh nhân, chiếm tỉ lệ 2,9%. Nhóm ở vị trí trên yên là 29
bệnh nhân, chiếm tỉ lệ 41,4%. Nhóm có vị trí phối hợp trong và trên yên là
39 bệnh nhân, chiếm tỉ lệ 55,7%.
Cấu trúc
21 bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu có cấu trúc dạng nang đơn
thuần, không có thành phần đặc kèm theo hay chồi trong nang, chiếm tỉ lệ
30%. Dạng cấu trúc hỗn hợp vừa thành phần nang vừa thành phần đặc hoặc
nang có chồi là 48 bệnh nhân, chiếm tỉ lệ 68,6%. Dạng cấu trúc đặc hoàn
toàn là 1 trường hợp, tỉ lệ 1,4%.
Cường độ tín hiệu nang trên T1W
Ngoại trừ 1 trường hợp trong quần thể nghiên cứu không có thành
phần nang trong cấu trúc chiếm tỉ lệ 1,4%, 69 trường hợp còn lại có thành
phần nang với nhiều loại cường độ tín hiệu khác nhau trên T1W:từ ngang tín
hiệu dịch não tủy đến cao hơn dịch não tủy với các mức độ khác nhau. Chỉ 1
trong số 69 trường hợp này có cường độ tín hiệu dịch nang ngang với tín
hiệu của dịch não tủy, chiếm tỉ lệ 1,4%, 68 trường hợp còn lại đều có cường
độ tín hiệu dịch nang cao hơn tín hiệu dịch não tủy, chiếm tỉ lệ 97,2%.
Tính xâm lấn xoang hang

Xâm lấn xoang hang gần như là chắc chắn nếu mạch máu bị bao bọc
hơn 67%. Khả năng xâm lấn càng cao nếu ngăn rãnh cảnh-tĩnh mạch
(carotid sulcus venous compartment) là khoang giữa động mạch cảnh trong
xoang hang và rãnh cảnh của xương bướm bị đẩy lệch, hoặc đường ranh dọc
theo bờ ngoài của đoạn trong xoang hang và đoạn trên xoang hang của động
mạch cảnh trong bị cắt ngang. Gần như sẽ loại trừ được khả năng có xâm lấn
nếu mạch máu bị bao bọc ít hơn 25% hoặc đường dọc theo bờ trong của
đoạn trong xoang hang và đoạn trên xoang hang của động mạch cảnh trong
không bị cắt ngang.
Có 7 trường hợp, chiếm tỉ lệ 10%, có xâm lấn xoang hang. 63 trường
hợp còn lại, chiếm tỉ lệ 90%, không có xâm lấn xoang hang.
BÀN LUẬN
Tuổi
U sọ hầu là loại u không thuộc nhóm u thần kinh đệm thường gặp nhất
ở trẻ em. U sọ hầu chiếm khoảng 2-4% u não nguyên phát, 10-15% u trong-
trên yên, và khoảng 50-60% u trong-trên ở trẻ em. Theo các tài liệu ghi
nhận, u có hai đỉnh xuất độ, đỉnh cao nhất là trong khoảng 5-15 tuổi, và đỉnh
thứ hai thấp hơn trong khoảng 50-60 tuổi
(3,4,6,7,8,10)
.
Trong quần thể nghiên cứu, bệnh xuất hiện ở mọi độ tuổi, với tuổi thấp
nhất là 2 tuổi và cao nhất là 61 tuổi. Tần suất bệnh ở các độ tuổi gần tương
đương nhau trừ hai nhóm tuổi có xuất độ cao hơn. Nhóm thứ nhất là khoảng
tuổi 5-15 tuổi, 25 bệnh nhân với tỉ lệ 35,7%. Nhóm thứ hai là khoảng tuổi 35-
45 tuổi, 15 bệnh nhân chiếm tỉ lệ 21,4%.
Như vậy, đỉnh xuất độ cao nhất của quần thể nghiên cứu cũng phù
hợp với ghi nhận của y văn. Tỉ lệ nhóm bệnh nhân dưới 20 tuổi trong quần
thể nghiên cứu là 45,7%, thấp hơn so với ghi nhận trong tài liệu của y văn,
67%; có thể do mẫu nghiên cứu được thực hiện ở bệnh viện Chợ Rẫy nên
không tập trung nhóm bệnh trẻ em.

Riêng đỉnh xuất độ thứ hai theo nghiên cứu thì nằm ở khoảng tuổi trẻ
hơn (35-45 tuổi) so với ghi nhận trong y văn (50-60 tuổi). Trong quần thể
nghiên cứu nhóm bệnh trong khoảng tuổi 50-60 chỉ chiếm 11,4%, và nhóm
bệnh nhân trên 50 tuổi chỉ chiếm 12,8%, thấp hơn so với nhóm 35-45 tuổi,
21,4%. Sự khác biệt này có phải do yếu tố chủng tộc hay không cần có
những nghiên cứu khác để đối chiếu.
Giới tính
Một số tài liệu ghi nhận không có sự khác biệt về xuất độ u sọ hầu
giữa hai giới
(3,4,6,7,8,10)
, nhưng cũng có một số tác giả ghi nhận xuất độ có ưu
thế nhẹ về phía nam giới (55%)
(1,2,5)
.
Trong quần thể nghiên cứu, số lượng bệnh nhân nữ là 25 bệnh nhân,
chiếm tỉ lệ 35,7%, số lượng bệnh nhân nam là 45 bệnh nhân với tỉ lệ 64,3%. Sự
khác biệt giữa nam và nữ này được kiểm định là có ý nghĩa thống kê với độ tin
cậy 95%.
Như vậy, theo nghiên cứu, có sự khác biệt về xuất độ u sọ hầu giữa
hai giới với ưu thế xuất độ nghiêng về nam giới.
Vị trí
Các tài liệu ghi nhận u sọ hầu có vị trí chủ yếu là ở vùng trên yên, hoặc
phối hợp vị trí trong và trên yên. Tuy nhiên, tỉ lệ giữa nhóm vị trí trên yên đơn
thuần và nhóm phối hợp vị trí trong-trên yên có khác nhau giữa các tác giả
(xem bảng)
(4,8,9,10)
.
Theo nghiên cứu, nhóm vị trí trong yên hoàn toàn là thấp nhất, 2 bệnh
nhân, chiếm tỉ lệ 2,9%. Nhóm vị trí phối hợp trong-trên yên có tỉ lệ cao hơn
(55,7%) so với nhóm vị trí trên yên đơn thuần (41,4%).

Bảng so sánh tỉ lệ giữa các vị trí của u sọ hầu, giữa các tác giả và
nghiên cứu.
Tác giả
Trên
yên (%)
Trong-
trên yên (%)

Trong
yên (%)
Nghiên
cứu
41,4

55,7 2,9
Lawrence
20 70 10
S Chin
Anna
Osborn
20 70 10
Jeffrey R
Wasserman
75 21 4
J Keith
Smith
60 30 10
Cấu trúc
U sọ hầu thường có cả thành phần đặc và thành phần nang trong cấu
trúc, trong đó, thành phần nang có tỉ lệ hiện diện cao, từ 70% đến 85%

(2,7)
. Ở
trẻ em, cấu trúc dạng nang chiếm ưu thế hơn so với người lớn. Đối với người
lớn, y văn ghi nhận thường có thành phần đặc hơn, thành phần nang thường
nhỏ hơn hoặc dạng đa thùy. Ngoài ra, còn có ghi nhận về dạng cấu trúc đặc
hoàn toàn, không kèm thành phần nang, chiếm tỉ lệ khoảng 10%
(6)
.
Trong quần thể nghiên cứu, có cả dạng nang đơn thuần, đặc đơn
thuần, và dạng cấu trúc hỗn hợp cả thành phần nang và thành phần đặc. Đại
đa số các trường hợp đều có thành phần nang trong cấu trúc, với 69 trường
hợp, chiếm tỉ lệ 98,6%. Dạng có cấu trúc nang đơn thuần là 21 trường hợp,
chiếm tỉ lệ 30%. Dạng chỉ có thành phần đặc trong cấu trúc chỉ 1 trường
hợp, chiếm tỉ lệ 1,4%. Điều này cũng phù hợp với ghi nhận của các tác giả
khác trong y văn.
Bảng tỉ lệ cấu trúc của u sọ hầu.
Tác giả


thành ph
ần
nang (%)
Cấu
trúc đ
ặc
hoàn toàn
(%)
Nghiên
cứu
98,6 1,4

Mark
Pisaneschi
85 15
Asley
Grossman
90 10
George
C Bobustuc
70-85

15-30

Wang
85 15
YX
Xét về tương quan giữa dạng cấu trúc và tuổi bệnh nhân. Số bệnh
nhân dưới 18 tuổi là 28, tất cả đều có thành phần nang trong cấu trúc với các
tỉ lệ giữa thành phần nang và thành phần đặc khác nhau, không có trường
hợp nào có cấu trúc đặc hoàn toàn. Số bệnh nhân trên 18 tuổi là 42, trong đó
41 trường hợp (97,6%) có thành phần nang trong cấu trúc, 1 trường hợp
(2,4%) có cấu trúc đặc hoàn toàn.
Như vậy, kết quả của nghiên cứu cũng phù hợp với ghi nhận của y
văn: dạng cấu trúc nang chiếm ưu thế ở cả hai đối tượng người lớn và trẻ
em. Riêng ở người lớn, tỉ lệ cấu trúc đặc cao hơn.
Cường độ tín hiệu nang trên T1W
Trên T1-weighted MRI, thành phần nang điển hình tăng tín hiệu so với
dịch não tủy, đồng tín hiệu ít gặp hơn
(6,7)
. Hình ảnh tăng tín hiệu tương ứng với
các nang chứa chất giống dầu máy, với thành phần là các mảnh vụn protein,

cholesterol, keratin, mảnh hoại tử, hemoglobin, Có thể thấy được mực phân
cách dịch với mảnh vụn bên trong nang
(6,7)
. Kết quả của nghiên cứu cũng phản
ánh đặc điểm này: trong 69 trường hợp có thành phần nang trong cấu trúc, 68
trường hợp (97,2%) có cường độ tín hiệu dịch nang trên T1W cao hơn dịch não
tủy với nhiều mức độ khác nhau, từ thấp hơn tín hiệu chất xám đến cường độ
tín hiệu rất cao, cao hơn chất xám, ngang với tín hiệu dịch trên T2W. Chỉ 1
trường hợp (1,4%) có cường độ tín hiệu dịch ngang với dịch não tủy. Nếu tính
riêng tỉ lệ trong nhóm u sọ hầu có thành phần nang thì nhóm cường độ tín hiệu
cao hơn dịch não tủy là 98,5% và ngang tín hiệu dịch não tủy là 1,5%.


Hình 1: U sọ hầu nằm trong yên, cấu trúc dạng nang với dịch nang có
tín hiệu tăng cao hơn dịch não tủy trên T1W.
Xâm lấn xoang hang
Với kết quả nghiên cứu, đa số u sọ hầu không gây xâm lấn xoang
hang, chiếm tỉ lệ 90%. Điều này có thể do đặc điểm phát triển của u sọ hầu.
Vị trí chủ đạo của u sọ hầu là vùng trên yên, từ đây, u có thể phát triển rộng
lên trên và sang bên, vào nhu mô não trán và thái dương; hoặc u có thể phát
triển xuống dưới vào góc cầu - tiểu não và hố sau, u ít phát triển rộng xuống
dưới để xâm lấn vào xoang hang hai bên. Ngoài ra, u sọ hầu có mô học lành
tính, thường chỉ gây dính vào các cấu trúc lân cận mặc dù đôi khi chân biểu
mô ở rìa u có thể xâm nhập vào nhu mô não.

Hình 2: U sọ hầu cấu trúc gồm nhiều nang với tín hiệu dịch nang tương
đương dịch não tủy trên T1W.

Hình 3: U sọ hầu cấu trúc dạng đặc.
KẾT LUẬN

U sọ hầu là một loại u ngoài trục có mô học lành tính, phát triển chậm.
Đề tài thực hiện trên 70 bệnh nhân rút ra được một số đặc điểm về dịch tễ và
hình ảnh cộng hưởng từ.
Về mặt dịch tễ, u sọ hầu có hai đỉnh tuổi: 5-15 tuổi và 35-45 tuổi, đỉnh
thứ hai theo nghiên cứu trẻ hơn so với ghi nhận của y văn (50-60 tuổi). U có
xuất độ thiên về nam giới với tỉ lệ nam:nữ # 1,8:1.
Về hình ảnh cộng hưởng từ: Vị trí chủ đạo của u sọ hầu là trên yên,
với 41,4% trên yên đơn thuần và 55,7% ở vị trí trong-trên yên phối hợp; chỉ
2,9% ở trong yên hoàn toàn.
Đại đa số u sọ hầu có thành phần nang trong cấu trúc, 98,6%, chỉ
1,4% có cấu trúc đặc đơn thuần. Cường độ tín hiệu chủ đạo của dịch nang là
cao hơn tín hiệu của dịch não tủy, 98,5%, chỉ 1,5% có cường độ tín hiệu
ngang với dịch não tủy.
U sọ hầu chủ yếu không xâm lấn xoang hang.

×