Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

nợ xấu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.68 KB, 19 trang )

I. Khái quát chung về nợ xấu
1.Khái niệm
Nợ xấu- là một khoản tiền cho vay mà chủ nợ xác định không thể thu hồi lại được và bị
xóa sổ khỏi danh sách các khoản nợ phải thu của chủ nợ. Đối với các ngân hàng, nợ xấu
tức là các khoản tiền cho khách hàng vay, thường là các doanh nghiệp, mà không thể thu
hồi lại được do doanh nghiệp đó làm ăn thua lỗ hoặc phá sản,...Nợ xấu được coi là chi
phí khác của doanh nghiệp cho vay, chính vậy nên làm giảm thu nhập dòng. Nhìn chung,
một doanh nghiệp luôn phải ước tính trước những khoản nợ xấu trong chu kỳ kinh doanh
hiện tại dựa vào những số liệu nợ xấu ở kì trước. Đa số các công ty đều cho phép một tỉ
lệ nợ xấu nhất định trên tổng nợ vì chắc chắn một điều là không thể thu hồi được mọi
khoản nợ một cách đầy đủ nhất.
Khi doanh nghiệp bán hàng hoặc cung cấp dịch vụ, xét về mặt kế toán họ sẽ ghi nhận
doanh thu và song song với đó là ghi nhận các khoản phải thu. Tuy vậy bên cạnh đó bao
giờ doanh nghiệp cũng dự tính một tỉ lệ nhất định khoản nợ không thể thu hồi được và
ghi nó vào một tài khoản đối lập, gọi là dự phòng phải thu khó đòi. Nếu trong thực tế
khách hàng không thanh toán được khoản nợ này thì doanh nghiệp sẽ xóa sổ khỏi danh
sách dự phòng coi đó là một khoản chi phí, gọi là chi phí nợ xấu.
2.Phân loại
Theo quyết định 493 của NHNN, định nghĩa nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm ba
(nợ dưới tiêu
chuẩn), nợ nhóm bốn (nợ nghi ngờ) và nợ nhóm năm (nợ có khả năng mất vốn), cụ thể:
Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là
không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được tổ chức tín
dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi:
- Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ
cấu lại;
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 3 theo quy đinh tài Khoản 3 và Khoản
4.
Nhóm 4 ( Nợ nghi ngờ) bao gồm các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là khả
năng tổn thất cao:


-Các khoản nợ quá hạn từ 181 đên 360 ngày;
-Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời hạn đã
cơ cấu lại;
-Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 4.
Nhóm 5: ( Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh
giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn:
+ Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
+ Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý;
+ Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được
cơ cấu lại;
+ Các khoản nợ khác được phân lọa vào nhóm 5 theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 4:
Khoản 3: Trường hợp một khách hàng có nhiều hơn một khoản nợ với tổ chức tín dụng
mà có bất kỳ khoản nợ bị chuyên sang nhóm nợ rủi no cao hơn thì tổ chức tín dụng bắt
buộc phải phân loại các khoản nợ còn lại của khách hàng đó vào các nhóm nợ rủi ro cao
hơn tương ứng bới mức độ rủi ro.
Khoản 4: Trường hợp các khoản nợ( kể cả các khoản nợ trong hạn và các khoản nợ cơ
cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại) mà tổ chức tín dụng có
đủ cơ sở để đánh giá là khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm thì tổ chức tín dụng
chẻ động tự quyết định phân loại các khoản nợ đó vào các nhóm nợ rủi no cao hơn
tương ứng bới mức độ rủi ro.
II. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp giải quyết nợ xấu ở Việt Nam
1. Thực trạng
Trong Hội Thảo Khoa Học: “Cơ chế xử lý nợ: Xu hướng thế giới và thực tiễn Việt Nam”
được Viện Chiến lược và Chính sách tài chính và Công ty mua bán nợ Việt Nam (DATC)
tổ chức ngày 19/9/2012. Hội thảo đã thu hút được sự tham gia của nhiều chuyên gia kinh
tế, tài chính tập trung bàn về cơ chế, công cụ xử lý nợ trên thị trường tài chính, tiền tệ Việt
Nam cũng như kinh nghiệm xử lý nợ của một số quốc gia trong bối cảnh hiện nay… nhằm
tìm kiếm cơ chế xử lý nợ hiệu quả cho thực tiễn ở Việt Nam.
Tại Hội thảo này, các chuyên gia kinh tế đều cho rằng, nợ xấu là vấn đề bức bách của nền
kinh tế Việt Nam hiện nay, vấn đề này cần phải giải quyết được càng sớm càng tốt; có như

thế mới khơi thông được dòng vốn, phục hồi sản xuất của các doanh nghiệp, đẩy đà tăng
trưởng kinh tế đất nước.
Quá trình tăng trưởng nhanh của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua đi kèm với đó là
tỷ lệ nợ xấu tăng lên. Đặc biệt là tỷ lệ tăng trưởng tín dụng trong hệ thống ngân hàng đạt
mức bình quân 30%/năm trong những năm gần đây, tỷ lệ tín dụng/GDP đã tăng từ 40,1%
vào năm 2000 lên tới 125% vào năm 2010… đi cùng với sự tăng trưởng này thì số nợ xấu
cũng tăng theo. Số liệu về nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD) chính thức được Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) công bố đầu tháng 7/2012 cho thấy: Nợ xấu của hệ thống ngân
hàng đến cuối tháng 3/2012 là hơn 202.000 tỷ đồng, chiếm 8,6% tổng dư nợ cấp tín dụng.
Con số này vượt xa con số 117.000 tỷ đồng theo báo cáo của chính các TCTD. Cụ thể, theo
báo cáo của các TCTD đến ngày 31/5/2012, nợ xấu là hơn 117.000 tỷ đồng, chiếm 4,47%
so với tổng dư nợ. Tuy nhiên, theo kết quả giám sát của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân
hàng thì đến 31/3/2012 nợ xấu là hơn 202.000 tỷ đồng, chiếm 8,6% tổng dư nợ. Kết quả
này dựa trên giám sát của cơ quan đối với gần 1,01 triệu khách hàng vay được chọn mẫu
của 57 TCTD Việt Nam, chiếm 90,1% tổng dư nợ tín dụng của các TCTD. Cũng theo kết
quả giám sát của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, đến cuối tháng 3/2012 trong hơn
1 triệu khách hàng được chọn mẫu khảo sát tại 57 TCTD của Việt Nam có 10.782 khách
hàng có hệ số nợ/vốn chủ sở hữu từ 3 lần trở lên. Một thực tế cho thấy, dù là con số nào thì
số nợ xấu của Việt Nam là rất lớn.
Lý giải về nguyên nhân nợ xấu, bà Dương Thu Hương, nguyên Tổng thư ký Hiệp hội ngân
hàng khẳng định, nợ xấu hiện nay là tất yếu vì cả quá trình kinh tế khó khăn từ năm 2008.
Thêm vào đó, nợ xấu cũng đã tồn tại từ lâu, không phải bây giờ mới xuất hiện và được
quan tâm. Quan trọng là chúng ta nhìn nhận và đánh giá, xử lý nó như thế nào. Trong việc
xác định nợ xấu, ngoài số nợ đã xuất hiện, cần tính tới cả nợ đã được giãn nợ, đảo nợ để
xác định được các rủi ro tiềm ẩn có thể xuất hiện trong tương lai. Khi xác định được chính
xác nợ xấu rồi mới tìm được hướng giải quyết. Cũng theo bà Hương, hiện tại yếu tố tồn
kho lớn cũng góp phần làm nên nợ xấu lớn cho nền kinh tế và có giải quyết được tồn kho
mới có thể giải quyết được nợ xấu. Theo đó, trước hết để giảm tồn kho của nền kinh tế,
ngoài việc tăng chi tiêu chính phủ, mở rộng đầu tư thì cũng cần giảm thuế cho doanh
nghiệp, giảm thuế VAT để giảm giá thành, nâng cao sức mua.

Theo PGS.,TS. Nguyễn Thị Mùi, một trong những nguyên nhân quan trọng khiến nợ xấu
gia tăng là do năng lực quản trị rủi ro tại mỗi ngân hàng, thể hiện trong việc xếp hạng tín
dụng nội bộ khách hàng, nên kết quả xếp hạng tín dụng mang tính chất chủ quan. Các ngân
hàng chưa xây dựng được thước đo lượng hóa rủi ro nên chưa tính toán chính xác được
yếu tố này dẫn đến quyết định cho vay, phân loại nợ chưa chính xác. Những khoản rủi ro to
thì làm bé đi, khoản vay bé thì làm cho nó to lên. Bên cạnh đó, hiện có đến 90% là doanh
nghiệp vừa và nhỏ, không ít doanh nghiệp có báo cáo tài chính không chính xác, trong khi
phần lớn các báo cáo tài chính này lại không được kiểm toán. Ngay cả đối với những
doanh nghiệp lớn được kiểm toán thì sự chậm chễ trong việc công bố báo cáo cũng như
chất lượng kiểm toán cũng gây không ít khó khăn cho ngân hàng. “Vì thế, một số khoản
vay ra khỏi ngân hàng, bản chất đã là nợ xấu, không cần phải đợi đến khi không trả được
nợ. Biết vậy, nhưng ngân hàng không dễ ngăn chặn được. Đặc biệt khi các ngân hàng và
doanh nghiệp có quan hệ “mật thiết,” phụ thuộc lẫn nhau (sở hữu chéo) thì nguồn lực dễ bị
phân bổ, sai lệch, bất hợp lý, cho vay bất chấp các quy định về an toàn vốn, nợ xấu tất yếu
sẽ tăng lên” - PGS.,TS. Nguyễn Thị Mùi nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, nợ xấu còn có nguyên nhân sâu xa từ đạo đức nghề nghiệp của một số cán bộ
ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng là ngành kinh doanh đặc thù, cần dựa trên sự tin cậy
và mức độ tín nhiệm thì đạo đức phải được đặt lên hàng đầu và ở khía cạnh nào đó còn
mang tính bắt buộc. Thực tế cho thấy, nhiều cán bộ ngân hàng đã thông đồng rút ruột với
khách hàng, cho vay khống dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Chính vì vậy đã có chi
nhánh phải xử lý hàng chục nhân viên do cấu kết với nhau rút ruột ngân hàng. Tuy nhiên
hiện chưa có tính toán, trong tỷ lệ nợ xấu có bao nhiêu xuất phát từ đạo đức ngân hàng.
Ngoài ra, nợ xấu còn nằm ở dạng “chuyển vốn cho vay thành vốn góp.” Khoản nợ này
không chỉ “rất xấu” mà còn nguy hiểm ở chỗ đôi khi chỉ tồn tại trên sổ sách của con nợ và
chủ nợ.
Trước tình trạng nợ xấu gia tăng, các chuyên gia đều thống nhất quan điểm, trước khi bàn
cơ chế xử lý nợ xấu, chúng ta phải tìm ra câu trả lời rằng tại sao nợ xấu lại lớn như vậy và
con số nợ xấu hiện tại có đáng lo ngại hay không. Nợ xấu sẽ không thể xử lý được nếu như
không biết rõ cơ cấu, bản chất của nợ xấu như thế nào.
2. Nguyên nhân

Nợ xấu của các tổ chức tín dụng tăng nhanh trong thời gian qua là do một số nguyên nhân
khách quan và chủ quan sau:
- Nguyên nhân khách quan: Kể từ cuối năm 2008, do tác động tiêu cực của cuộc khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu nên môi trường kinh doanh trong nước gặp rất
nhiều khó khăn. Những khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh đã làm cho chất
lượng tín dụng suy giảm và nợ xấu tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng
1
. Đặc biệt,
từ năm 2011 đến nay, tổng cầu của nền kinh tế giảm mạnh, tiêu thụ hàng hóa gặp nhiều
khó khăn, hàng tồn kho lớn, thị trường bất động sản đóng băng, năng lực tài chính của
doanh nghiệp giảm sút... làm cho tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng năm 2011 chậm lại
đáng kể và trong 7 tháng đầu năm 2012 chỉ tăng 1,02% nhưng nợ xấu tăng tới 45,5%.
- Nguyên nhân chủ quan:
+ Công tác quản trị, điều hành hoạt động tín dụng của một số tổ chức tín dụng còn bất cập,
như: Công tác thẩm định, quyết định cho vay, kiểm tra sử dụng vốn vay, giám sát tình hình
sản xuất kinh doanh của khách hàng chưa tuân thủ đúng quy định; Công tác phân tích, đánh
giá, phân loại khách hàng, lĩnh vực kinh doanh chưa sát với thị trường để có biện pháp ứng
xử kịp thời; Việc đánh giá tài sản đảm bảo cao hơn giá trị thực tế, nhận tài sản đảm bảo
không đầy đủ tính pháp lý, có tranh chấp dẫn tới tình trạng khó xử lý, phát mại hoặc phát
mại được thì giá trị thu hồi thấp. Một số tổ chức tín dụng áp dụng chiến lược tăng trưởng tín
dụng nhanh trong khi năng lực quản trị rủi ro còn nhiều hạn chế và chậm được cải thiện,
đặc biệt là các ngân hàng thương mại cổ phần chuyển đổi từ nông thôn lên đô thị dẫn đến
nợ xấu tăng nhanh hơn dư nợ tín dụng...
+ Trong những năm gần đây, các tổ chức tín dụng, nhất là các tổ chức tín dụng cổ phần liên tục
tăng vốn điều lệ dẫn đến sức ép tăng trưởng tín dụng để đảm bảo hiệu quả kinh doanh.
Nhiều tổ chức tín dụng có tốc độ tăng trưởng tín dụng hàng năm quá cao (trên 50%), trong
khi khả năng về quản trị rủi ro, giám sát vốn vay còn bất cập.
+ Năng lực thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước trong một thời gian dài còn hạn chế,
chưa phát huy hiệu lực, hiệu quả trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các vi
phạm và rủi ro trong hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng, nhất là các vi phạm quy

định về hạn chế cấp tín dụng và việc đầu tư quá mức vào một số lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro
cao.
3. Giải pháp giải quyết nợ xấu
Những định hướng theo kinh nghiệm quốc tế trong việc giải quyết nợ xấu:
1
Thứ nhất: Xây dựng một khuôn khổ pháp lý đủ mạnh để có thể điều tiết toàn
bộ các hoạt động liên quan đến việc xử lý nợ xấu, tạo lập một môi trường hoạt động
minh bạch, bình đẳng, thông suốt
Kinh nghiệm xử lý nợ xấu trên thế giới đã cho thấy, để các AMC dễ dàng thu hồi các
khoản nợ đã mua, các quốc gia nên xây dựng và phát triển khung pháp lý sẵn sàng cho một
thị trường mua bán và xử lý các tài sản xấu, tránh trường hợp khi muốn áp dụng một chính
sách xử lý nợ lại gặp phải những cản trở về mặt pháp lý trong việc thực thi cũng như thu
hút các nhà đầu tư như trường hợp của Trung Quốc. Tại thời điểm thực hiện chứng khoán
hóa, do Trung Quốc thiếu một khuôn khổ pháp lý hoàn thiện nên các dự án chứng khoán
hóa phải được thực hiện trong khuôn khổ của Luật Ủy thác (Trust Law) được ban hành
năm 2001 cho nên giải pháp này được xem là không mấy thành công.
Thứ hai: Các AMC phải được hình thành có định hướng và quyền lực rõ ràng
- Nhiệm vụ, sứ mệnh của AMCs cần được nêu rõ ràng. Quyền lực của AMCs cần được
giao cụ thể với nguồn ngân sách nhất định.
- Cần xác định rõ thời gian hoạt động của AMC khi AMC được thành lập vì rõ ràng nếu
không có 1 khoảng thời gian định trước, AMC có thể sẽ không có động cơ hoạt động hiệu
quả (thu hồi nợ xấu càng nhanh thì cơ quan này càng nhanh chóng ngừng hoạt động).
Nếu như không có định hướng hoạt động rõ ràng, hiệu quả của các AMC sẽ rất thấp,
thậm chí còn thâm dụng vốn của Nhà nước. Trường hợp của Thái Lan là một bài học đáng
lưu ý. Do việc xác định các mục tiêu hoạt động ban đầu của các AMC là không rõ ràng,
không xác định rõ trách nhiệm ràng buộc nên mô hình các AMC phân tán mà Thái Lan áp
dụng xử lý nợ xấu trong giai đoạn đầu tiên đã thất bại. Nợ xấu ở các AMC của ngân hàng
tư nhân gần như không xử lý được, thậm chí mức an toàn vốn mà các ngân hàng phải duy
trì đã tăng lên gấp đôi. Còn ở các ngân hàng nhà nước, mục tiêu chủ yếu của chuyển hóa
tài sản là cơ cấu lại nguồn vốn ngân hàng chứ không trọng tâm vào tối đa hóa giá trị hoàn

lại của các khoản nợ xấu. Chính vì vậy mà đến năm 2001, Thái Lan đã phải thành lập một
công ty quản lý tài sản tập trung có tên Thai Asset Management Corporation (TAMC).

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×