Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

KẾT QUẢ PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ SANG THƯƠNG QUANH CHÓP RĂNG ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.39 KB, 25 trang )

KẾT QUẢ PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ SANG THƯƠNG
QUANH CHÓP RĂNG

TÓM TẮT
Mục tiêu: Nhằm đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị sang thương
quanh chóp răng, thực hiện hồi cứu trên 24 bệnh nhân (34 răng).
Phương pháp: Bệnh nhân được tái khám và đánh giá dực trên các
tiêu chuẩn về lâm sàng và X quang,
Kết quả cho thấy hấu hết các trường hợp đều có lành thương hoàn
toàn trên xương (70%), kết quả tốt trên lâm sàng (80%).
Kết luận: Các trường hợp lành thương xương không hoàn toàn đếu
liên quan đến tình trạng nội nha không đạt và thời gian từ lúc nội nha đến
lúc phẫu thuật dài.
ABSTRACT
Objective: In order to evaluate the results of apicoectomy, a retrospective
study was carried out on 24 cases.
Method: Patients were re-examined and apical lesion evaluated using
radiographic and clinical criteria.
Conclusion: Most cases with incomplete bone repair were related to
unacceptable endodontic treatment and/or delayed surgery following
eudodontic treatment.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Mục tiêu chung của điều trị nội nha là bảo tồn răng, hầu hết các răng
cần điều trị tuỷ đều đáp ứng tốt với phương pháp điều trị không phẫu thuật.
Tuy nhiên khi điều trị nội nha thông thường gặp khó khăn, không thể thực
hiện, hoặc một phục hình không thể tháo gỡ,… hay một sang thương có kích
thước quá lớn (mà nếu chỉ điều trị nội nha thông thường sẽ không thể đem
lại sự lành thương hoàn hảo) thì phương pháp điều trị bằng phẫu thuật sẽ
được chỉ định nhằm mục đích loại bỏ những nguyên nhân gây bệnh vùng
chóp và để bảo tồn răng.
Phẫu thuật cắt chóp chân răng nhằm loại bỏ mô bệnh vùng chóp và có


hoặc không có kèm trám ngược; thành công của phẫu thuật phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, như mức độ vô trùng của quá trình phẫu thuật, sự loại bỏ hoàn
toàn những mô bệnh,… và quan trọng là sự cô lập được hệ thống ống tủy
với môi trường xung quanh. Một số nhà lâm sàng cho rằng việc trám ngược
cho phép cô lập hệ thống ống tủy một cách hiệu quả và là một yếu tố vô
cùng quan trọng trong sự thành công của phẫu thuật cắt chóp. Để đánh giá
sự thành công của phẫu thuật cắt chóp, các tác giả đều cho rằng ngoài việc
đánh giá về vi sinh học, cần dựa vào phim tia X và một số tiêu chuẩn lâm
sàng sau thời gian phẫu thuật.
Tại bộ môn Nhổ Răng-Tiểu Phẫu Thuật, Khoa Răng Hàm Mặt, Đại
Học Y Dược TP.HCM chúng tôi đã thực hiện việc điều trị các sang thương
quanh chóp bằng phương pháp phẫu thuật cắt chóp và có hay không có trám
ngược cho nhiều trường hợp lâm sàng. Nhằm đánh giá kết quả điều trị và
góp phần xây dựng số liệu lý thuyết giảng dạy của Bộ môn, chúng tôi thực
hiện nghiên cứu hồi cứu “Đánh giá kết quả của phẫu thuật cắt chóp điều trị
sang thương quanh chóp răng từ tháng 09/1999 đến tháng 09/2001”, với mục
tiêu sau:
Mục tiêu tổng quát
Đánh giá kết quả điều trị sang thương quanh chóp bằng phẫu thuật cắt
nạo chóp
Mục tiêu chuyên biệt
- Khảo sát đặc điểm dịch tể học của sang thương quanh chóp.
- Đánh giá sự lành thương trên lâm sàng và trên phim tia X của bệnh
nhân sau phẫu thuật cắt nạo chóp.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Bao gồm tất cả các bệnh nhân được phẫu thuật cắt chóp có và không
có trám ngược, không sử dụng mô ghép trên vùng sang thương tại Bộ môn
Nhổ Răng – Tiểu Phẫu Thuật khoa Răng Hàm Mặt trường Đại học Y Dược
TP Hồ Chí Minh từ tháng 09/1999 đến tháng 09/2001.

Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu hồi cứu.
Qui trình nghiên cứu
Thu thập số liệu trên các hồ sơ bệnh án
Tổng kết bệnh án của những bệnh nhân đã được phẫu thuật cắt chóp răng
tại Bộ môn Nhổ Răng-Tiểu Phẫu Thuật từ tháng 09/1999 đến tháng 09/2001
theo tiêu chuẩn chọn mẫu trên.
Ghi nhận các thông tin từ bệnh án
Dữ liệu về bệnh nhân: tên, tuổi, giới tính, số bệnh án.
Lý do đến khám. Vị trí sang thương: hàm trên, hàm dưới, loại răng.
Tình trạng bệnh nhân lúc đến phẫu thuật: yếu tố sinh học: sưng, đau,
lỗ dò, có hoặc không có sang thương quanh chóp; yếu tố kỹ thuật: răng
mang phục hình, ống tủy bị calci hoá và yếu tố kết hợp.
Thời gian từ lúc điều trị nội nha đến lúc phẫu thuật: tức thì sau một
ngày trám bít ống tủy (một ngày sau khi điều trị nội nha, bệnh nhân được
chuyển sang để phẫu thuật chóp), dưới sáu tháng hay từ sáu tháng trở lên.
Phim X quang: trên phim quanh chóp ghi nhận tình trạng và kích
thước sang thương (u hạt, nang), kích thước <1cm hay 1 cm.
Tình trạng nội nha: quan sát viên 1 (ThS. Đinh Thị Khánh Vân, Bộ
môn Chữa Răng) đánh giá tình trạng nội nha trên phim quanh chóp theo tiêu
chuẩn sau:
Tốt: vật liệu trám bít cản quang đồng nhất và cách chóp chân răng từ
0,5 đến 1mm, không có khoảng thấu quang giữa vật liệu trám và thành ống
tủy.
Không tốt: khi ống tủy thiếu độ dày đặc, có chỗ trống chưa được trám
bít, có khoảng trống giữa vật liệu trám bít và thành ống tủy, có ống tủy chưa
được trám (đối với răng nhiều ống tủy), ống tủy bị mở rộng quá mức hay
thiếu chuẩn bị cả về chiều dài và chiều rộng.
Không thấy vật liệu trám bít ống tủy (VLTBOT).

Ghi nhận lúc phẫu thuật: có trám ngược hay không có trám ngược.
Sau phẫu thuật:
Mời bệnh nhân trở lại đánh giá trên lâm sàng và X quang.
Phỏng vấn trực tiếp bệnh nhân có hay không có triệu chứng liên quan
đến răng nguyên nhân đã điều trị, bao gồm: đau sau phẫu thuật, cảm giác
khó chịu,…
Đánh giá kết quả lâm sàng (quan sát viên 2).
Tốt: bệnh nhân hoàn toàn không có triệu chứng đau nhức tại răng
nguyên nhân. Mô nha chu bình thường, niêm mạc đáy hành lang vùng răng
tương ứng không phù nề, sung huyết, không có lỗ dò.
Trung bình: bệnh nhân vẫn còn cảm giác đau nhức mơ hồ, không rõ
ràng tại răng nguyên nhân. Mô nha chu, niêm mạc đáy hành lang bình
thường.
Xấu: bệnh nhân vẫn còn đau tại răng nguyên nhân, niêm mạc đáy
hành lang phù nề, sung huyết, có hoặc không có lỗ dò.
Đồng thời ghi nhận có hay không có đổi màu nướu tại vị trí trám
ngược.
Đánh giá kết quả trên X quang: lành thương trên xương và tình trạng
trám ngược (nếu có)
So sánh phim trước và sau phẫu thuật để đánh giá sự lành thương trên
xương(Quan sát viên 3).
- Lành thương hoàn toàn: khi có sự thu hẹp hoặc mất hoàn toàn sang
thương, có hình thành các thớ xương trong vùng sang thương với mật độ cản
quang tương đương với xương lành xung quanh.
- Lành thương không hoàn toàn: kích thước sang thương thu hẹp so với
ban đầu, có hình thành xương trong vùng sang thương nhưng mật độ cản quang
kém hơn xương lành xung quanh.
- Không lành thương: khi sang thương không giảm kích thước hay
phát triển lớn hơn (hình ảnh thấu quang lan rộng), không có sự tái tạo xương
trong vùng sang thương.

Để đo độ kiên định trong việc đánh giá sự lành thương trên X quang,
sau lần đánh giá đầu tiên 15 ngày chúng tôi chọn ngẫu nhiên 12 phim đọc
lại, ghi nhận kết quả và so sánh với kết quả đã đọc lần một. Kết quả cho thấy
không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai lần đọc phim (p > 0,05).
Đánh giá tình trạng trám ngược:
Tốt: vật liệu trám ngược (amalgam) nằm gọn trong xoang trám, không
có mảnh vụn amalgam trong vùng phẫu thuật.
Không tốt: miếng trám còn trong hoặc nằm ngoài xoang trám ngược
và còn sót mảnh vụn amalgam trong vùng phẫu thuật, kèm với hình ảnh thấu
quang vùng chóp răng, đôi khi bệnh nhân có đau nhẹ kéo dài.
KẾT QUẢ
Có 24 bệnh nhân (BN) với 34 răng (R)
thỏa các tiêu chuẩn chọn mẫu trên; số liệu thu thập gồm các số liệu
trước phẫu thuật và sau phẫu thuật.
Thu thập trước phẫu thuật (ghi nhận từ hồ sơ bệnh án)
Các số liệu tổng quát
Bảng 1. Tổng số bệnh nhân phân bố theo tuổi, phái
n =
24 BN
Nam Nữ
Số
lượng BN

11
(45,8%)
13
(54,2%)
Số
lượng R
17

(50%)
17
(50%)
Tu
ổi
trung bình

30,8±2,7

26,9±2,3
Bảng 2. Phân loại răng phẫu thuật
Hàm trên Hàm dưới
n =
34R
Trước

Sau

Trước Sau

Số
lượng R
26 01 04 03
Ti l

%
76,5%

2,9%


11,8%

8,8%

T
ổng
cộng
79,4% 20,6%
Bảng 3. Tổng số bệnh nhân theo lý do đến khám
n =
24 BN
Có triệu chứng
Đi
ều trị dự
phòng
Sưng,
đau
Lỗ dò

Nha
sĩ chuyển
Gãy
dụng cụ
Số
lượng BN
12 07 04 01
T
ỉ lệ
%
50% 29,2%


16,7%

4,1%

T
ổng
số
79,2% 20,8%
Các số liệu từ khám lâm sàng
Bảng 4. Yếu tố ảnh hưởng đến chỉ định phẫu thuật
n =
34
Yếu
tố sinh học
Yếu
t
ố kỹ
thuật
Yếu
tố kết hợp
Số
lượng R
24 02 08
T
ổng
số
70,6%

5,9%


24,5%

Các số liệu ghi nhận từ phim X quang
Bảng 5. Phân loại tình trạng NN trước PT
n
NN
tốt
NN
không
tốt
Không
thấy
VLTBOT
T
ổng
cộng
S

lượng R

34R 13
(38,3%)
20
(58,8%)
01
(2,9%)
34
(100%)
R

có ph
ục
hình
09R 0
(0%)
08
(88,9%)
01
(11,1%)
09
(100%)
R
không
phục
hình
25R 13
(52%)
12
(48%)
0 (0%)

25
(100%)
Đánh giá sau phẫu thuật
Bảng 6. Đánh giá X quang sau phẫu thuật
n
= 34 R
Lành
thương
hoàn toàn

Lành
thương
không hoàn
toàn
Không
lành thương

S

lượng R

25 09 0
T

lệ %
73,4%

26,6%

0%
Bảng 7. Lành thương trên xương theo tình trạng NN
n
Lành
thương
hoàn toàn

Lành
thương
không
hoàn toàn


Không
lành thương
T
ổng
cộng
Răng
NN t
ốt
13R

11
(84,6%)
02
(15,4%)
0 (0%)

13
(100%)
Răng
NN
không
tốt
20R

14
(70%)
06
(30%)
0 (0%)


20
(100%)
Không
thấy
VLTBOT
01 0
(0%)
01
(100%)
0 (0%)

01
(100%)
Bảng 8: Đánh giá tình trạng trám ngược và đổi màu nướu
n =
Có trám ngược
Không
34 R
Tốt

Không
tốt
trám ngược

Số
lượng R
10
(29,4%)
04

(11,8%)
20
(58,8%)
Đ
ổi
màu nướu

01 05 0
Bảng 9: Đánh giá lâm sàng sau PT
n
= 34R
Tốt
Trung
bình
Xấu
S

lượng R

27 03 04
T

lệ %
79,4%

8,8% 11,8%

Bảng 10: Lành thương trên lâm sàng theo tình trạng nội nha
n Tốt


Trung
bình
Xấu

T
ổng
cộng
Tốt 13R

11
(84,6%)
02
(15,4%)
0
(0%)
13
(100%)
Không
tốt
20R

16
(80%)
01
(5%)
03
(15%)
20
(100%)
Không

thấy
VLTBOT
01R

0
(0%)
0
(0%)
01
(100%)
01
(100%)
BÀN LUẬN
Về chỉ định của phẫu thuật
Tổng kết bệnh án của 24 bệnh nhân được phẫu thuật cắt chóp trong
nghiên cứu ghi nhận có 11 nam (45,8%),13 nữ (44,2%), với số lượng răng
phẫu thuật như nhau (bảng1). Răng hàm trên được phẫu thuật cắt chóp nhiều
nhất (79,4%) (bảng 2), tương tự nghiên cứu Stockdale và Chandler.
Đa số các tác giả cho rằng những thất bại nội nha chủ yếu liên quan
đến việc điều trị nội nha không tốt hoặc do răng có mang phục hình. Phần
lớn các trường hợp thất bại này đều đáp ứng tốt với việc điều trị nội nha lại
theo đúng phương pháp. AAE (Hiệp hội các nhà nội nha Hoa Kỳ) cho rằng
nên thực hiện phẫu thuật khi việc điều trị nội nha thất bại hay không thể thực
hiện được. Các chỉ định này bao gồm:
Nhóm 1: liên quan đến các yếu tố kỹ thuật như gãy dụng cụ ở 1/3
chóp, ống tủy bị calci hóa, dị dạng, răng mang phục hình v.v…
Nhóm 2: liên quan đến các yếu tố sinh học như còn tồn tại dai dẳng
của các triệu chứng lâm sàng, hiện diện của sang thương quanh chóp, hoặc
kết hợp vừa triệu chứng vừa sang thương quanh chóp.
Nhóm 3: kết hợp cả hai yếu tố sinh học và kỹ thuật.

Trong nghiên cứu này, chỉ định liên quan yếu tố sinh học chiếm
70,6%, yếu tố kỹ thuật 5,9%, và nhóm kết hợp 24,5% (bảng 4). Đa số những
răng được phẫu thuật đều có sang thương quanh chóp: 94,1% và tình trạng
nội nha không tốt (58,8%).
Theo Geoffrey

(1995), mô hạt quanh chóp chính là phản ứng tự vệ của
cơ thể để giới hạn sự lan rộng của độc chất do vi khuẩn, nếu hệ thống ống
tủy được làm sạch, tạo hình và trám bít tốt thì phản ứng tự nhiên của cơ thể
sẽ giúp lành thương và loại trừ các sang thương quanh chóp. Do đó, với các
răng này, sau khi thực hiện việc điều trị nội nha đúng tiêu chuẩn cần phải có
một khoảng thời gian để theo dõi sự lành thương (tối thiểu 06 tháng), nếu
sau đó sang thương vẫn không giảm kích thước hay còn tồn tại các triệu
chứng lâm sàng thì lúc bấy giờ mới có quyết định phẫu thuật. Một số tác giả
khác cho rằng nên phẫu thuật ngay sau khi điều trị nội nha nếu tổn thương
tiêu xương quá lớn hoặc có liên quan đến nhiều răng, kích thước 1cm là kích
thước tiêu chuẩn cho việc chỉ định phẫu thuật. Donald và Dimitroulis còn
chỉ định phẫu thuật cắt chóp kết hợp với xét nghiệm giải phẫu bệnh nếu sang
thương quanh chóp không liên hệ rõ ràng với răng nguyên nhân hoặc nghi
ngờ với các chẩn đoán khác. Ngoài ra, một số tác giả cũng đưa ra cách điều
trị giải quyết tức thời đối với những bệnh nhân không có điều kiện như
không có thời gian, bệnh nhân ở xa… Trong nghiên cứu của chúng tôi loại
chỉ định tức thời chiếm một ti lệ đáng kể: 41,7%.
Chỉ định khác phẫu thuật còn được áp dụng trên những răng mang
phục hình có tình trạng nội nha không tốt hoặc chưa nội nha nhưng không
thể tháo phục hình ra để điều trị lại theo phương pháp thông thường, các
răng này đang gây biến chứng hoặc tình cờ được phát hiện có sang thương
quanh chóp. Theo một số tác giả, sự thành công của phẫu thuật trong những
trường hợp này không cao vì tự bản thân miếng trám ngược không thể đảm
bảo sự khít sát hoàn toàn ở bề mặt cắt của chóp răng khi phần còn lại của

ống tủy chân răng không được đảm bảo vô trùng. Trong nghiên cứu, loại chỉ
định này chiếm 26,5% (9 răng) và toàn bộ các răng này đều có tình trạng nội
nha không tốt (bảng 5) trong đó 88,9% (8 răng) có triệu chứng lâm sàng,
11,1% (1 răng) được chỉ định điều trị dự phòng do tình cờ phát hiện có sang
thương quanh chóp >1cm.
Đánh giá sau phẫu thuật
Theo El-Swiah

(1996), phẫu thuật cắt chóp được cho là thành công khi
sau phẫu thuật các răng không có triệu chứng lâm sàng và tham gia chức
năng, không còn hiện tượng viêm nhiễm do quá trình phẫu thuật, đồng thời
trên phim X quang phải có sự lành thương của xương, mô quanh răng vẫn
còn và trở lại bình thường sau một thời gian phẫu thuật.
Bensoussan (1997) cho rằng sự tạo xương sau phẫu thuật cắt chóp chỉ
có thể đánh giá chắc chắn bằng phim tia X sau một năm vì có những trường
hợp thành công trong thời gian ngắn nhưng sau đó vẫn thành lập sang
thương mới do còn tồn tại những kích thích ở vùng chóp. Trong nghiên cứu
nay chúng tôi, mốc thời gian đánh giá kết quả sau phẫu thuật tối thiểu là một
năm rưỡi và tối đa là ba năm rưỡi-thời gian này đủ để sự lành thương trên
xương (nếu có) diễn ra hoàn chỉnh.
Bước đầu đánh giá sự lành thương trên xương cho thấy kết quả lành
thương hoàn toàn chiếm tỉ lệ tương đối cao: 73,4% (bảng 6), đặc biệt, không
có trường hợp nào đánh giá là không lành thương. Bensoussan

(1997) cho
rằng thành công của phẫu thuật tùy thuộc rất nhiều vào việc sửa soạn và
trám bít hệ thống ống tủy. Tuy nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi vẫn có
sự lành thương sau phẫu thuật đối với các răng không được trám bít ống tủy
tốt (70%) (bảng 7), các răng này chủ yếu là trám bít chưa tới chóp (cách
chóp 2mm), điều này có thể giải thích do phẫu thuật đã loại bỏ hoàn toàn

phần chóp chân răng không trám tốt và có trám ngược để cách ly giữa hệ
thống ống tủy với mô quanh chóp.
Đối với các răng có mang phục hình, tỉ lệ lành thương không hoàn
toàn trên xương tương đối cao: 55,6% (bảng 9), toàn bộ các răng này đều có
tình trạng nội nha không đạt (100%), thời gian từ lúc nội nha đến lúc phẫu
thuật dài trên 6 tháng và đã gây biến chứng trên lâm sàng; 44,4% (4 răng)
lành thương hoàn toàn trên xương cũng có tình trạng nội nha không đạt
nhưng 1 răng không có dấu chứng lâm sàng và được phẫu thuật dự phòng; 3
răng còn lại có kích thước sang thương <1cm nên thành công sau phẫu thuật
tốt hơn. Điều này cho thấy đối với các răng có mang phục hình mà điều trị
nội nha chưa tốt thì thành công thấp và đề nghị nên tháo gỡ phục hình, điều
trị nội nha lại trước khi chuyển phẫu thuật cắt chóp.
Đối với các răng có trám ngược chúng tôi ghi nhận 57,1% lành
thương hoàn toàn trên xương (bảng 9). Trong số 09 răng lành thương không
hoàn toàn thì 04 răng có trám ngược và đều trám ngược không tốt với sự sót
amalgam trong vùng phẫu thuật, chúng tôi nghĩ có thể những mảnh vụn
amalgam này đã gây cản trở sự lành thương. Vấn đề này nên chăng cần được
nghiên cứu thêm trên lâm sàng. Với 5 răng còn lại đều có tình trạng nội nha
không tốt, có lẽ cũng chính vì thế mà sự lành thương diễn ra không hoàn
toàn.
Đánh giá trên lâm sàng, tương tự với X quang, ghi nhận tỉ lệ lành
thương tốt khá cao: 79,4% (bảng 9). Tuy nhiên có 04 răng cho kết quả lâm
sàng xấu, cả 4 răng đều có mang phục hình và có tình trạng nội nha không
đạt, đánh giá kết quả lành thương trên phim X quang ghi nhận 2 răng lành
thương hoàn toàn và 2 răng không hoàn toàn. Chúng tôi quyết định phẫu
thuật lại và phát hiện 1 răng bị nứt dọc ở bệnh nhân có 3 răng – đây có thể là
nguyên nhân gây thất bại trên lâm sàng, bệnh nhân còn lại có kích thước
sang thương lớn chúng tôi tiến hành nạo lại.
Mặc dù đã cố gắng khắc phục tình trạng đổi màu nướu bằng cách cắt
vát chóp tương đối ít và giữ nguyên các thành xoang trám nhưng trong số 14

răng có trám ngược vẫn ghi nhận 6 răng có đổi màu nướu và các răng này
được đánh giá có tình trạng trám ngược không tốt. Điều này có thể giải thích
chính sự sót lại các mảnh vụn amalgam trong vùng quanh chóp làm
amalgam phân tán vào mô mềm gây ra sự tiếp xúc trực tiếp của amalgam với
mô nướu làm nướu bị nhiễm màu. Như vậy, vấn đề cần lưu ý trong phẫu
thuật cắt chóp có trám ngược là phải giảm thiểu tối đa sự sót amalgam sau
khi trám.
Hình 1: Đổi màu nướu tại vị
trí trám ngược
Bước đầu đánh giá cho phep ghi nhận: đa số các răng có lành thương
xương và kết quả lâm sàng tốt đều có thời gian từ lúc nội nha đến lúc phẫu
thuật ngắn (phẫu thuật tức thì và phẫu thuật sau nội nha 6 tháng). Phải chăng
thời gian theo dõi sau nội nha 6 tháng là thời điểm sau cùng để quyết định
thực hiện phẫu thuật cắt chóp hay không, vấn đề này được tiếp tục nghiên
cứu.
KẾT LUẬN
Hồi cứu hồ sơ bệnh án của 24 bệnh nhân với 34 răng được phẫu thuật
cắt chóp (có và không có trám ngược) tại Bộ môn Nhổ Răng – Tiểu Phẫu
Thuật từ tháng 09/1999 đến tháng 09/2001, cho phep rút ra một số kết luận
sau:
Về đặc điểm dịch tễ
Đa số các răng phẫu thuật cắt chóp là răng hàm trên (79,4%).
Bệnh nhân thường đến khám do có triệu chứng trên lâm sàng (79,2%). Chỉ
định phẫu thuật cắt chóp chủ yếu liên quan đến yếu tố sinh học (70,6%).
61,7% răng chuyển phẫu thuật cắt chóp là có tình trạng nội nha không đạt,
trong số các răng này có 85,7% có triệu chứng trên lâm sàng.
Phẫu thuật cắt chóp mang lại sự thành công cao cho hầu hết các
trường hợp
70% lành thương hoàn toàn trên xương và 80% cho kết quả tốt trên lâm
sàng. Lành thương không hoàn toàn trên xương (26,6%) hay lành thương trung

bình trên mô mềm (8,8%) đều chủ yếu liên quan với tình trạng nội nha không đạt
và thời gian từ lúc nội nha đến lúc phẫu thuật dài. Do vậy nên theo dõi lành
thương sau điều tri nội nha trong khoảng thời gian 6 tháng để quyết định phẫu
thuật hay không.
Sự lành thương sau phẫu thuật được đánh giá qua khám định kỳ trên
lâm sàng và phim tia X cho thấy thời gian lành thương hoàn toàn tối thiểu từ
một năm trở lên, sang thương càng lớn thời gian để sự lành thương hoàn
toàn diễn ra càng kéo dài (theo Langlais
(17)
có thể đến 2,5 năm).
Việc điều trị tủy nên được thực hiện một cách cẩn thận nhằm mang lại
kết quả tốt cho bệnh nhân và tránh việc phẫu thuật không cần thiết. Đối với
các răng có phục hình nên điều trị nội nha tốt và giải quyết tình trạng sang
thương nếu có trước khi làm phục hình.
Phẫu thuật cắt chóp có hoặc không có trám ngược là cần thiết cho việc
điều trị các sang thương quanh chóp để bảo tồn răng, đặc biệt đối với các
sang thương có kích thước lớn. Mặt khác, nghiên cứu này một lần nữa khẳng
định thành công của phẫu thuật chóp đối với các răng có sang thương quanh
chóp và các răng điều trị nội nha thất bại (theo đúng chỉ định) nhưng việc
phẫu thuật phải thực hiện theo đúng kỹ thuật nhằm tránh tạo các kích thích
mới cản trở sự lành thương.

×