Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

SO SÁNH HIỆU QUẢ CỦA THUỐC SÚC MIỆNG GIVALEXÒ VÀ ELUDRILÒ ĐỐI VỚI MẢNG BÁM, VIÊM NƯỚU VÀ VẾT DÍNH TRÊN RĂNG docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.23 KB, 43 trang )












SO SÁNH HIỆU QUẢ CỦA THUỐC SÚC
MIỆNG GIVALEXÒ VÀ ELUDRILÒ ĐỐI
VỚI MẢNG BÁM, VIÊM NƯỚU VÀ VẾT
DÍNH TRÊN RĂNG




SO SÁNH HIỆU QUẢ CỦA THUỐC SÚC MIỆNG GIVALEXÒ
VÀ ELUDRILÒ ĐỐI VỚI MẢNG BÁM, VIÊM NƯỚU
VÀ VẾT DÍNH TRÊN RĂNG

TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu so sánh hai loại thuốc súc miệng (TSM)
Givalex và Eludril với nhóm chúng dùng giả dược, công trình này nhằm
mục tiêu đánh giá hiệu quả của hai loại TSM Givalex và Eludril đối với
mảng bám, viêm nướu và vết dính trên răng.
Phương pháp: Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng mù đôi, thực hiện
trong 2 tháng trên 63 đối tượng. Chia ngẫu nhiên thành 3 nhóm tương ứng
với 3 dung dịch nghiên cứu. Các đối tượng được yêu cầu ngày súc miệng hai


lần, mỗi lần 10ml trong vòng 1 phút và không thay đổi thói quen vệ sinh
răng miệng hàng ngày. Các chỉ số lâm sàng được đành giá vào các ngày 0,
28, 56. 13 đối tượng bị loại khỏi nghiên cứu.
Kết quả như sau: Sau 2 tháng TSM Givalex và Eludril đều làm giảm
mảng bám và viêm nướu có ý nghĩa thống kê khi so sánh trong cùng một
nhóm cũng như so với nhóm chứng dùng giả dược. (p<0,001). Sau 28 ngày
hiệu quả giảm viêm ở hai nhóm Givalex và Eludril tương tự, nhóm Givalex
giảm mảng bám tốt hơn nhóm Eludril. Sau 56 ngày nhóm Eludril giảm viêm
và giảm mảng bám tốt hơn nhóm Givalex.
Kết luận: Kết thúc nghiên cứu nhóm Eludril có sự hình thành vết dính
rõ rệt, trong khi hai nhóm Givalex và Giả dược tăng ngang nhau và ở mức ít
hơn nhóm Eludril.
Objectives: The aims of this study are to evaluate and compare the
effects of the Eludril mouthrinse with Givalex mouthrinse on plaque growth,
gingival response and tooth staining.
Method: A double blind clinical study was conducted on 63 subjects.
The subjects were randomly devided into three groups corresponding to the
three solutions to be tested. Eludril and Givalex mouthrinses and placebo
solution. The subjects were asked to rinse twice daily for 1 minute with 10
ml of one of the mouthwashes and to retain their usual oral hygiene. Clinical
indices were evaluated on day 0; 28 and 56. 13 sujects were excluded from
the study.

The results showed that: On day 28: The effect of reducing gingivitis
of both the Eludril and Givalex groups were similar. The Givalex group
showed less plaque growth than the Eludril group. On day 56: Both Eludril
and Givalex groups got significant redution of plaque and gingivitis. They
both got even more redution than the G group (p<0.001). The Eludril group
showed a greater reducing in plaque and gingivitis than the Givalex group.
In addition, the Eludril group inhibited stain.


Conclusion: The Givalex and G groups showed increasing of the
discoloration index scores at the same level but showed less staining than the
Eludril group.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chlorhexidine (CHX) là một tác nhân kháng khuẩn điển hình, đã được
giới thiệu bởi các chuyên gia trong ngành y từ thập niên 1950. Năm 1970
Loe và Schiott báo cáo về sự ức chế toàn thể sự thành lập mảng bám mới và
ngăn chặn sự thành lập viêm nướu với dung dịch CHX 0,2% pha trong nước,
ngày súc miệng 2 lần. Cho đến nay, sau hơn 20 năm sử dụng, CHX vẫn
được coi là “tiêu chuẩn vàng” (Gold standard)(13) dùng để so sánh với các
loại thuốc súc miệng khác.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nêu trên, hiệu quả phụ của CHX
là để lại những vết dính màu nâu đen khó chấp nhận, vì vậy chúng chỉ được
dùng trong một thời gian ngắn(14). Ngoài ra, CHX làm tăng lắng đọng vôi
răng trên nướu và có mùi vị khó chịu khi sử dụng(9)(10)(16). Chính những
khuyết điểm này đã thúc đẩy những nhà nghiên cứu tìm kiếm những loại
thuốc súc miệng có hiệu quả cao nhưng ít tác dụng phụ hơn. Hexetidine là
chất kháng khuẩn có cùng cơ chế tác động về mặt hóa học với CHX(17).
Trong nghiên cứu in vitro chất này có hoạt tính giống như CHX nhưng trong
nghiên cứu in vivo cho kết quả mâu thuẫn(18).
Givalex là thuốc súc miệng có thành phần chính là hexetidine nhưng
trong thành phần của Givalex còn chứa salicylate de choline và chlobutol.
Tác động phối hợp của 3 chất này làm cho Givalex hơn hẳn hexetidine dùng
riêng rẽ (J. Lauper, 1978)(15).
Hiện nay, trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu so sánh giữa
CHX và hexetidine cũng như giữa hexetidine và Givalex. Nhưng chưa có
công trình nghiên cứu nào so sánh giữa CHX 0,1% (Eludril) với Givalex,
mặt khác các nghiên cứu nêu trên thường tập trung ở các đối tượng tình
nguyện ngưng chải răng trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, để đánh giá

thực tế hiệu quả của các tác nhân, chúng cần được đánh giá ở những đối
tượng vẫn duy trì thói quen vệ sinh răng miệng bình thường. Cho đến nay,
chỉ có một số ít báo cáo đánh giá các chất kiểm soát mảng bám và viêm
nướu trong nhóm “chải răng bình thường” (Fischman và cộng sự, 1973)(8).
Ở Việt Nam, hiện lưu hành cả 2 loại thuốc súc miệng này (Givalex và
Eludril) và cũng chưa có công trình nào nghiên cứu, đánh giá về tác dụng
của chúng.
Với mong muốn tìm hiểu sâu hơn và bằng cách tiếp cận mới, chúng
tôi tiến hành nghiên cứu so sánh hai loại thuốc súc miệng Givalex và Eludril
với nhóm chứng dùng Giả dược, công trình này nhằm mục tiêu đánh giá
hiệu quả của hai loại thuốc súc miệng Givalex và Eludril đối với mảng bám,
viêm nướu và vết dính trên răng trong điều kiện không thay đổi thói quen
vốn có về vệ sinh răng miệng hằng ngày của đối tượng nghiên cứu.
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Trong những năm gần đây, ngày càng nhiều những nghiên cứu về việc
dùng các hóa chất để kiểm soát mảng bám và điều trị bệnh viêm nướu nói
riêng, nha chu viêm nói chung. Đặc biệt đối với CHX là loại thuốc đã được
nghiên cứu tỉ mỉ nhất và nhiều nhất. Phần tổng quan tập trung khai thác
những tài liệu nghiên cứu có liên quan đến thuốc súc miệng chứa CHX và
thuốc súc miệng chứa hexetidine. Trong đó chú trọng đến các nghiên cứu so
sánh giữa thuốc súc miệng CHX 0,1% và hexetidine 0,1%. Các nghiên cứu
ngắn hạn về CHX cho thấy sự giảm mảng bám và viêm nướu trung bình đạt
60%. 3 nghiên cứu dài hạn trên 1200 đối tượng cho thấy kết quả giảm mảng
bám trung bình là 55% và viêm nướu là 45%(5).
Năm 1989 Banting và cộng sự (2) làm nghiên cứu kéo dài 2 năm trên
456 đối tượng súc miệng CHX 0,12% ngày 2 lần trong 2 năm cũng cho kết
quả tương tự các tác giả trên. Riêng trong điều trị bệnh nha chu độ sâu của
túi giảm trung bình là 9mm/đối tượng.
Các nghiên cứu gần đây nhất về CHX đề cập đến vai trò của CHX
trong điều trị bệnh nha chu và kiểm soát sâu răng.

Hội thảo ở Thái Lan 1997 báo cáo của W.Chid Chuang Chai và cộng
sự đưa ra kết quả về việc dùng véc ni 20% thoa trên răng làm ức chế
S.Mutans ở trẻ có nguy cơ sâu răng cao (P < 0,05)(3).
G.Ciancio 1999 đánh giá hiệu quả của CHX trong việc điều trị bệnh
nha chu viêm dưới một dạng sử dụng mới gọi là “Perio Chip” đặt vào túi
nha chu làm giảm độ sâu của túi 30% so với chỉ xử lý mặt gốc răng bình
thường. Sự khác biệt rất có ý nghĩa (P< 0,0001)(4).
Hexetidine là hóa chất chính trong thành phần thuốc súc miệng
Givalex. Nó có cùng cơ chế tác động về mặt hóa học với CHX (Shakes
plare, 1988)(17).
Các nghiên cứu so sánh giữa CHX và hexetidine cho thấy hexetidine
có tác dụng diệt khuẩn tương đương với CHX (Ashley 1984)(1).
Heflt 1987 đã so sánh nhiều loại công thức của các loại thuốc súc
miệng trong đó có hexetidine và CHX, ông kết luận rằng hexetidine và CHX
có tác dụng kháng mảng bám cao một cách có ý nghĩa so với nhóm chứng.
Jones 1997 xác nhận khả năng kháng nấm Candida của hexetidine.
Ông kết luận khả năng kháng nấm không phải là khả năng duy nhất của
CHX.
Ashley 1984 nghiên cứu so sánh giữa CHX 0,2% và hexetidine (Oral
Dène) cho kết quả hai thuốc này có tác dụng kháng khuẩn tương đương
nhau(1).
Nghiên cứu so sánh giữa CHX 0,1% và hexetidine của Harper và cộng
sự đưa ra kết luận cả hai loại thuốc này đều có hiệu quả kéo dài có ý nghĩa
thống kê khi so sánh với nhóm chứng là nước muối(11). Givalex ngoài
thành phần chính là hexetidine còn chứa salicylate de choline và
chlorobutol. Sự kết hợp của 3 chất này cho kết quả tác động lớn hơn tác
động của từng chất riêng lẻ (J. Laufer 1978)(15).
Laufer cũng làm nghiên cứu trên các đối tượng nhổ răng khôn và đưa
ra kết luận: Givalex làm giảm viêm, kháng khuẩn 84%, giảm đau 90%, sự
hôi miệng 85% các trường hợp.

Một nghiên cứu được thực hiện 1993 trên 2500 Bác sĩ nha khoa với
350 câu hỏi, kết quả cho thấy 76% các nha sĩ biết đến và thường ghi toa
thuốc súc miệng Givalex sau khi nhổ răng, trong điều trị viêm nướu, viêm
miệng, và áp tơ do mang hàm giả(15).
Nghiên cứu của Truchaud(19) và Laufer(15) so sánh giữa thuốc súc
miệng Givalex và Hexetidine kết luận Givalex có tác dụng kháng khuẩn tốt
hơn Hexetidine đơn thuần. Chưa có báo cáo nào về tác dụng gia tăng vết
dính và gây loét ở niêm mạc khi dùng Givalex nhưng các nghiên cứu về
Givalex không nhiều cũng như chưa có một công trình nghiên cứu nào trên 6
tháng.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
63 đối tượng là sinh viên, kỹ thuật viên, năm thứ 1, Đại Học Y Dược
đạt đủ những tiêu chuẩn sau: Tuổi từ 18 đến 22, có ít nhất 20 răng còn hiện
diện trên cung hàm. Chỉ số CPI có ít nhất 2 Sextant có chỉ số lớn hơn 1
nhưng tất cả các sextant phải nhỏ hơn 4. Phương pháp lựa chọn này đảm bảo
tất cả các đối tượng đều có dấu hiệu viêm nướu nhưng không có ai có túi sâu
> 5,5ly
Các đối tượng có bệnh toàn thân, bệnh răng miệng đều loại ra khỏi
nghiên cứu. Tất cả các bệnh nhân được giải thích, tự nguyện và ký tên tham
dự chương trình, cam kết không bỏ nữa chừng.
Phương pháp
Vật liệu nghiên cứu
2 dung dịch thử nghiệm là:
. Thuốc súc miệng EludrilÒ chứa CHX 0,1%, Clorobutanol 0,1%
. Thuốc súc miệng Givalexâ chứa hexetidine 0,1%, salicylate de
choline 0,5%, chlorobutol 0,25%.
Dung dịch giả dược
Có màu và mùi vị tương tự như Givalex và không chứa bất kỳ hoạt
chất tác động nào.

Các bước tiến hành:
* Giai đoạn sơ khởi:
- Trong giai đoạn sơ khởi tất cả các đối tượng đều được cạo vôi và
đánh bóng răng nhưng không được dùng bất cứ một loại hóa chất kiểm soát
mảng bám nào.
- Các đối tượng được nhận 1 bàn chải mới kem đánh răng và họ chải
răng theo thói quen của họ trong 14 ngày.
- Sau giai đoạn sơ khởi các đối tượng được khám và đánh giá tình
trạng nha chu.
* Giai đoạn thử nghiệm
- Tại ngày 0: .Tất cả các đối tượng được đánh bóng răng một lần nữa.
Các đối tượng được phát thuốc súc miệng đựng sẵn trong các chai đã được
ghi mã số, đủ cho 2 tuần. Yêu cầu súc miệng ngày 2 lần mỗi lần 10ml trong
vòng 1 phút.
Như đã nói ở trên, các chai thuốc này đã được chia ngẫu nhiên thành 3
nhóm và được mã số bởi người dược sĩ từ 1 đến 63. Các chai thuốc sau khi
ghi mã số đưọc gửi về cho người nghiên cứu và phát theo thứ tự khám.
Người được khám đầu tiên phát chai số 1. Người đượckhám thứ 2 phát chai
số 2. Tiếp tục cho đến hết 63 chai.
Như vậy: Các đối tượng được chia ngẫu nhiên thành 3 nhóm theo các
chai thuốc súc miệng đã được chia ngẫu nhiên trước đó. Đánh giá sự hợp tác
của các đối tượng dựa vào việc tính toán lượng nước súc miệng được trả lại
và các thẻ ghi nhật ký đã phát trước đó.
Tất cả những chỉ số đánh giá đều được đo bởi một người (đã qua thử
nghiệm định chuẩn - BS Đỗ Thu Hằng - BM Nha Chu) và việc điều trị được
thực hiện bởi một người khác.
Phương pháp đánh gía:
* Chỉ số mảng bám PlI (Plaque Index)
Bảng 1: Tiêu chuẩn chỉ số mảng bám PlI theo Silness và Loe 1964
Điểm số


Tiêu chuẩn
0

Không có mảng bám và viêm nướu
1

Mắt thường không thấy được mảng bám nhưng thấy được khi dùng
đầu cây đo túi cạo trên bề mặt răng từ khe nướu.
2

Vùng nướu được phủ bởi lớp mảng bám từ mỏng tới dày, thấy bằng
mắt.
3

Mảng bám dày ở nướu viền, nướu kẽ răng và mặt răng.
* Chỉ số nướu GI (Gingival Index)
Bảng 2: Tiêu chuẩn chỉ số nướu GI theo Loe 1967.
Điểm số

Tiêu chuẩn
0

Nướu bình thường
1

Nướu viêm nhẹ, thay đổi nhẹ về màu sắc, hơi phù nề nhưng không
chảy máu khi thăm dò
2


Viêm trung bình, chảy máu khi thăm khám
3

Viem nặng, nướu lở loét, có xu hướng chảy máu tự phát.
* Chỉ số vết dính SI (Stain Index)
Hàm trên: Đánh giá ở các mặt trong răng cửa, răng nanh và tiền hàm.
Hàm dưới: Đánh giá ở mặt lưỡi các răng cửa.
Bảng 3: Tiêu chuẩn chỉ số vết dính SI theo Shaw và Murray 1977.
Điểm số

Tiêu chuẩn

Điểm số

Tiêu chuẩn
0

Không màu

3

Vàng sậm
1

Màu vàng

4

Nâu đen
2


Vàng nâu

5

Đen
* Chúng tôi đã loại khỏi nghiên cứu 13 đối tượng.
Sau 2 tháng súc miệng và vẫn giữ thói quen vệ sinh răng bình thường
các thống kê được đánh giá ở 3 nhóm như sau:
· Nhóm Eludril (n = 18): súc miệng với dung dịch CHX digluconate
0,1%.
· Nhóm Givalex (n = 16): súc miệng với dung dịch hexetidine 0,1%,
salicylate de choline 0,1%.
· Nhóm Giả dược (n = 16): súc miệng với dung dịch có màu sắc và
mùi vị giống như thuốc súc miệng Givalex.
Xử lý số liệu
So sánh giữa 3 nhóm: So sánh từng cặp nhóm Givalex–Giả dược;
Eludril – Giả dược; Givalex – Eludril. Sử dụng test kiểm định Kruskal-
Wallis . So sánh trong cùng một nhóm theo các thời điểm khám: Sử dụng
test kiểm định t.
KẾT QUẢ:
Các chỉ số đo đạc và phân tích thống kê chỉ áp dụng cho 50 cá thể
tham dự đầy đủ nghiên cứu, các cá thể này có độ tuổi tương đương và tỷ lệ
nam, nữ trong các nhóm như nhau
Tình trạng mảng bám
So sánh trong cùng một nhóm
Nhóm
Ngày khám

GIVALEX

(n=16)

ELUDRIL
(n=18)

GIẢ DƯỢC
(n=16)
Ngày 0
Ngày 28

0,769
0,660 +++

0,700
0,621 +++

0,456
0,654 +++
Ngày 28
Ngày 56

0,660
0,690 +

0,621
0,601 ++

0,654
0,688 ++
Ngày 0

Ngày 56

0,769
0,690 ++

0,700
0,601 +++

0,456
0,688 +++
+:p> 0,05 ++:P<0,05 +++: p < 0,001
Sau hai tháng nghiên cứu cả hai nhóm Givalex và Eludril đều làm
giảm mảng bám có ý nghĩa, nhóm giả dược mảng bám tăng
So sánh giữa hai nhóm Givalex và Eludril
Hai giá trị dùng để so sánh là độ giảm (hay tăng) của chỉ số mảng bám
trung bình của hai nhóm
Nhóm

Giữa ngày 0 và ngày 28

P

Giữa ngày 0 và ngày 56

P
Givalex

-0,109

<0,05


-0,079

<0,05
Eludril

-0,079

-0,099
Sau 28 ngày nhóm Givalex mảng bám giảm nhiều hơn nhóm Eludril,
Tuy nhiên sau 56 ngày nhóm Eludril giảm mảng bám tốt hơn nhóm Givalex
Tình trạng viêm nướu
So sánh trong cùng một nhóm
Nhóm
Ngày

GIVALEX


ELUDRIL

GIẢ DƯỢC
Ngày 0
Ngày 28

0,743
0,584 +++

0,774
0,614 +++


0,465
0,567 +++
Ngày 28
Ngày 56

0,584

×