Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CỦA TORUS KHẨU CÁI VÀ TORUS HÀM DƯỚI TRÊN 615 CA pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.09 KB, 76 trang )





ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CỦA TORUS
KHẨU CÁI VÀ TORUS HÀM DƯỚI
TRÊN 615 CA
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CỦA TORUS KHẨU CÁI
VÀ TORUS HÀM DƯỚI TRÊN 615 CA


TÓM TẮT
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm xác định các đặc điểm dịch tễ học và
hình thái học của torus hàm trên và hàm dưới ở một mẫu dân số người Việt
nam.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang trên 898 đối tượng đến khám tại
khoa Răng Hàm Mặt Đại học Y Dược ghi nhận 651 trường hợp có torus. Tỷ
lệ người có torus là 68,5%, tương đương với các dân số da vàng khác và cao
hơn các nhóm dân số da trắng.
Kết quả: Tỷ lệ có torus khẩu cái ở nữ (73%) cao hơn so với nam
(61,1%) một cách có ý nghĩa. Torus hàm dưới có tỷ lệ thấp và xuất hiện ở
nam (4,8%) nhiều hơn nữ (3%). Kích thước của torus thường là nhỏ hoặc
vừa, hiếm thấy torus đạt kích thước lớn.
Kết luận: Vị trí của torus thường thấy ở 1/3 giữa khẩu cái. Torus dạng
hòn và nhiều múi chiếm đa số, dạng hòn hiếm thấy nhất. Ở hàm dưới, torus
thường có ở hai bên.
ABSTRACT
Objective: The purpose of this study was to determine the distribution
and morphological characteristics of torus palatinus and mandibularis in
Vietnamese population.
Method: This cross- sectional study was conducted on 898 patients.


Result: Tori were detected in 615 cases with a prevalence of 68.5%. In
female, the occurrence (73%) was significantly higher than in male (61.1%).
The occurrence of torus mandibularis was low: 4.8% in male and 3% in
female.
Conclusion: The size of torus was mostly reported as small or
medium. Torus was commonly found at the center of palate. The most
common shapes were the nodular and multi- nodular ones


ĐẶT VẤN ĐỀ

Torus khẩu cái và torus hàm dưới đã là một vấn đề được nhiều nhà
khoa học quan tâm lưu ý từ thế kỷ 19. Tuy lồi xương này không được xem
như là một biến đổi bệnh lý nhưng vẫn đặt ra vấn đề khi nó phát triển quá
lớn làm ảnh hưởng đến các chức năng nhai, nuốt nói và làm cản trở điều trị
phục hình. Đến nay nhiều nghiên cứu dịch tễ học đã được thực hiện trên các
nhóm chủng tộc khác nhau và kết quả thu được trên mỗi nhóm chủng tộc
này cũng rất khác nhau. Tần suất xuất hiện torus cao nhất là trên người
Eskimaux và thấp nhất là trên người da trắng với tỉ lệ thay đổi từ 9,2- 66%
cho torus khẩu cái và 0,5- 6,3% đối với torus hàm dưới
Tại Việt nam, torus khẩu cái và torus hàm dưới cũng được nhiều nhà
phẫu thuật quan tâm đến vì đây cũng là một biến dạng xương tương đối
thường gặp ở người Việt nam, và cần được phẫu thuật cắt bỏ t rong trường
hợp phát triển quá lớn làm ảnh hưởng đến việc phục hình tháo lắp cho bệnh
nhân. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm mục đích thống kê tần suất
của torus hàm trên và hàm dưới trên một mẫu dân số đến khám tại khoa
RHM-ĐHYD với các mục tiêu sau đây:
- Xác định tỉ lệ torus khẩu cái và torus hàm dưới.
- Khảo sát xuất độ của torus theo giới và theo tuổi
- Xác định các đặc điểm về vị trí, hình thái và kích thước của torus

- Khảo sát mối liên hệ giữa kích thước của torus theo giới và tuổi
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mẫu nghiên cứu
898 bệnh nhân đến khám tại khoa Răng hàm mặt- Đại học Y Dược
TPHCM từ tháng 5-6 /2002.
Phương pháp thu thập số liệu
Phiếu khám torus gồm đầy đủ các nội dung để đánh giá torus trên lâm
sàng xoay quanh các đặc điểm:
- Các thông tin về phần hành chánh
- Torus hàm trên và/ hay torus hàm dưới
- Hình dạng, vị trí, kích thước của torus trên lâm sàng
- Đối với torus hàm dưới, khảo sát thêm số lượng torus mỗi bên
Tiêu chuẩn đánh giá
Hình dạng
Để dễ dàng so sánh với các nghiên cứu khác, chúng tôi chọn phân loại
của Thoma là phân loại lâm sàng torus đơn giản, dễ áp dụng và được nhiều
tác giả sử dụng nhất
- Torus phẳng: là lồi xương rộng, dẹt và phẳng, nằm ở hai bên đường
ráp của xương hàm trên. Đáy torus thường rộng.
- Torus hình thoi:thường thấy ở vùng đường ráp hai xương hàm trên.
Torus thường hẹp, dài, có thể kéo dài từ vùng gai cửa đến vùng giới hạn sau
của khẩu cái cứng
- Torus dạng hòn: là những hòn xương nhỏ, rời rạc, thường xuất hiện
hai bên đường giữa. Khi những lồi xương này tập hợp lại thành một lồi
xương duy nhất, có thể thấy những rãnh xuất hiện giữa những hòn xương.
- Torus dạng thùy: hòn xương duy nhất, lớn hơn hẳn so với các dạng
trên, đáy rộng và có cuống.
Vị trí
- Trước: torus nằm từ vị trí răng 3 trở về trước.
- Giữa: vị trí của torus nằm trong khoảng vị trí của răng 4,5,6.

- Sau: vị trí của torus nằm trong khoảng vị trí của răng 7,8.
Kích thước
- Vết: phát hiện khi sờ bằng tay, cảm giác một hòn xương hơi lồi hơn
so với xung quanh.
- Nhỏ: khi chiều cao của torus dưới 3mm.
- Vừa: chiều cao torus từ 3- 5mm.
- Lớn: chiều cao của torus trên 5mm.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Tỷ lệ chung của torus khẩu cái và torus hàm dưới trên mẫu nghiên cứu
so sánh với các dân tộc khác
Tỷ lệ người Việt nam có torus khá cao (68,5%). Tỷ lệ này tương ứng
với tỷ lệ ở người Esquimaux (66%). So sánh với kết quả nghiên cứu của
Trịnh Công Khởi thực hiện từ năm 1983-1985 (48,8%)(11), chúng tôi nhận
thấy kết quả này có cao hơn, có lẽ vì phương pháp của chúng tôi dựa trên
thăm khám và quan sát.
Kết quả thu được này cũng phù hợp với nhận định của các nghiên
cứu khác thực hiện trên nhóm người da vàng là nhóm người có tỷ lệ torus
cao nhất. Torus ít thấy hơn trên người da trắng và trên người da đen.
Theo nghiên cứu của Ohno N. (1988) trên năm nhóm dân châu Á thì
nhóm nữ Nhật bản có tỷ lệ torus cao nhất (50%)(16). Ngoài ra trong nghiên
cứu của Kerdpon (1999) thì tỷ lệ có torus trên 609 người Thái lan là 61,7%.
So với nghiên cứu của Chew C.L. trên người Trung quốc có tỷ lệ torus là
48%, kết quả của chúng tôi cao hơn kết quả của các nghiên cứu trên. Để giải
thích sự khác biệt về tỷ lệ torus khác nhau ở các dân tộc, theo chúng tôi, bên
cạnh yếu tố dân tộc, thuyết môi trường của các tác giả King, Miller, Hdricka,
Mayhall và nhất là kết quả nghiên cứu của Eggen và Natig thực hiện trên
2.010 bệnh nhân về mối tương quan giữa tình trạng dinh dưỡng và sự xuất
hiện của torus đã nêu rằng thói quen dinh dưỡng có thể ảnh hưởng đến sự
xuất hiện của torus. Người Việt nam, cùng với các nhóm dân khác như Nhật
bản, Thái lan đều thường xuyên dùng đồ biển trong các bữa ăn hàng ngày,

mà các thực phẩm này rất giàu Vitamine D (chủ yếu trong gan cá) và acid
béo g3-polinsatures (thường có trong mỡ cá). Nhiều nghiên cứu đã chứng
minh rằng sự hiện diện của Vitamine D làm tăng sự hiện diện của một loại
proteine cảm ứng tạo xương. Còn acid béo y3- polinsatures là chất quan
trọng có tác dụng kích thích quá trình tăng trưởng và phát triển của protein
TGF b (Tumor Growth Factor), thành phần của protein này chứa đựng BMP
(Bone Morphogenetic Protein), đây cũng là loại protein làm kích thích sự tạo
xương. Vì vậy, tần suất xuất hiện torus khá cao trong các nhóm dân này. Đa
số các tác giả đều cho rằng torus xuất hiện có liên quan đến chủng tộc, tuy
nhiên trong nghiên cứu của King R.D về tỷ lệ của torus khẩu cái trên 100
người da trắng ở bang Kentucky có nguồn gốc từ Bắc Âu (nơi có tỷ lệ torus
khẩu cái thấp), ông đã nhận thấy có đến 47% nữ và 28% nam có torus khẩu
cái(12). Tỷ lệ này khá cao so với những người Bắc Au. Như vậy, sự thay đổi
môi trường sống cũng ảnh hưởng phần nào đến sự xuất hiện của torus.
Bảng 1: Tỷ lệ torus theo nhóm tuổi và giới tính trong dân số
Giới
Tuổi

Nam

Nữ

Tổng
n

%

n

%


n

%
15-19

14

58,3

37

74,0

51

68,9
20-29

75

61,0

150

75,8

225

70,1

30-39

46

59,0

82

70,1

128

65,6
40-49

40

66,7

80

75,5

120

72,2
>50

34


59,6

57

67,1

91

64,1
Tổng

209

61,1

406

73,0

615

68,5
Bảng 2: Tỷ lệ torus khẩu cái và torus hàm dưới theo giới tính


TP

TM

TP&TM


Tổng
n

%

n

%

n

%

n

%
Nam

133

63,6

10

4,8

66

31,6


209

100
Nữ

329

81,0

12

3,0

65

16,0

406

100
Tổng

462

75,1

22

3,6


131

21,3

615

100
c2=22,551 P=0,000…
Tỷ lệ của torus khẩu cái và torus hàm dưới theo giới và theo tuổi
Torus khẩu cái
Có sự liên quan giũa tuổi và sự xuất hiện của torus một cách có ý
nghĩa (P<0,05).
Theo bảng 1, chúng tôi nhận thấy tỷ lệ torus trung bình thường thấy
nhất trong khoảng tuổi từ 20-29, và từ 40-49. Ở nhóm tuổi ³ 50, tỷ lệ torus
giảm dần ở cả hai giới, kết quả này tương tự kết quả của một số tác giả khác.
Ở nhóm trẻ tuổi nhất (15-19 tuổi), tỷ lệ có torus trên cả hai giới cũng rất cao
(trung bình là 68,5%), điều này chứng tỏ torus có thể xuất hiện ở nhóm trẻ
hơn nữa (<15 tuổi) mà ở đây chúng tôi không có điều kiện để khảo sát thêm.
Điều này khác với tuổi xuất hiện của torus ở các nhóm người da trắng
(thường từ 30 tuổi trở lên). Đặc biệt torus cũng ghi nhận ở trẻ em Việt Nam
trong thời kỳ răng sữa (nghiên cứu của Nguyễn Quang Quyền trên sọ khô:
41,9%).
Torus hàm dưới
Torus hàm dưới ở nam nhiều hơn nữ, hơn nữa nam vừa có torus khẩu
cái vừa có torus hàm dưới với tỷ lệ cao gấp đôi nữ. Điều này phù hợp với kết
quả của phần lớn các tác giả như Kolas, Kerdpon, Miller, Eggen. Sở dĩ torus
hàm dưới xuất hiện ở nam nhiều hơn nữ là do nam có cơ hàm khỏe hơn ở
nữ. Người ta thường dựa vào thuyết cơ học để giải thích sự hiện diện của
torus hàm dưới. Lực nhai có xu hướng đẩy các chóp răng cối nhỏ hàm dưới

hướng vào phía lưỡi, điều này làm kích thích sự tăng sinh lớp xương ở phía
trong của xương hàm dưới. Một số tác giả khác cho rằng torus hàm dưới
xuất hiện là một dấu hiệu của tình trạng quá tải lực nhai trong quá khứ hoặc
trong hiện tại, nhất là có liên quan với nghiến răng.
Vị trí và hình dạng của torus khẩu cái và torus hàm dưới
Bảng 3a: Vị trí của torus khẩu cái theo giới
Giới tính

Nam

Nữ

Tổng
Vị trí

n

%

n

%

n

%
1/3 trước

3


1,5

1

0,3

4

0,7
1/3 giữa

118

×