Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Thực trạng về dịch vụ bảo lãnh của Ngân hàng thương mại Việt nam pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.68 KB, 32 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
T rong nền kinh tế thị trường hiện nay, quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng là
một quan hệ gắn bó mật thiết, có tác động qua lại và hỗ trợ cho nhau trong quá trình
phát triển. Hoạt động ngân hàng với rất nhiều dịch vụ đã phần nào đáp ứng được nhu
cầu của xã hội cũng như của khách hàng. Tuy nhiên, còn rất nhiều dịch vụ chưa được
ngân hàng khai thác hết. Mặt khác, các ngân hàng thương mại ở nước ta hiện nay đang
trong quá trình thực hiện chiến lược nâng cao khả năng cạnh tranh trước yêu cầu mở
của thị trường dịch vụ tài chính, hội nhập quốc tế, chuẩn bị thực hiện các cam kết trong
khuôn khổ WTO. Trọng tâm của chiến lược này là hiện đại hoá công nghệ, phát triển
dịch vụ, nâng cao trình độ quản trị điều hành theo chuẩn mực quốc tế… Bởi vậy, phát
triển và đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng trở thành vấn đề tất yếu khách quan, là vấn đề
cấp bách đối với tất cả các ngân hàng thương mại trong nước.
Trong các dịch vụ đó thì bảo lãnh ngân hàng là một dạng dịch vụ ngân hàng hiện
đại. Bảo lãnh xuất hiện vào giữa những năm 60 ở một thị trường nội địa nước Mỹ. Sau
đó, vào đầu những năm 70, bảo lãnh bắt đầu được sử dụng trong các giao dịch thương
mại quốc tế. Và kể từ đó đến nay, với khả năng ứng dụng rộng rãi trong các loại giao
dịch (tài chính lẫn phi tài chính, thương mại lẫn phi thương mại), vị trí của bảo lãnh
ngân hàng ngày càng được củng cố một cách chắc chắn. Bảo lãnh ngân hàng là một
trong các hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng. Nhưng khác các hình thức cấp
tín dụng khác như cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính; khi thực hiện nghiệp vụ bảo
lãnh, tổ chức tín dụng không phải cung ứng vốn cho khách hàng mà chỉ dùng uy tín và
khả năng tài chính của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cho khách hàng. Như vậy,
về bản chất thì bảo lãnh ngân hàng là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, nó
mang tính phái sinh (phát sinh từ nghĩa vụ chính được giao kết giữa khách hàng với
bên thứ ba). Nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng đem lại rất nhiều tiện ích cho khách hàng.
Do được bảo lãnh mà trong nhiều trường hợp, khách hàng không phải xuất quỹ, được
thu hồi vốn nhanh, được kéo dài thời gian thanh toán hàng hoá, dịch vụ, nghĩa vụ nộp
thuế… Chính vì vậy, bảo lãnh ngân hàng ngày càng phát triển và đóng vai trò quan
trọng trong việc phát triển kinh tế. Hoạt động này không chỉ đem lại nguồn thu ngày
càng lớn cho các tổ chức tín dụng, mà quan trọng hơn nó đem lại sự tin tưởng của các
chủ thể khi giao kết hợp đồng. Nó chính là chất xúc tác thúc đẩy các hoạt động thương


mại, dân sự trong nước và quốc tế ngày càng phát triển.
Như vậy, thông qua nghiên cứu hoạt động bảo lãnh ngân hàng, chúng ta có thể
tìm ra những yếu kém còn tồn tại, từ đó đưa ra các giải pháp phát triển và hoàn thiện
hơn nữa các hoạt động của ngân hàng, tạo tiền đề quan trọng, vững chắc trong việc gia
nhập tổ chức thương mại thế giới WTO.
1
Ngoài lời nói đầu và kết luận, đề tài được kết cấu thành hai phần:
Phần 1: Một số vấn đề cơ bản về dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng thương mại
Phần 2: Thực trạng về dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng thương mại Việt Nam
2
DANH MỤC CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
Thuật ngữ đầy đủ Thuật ngữ viết tắt
1. Ngân hàng thương mại NHTM
2. Ngân hàng Trung ương NHTW
3. Ngân hàng Nhà nước NHNN
4. Bảo lãnh ngân hàng BLNH
5. Dịch vụ ngân hàng DVNH
6. Tổ chức tín dụng TCTD
7. D ịch vụ bảo lãnh DVBL
3
PHẦN 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ BẢO LÃNH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại
Lịch sử hình thành và phát triển của NHTM gắn liền với lịch sử phát triển của nền
sản xuất hàng hoá. Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của
các thợ vàng, của những kẻ cho vay nặng lãi. Các ngân hàng này cho vay với cá nhân,
chủ yếu là những người giaù như quan lại, địa chủ, vua chúa… nhằm mục đích phục
vụ tiêu dùng, tài trợ một phần nhu cầu chi tiêu cho chiến tranh. Hình thức cho vay chủ

yếu là thấu chi. Do lợi nhuận từ cho vay rất cao, nhiều chủ ngân hàng đã lạm dụng ưu
thế của chứng chỉ tiền gửi, phát hành chứng chỉ tiền gửi khống để cho vay. Thực trạng
này đã đẩy nhiều ngân hàng đến chỗ mất khả năng thanh toán và phá sản.
Sự sụp đổ của ngân hàng gây khó khăn cho hoạt động thanh toán, ảnh hưởng xấu
tới hoạt động buôn bán. Hơn nữa, lãi suất cao nên những nhà buôn không thể sử dụng
nguồn này. Trước tình hình đó, nhiều nhà buôn tự thành lập ngân hàng, gọi là NHTM.
Như vậy, NHTM được hình thành xuất phát từ vận động của tư bản thương nghiệp, và
gắn liền với quá trình luân chuyển của tư bản thương nghiệp. NHTM cũng thực hiện
các nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng như huy động tiền gửi, thanh toán hộ, cất
giữ hộ và cho vay. Để đảm bảo an toàn, NHTM ban đầu không cho vay đối với người
tiêu dùng, không cho vay trung và dài hạn, không cho vay đối với Nhà nước.
Cùng với sự phát triển kinh tế và công nghệ, hoạt động ngân hàng đã có những
bước tiến rất nhanh. Trước hết là sự đa dạng hoá các loại hình ngân hàng và các hoạt
động ngân hàng. NHTM từ chỗ chỉ cho vay ngắn hạn đã mở rộng cho vay trung và dài
hạn, cho vay để đầu tư vào bất động sản. Bên cạnh các hình thức huy động tiền gửi,
các ngân hàng đã mở rộng hình thức vay như vay NHTW, vay các ngân hàng khác.
Công nghệ ngân hàng đang góp phần làm thay đổi các hoạt động cơ bản của ngân
hàng. Thanh toán điện tử đang thay thế dần thanh toán thủ công, các loại thẻ đang thay
thế dần tiền giấy và dịch vụ ngân hàng 24h, dịch vụ ngân hàng tại nhà tạo ra các tiện
ích ngày càng lớn cho dân chúng.
Như vậy, ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Có
nhiều cách định nghĩa về ngân hàng. Nhưng khi xem xét trên phương diện các loại
hình dịch vụ mà chúng cung cấp thì Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một
danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ
4
thanh toán, và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế.
1.1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Trung gian tài chính
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển

tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại các nhân và tổ chức trong nền
kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu
dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn; và (2)
các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn
các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại
của hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là
tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ (1) sang nhóm thứ (2) nếu cả hai cùng có lợi. Như vậy thu
nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm.
Quan hệ tín dụng trực tiếp đã có từ rất lâu và tồn tại cho đến ngày nay. Tuy nhiên,
sự không phù hợp về quy mô, thời gian, không gian… đã cản trở quan hệ trực tiếp phát
triển và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. Do chuyên môn hoá, trung gian tài
chính có thể làm giảm chi phí giao dịch, làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó
mà khuyến khích tiết kiệm; đồng thời giảm phí tổn tín dụng cho người đầu tư (tăng thu
nhập cho người đầu tư), từ đó mà khuyến khích đầu tư. Trung gian tài chính đã tập hợp
các người tiết kiệm và đầu tư, vì vậy mà giải quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực
tiếp. Cơ chế hoạt động của trung gian sẽ có hiệu quả khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng
các kĩ thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch.
1.1.2.2. Tạo phương tiện thanh toán
Tiền – vàng có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán. Các
ngân hàng đã không tạo được tiền kim loại. Các ngân hàng thợ vàng tạo phương tiện
thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Giấy nhận nợ do ngân hàng
phát hành với ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được
nhiều người chấp nhận. Dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm
phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ; nó trở thành tiền giấy. Việc in tiền mang
lại lợi nhuận rất lớn, đồng thời với nhu cầu có đồng tiền quốc gia duy nhất đã dẫn đến
việc Nhà nước tập trung quyền lực phát hành (in) tiền giấy vào một tổ chức hoặc là Bộ
tài chính hoặc là NHTW. Từ đó chấm dứt việc các NHTM tạo ra các giấy bạc của riêng
mình.
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy
nếu họ có số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng

hoá và dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều
5
bộ phận. Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông (MO), thứ hai là số dư tài khoản tiền gửi
giao dịch của các khách hàng tại các ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên các tài khoản
tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kì hạn… Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản
tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng hoá
và dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay (hay tạo ra tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra
phương tiện thanh toán (tham gia tạo ra M1).
Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo ra phương tiện thanh toán khi các khoản
tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi
khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản
thu (tức làm tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác, từ
đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể
cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng
tiền gửi (tạo phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay. Các nhà
nghiên cứu đã chỉ ra lượng tiền gửi mà hệ thống ngân hàng tạo ra chịu tác động trực
tiếp của các nhân tố như: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt qua ngân
hàng, tỷ lệ tiền gửi không phải là tiền gửi thanh toán…
1.1.2.3. Trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc
gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ.
Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí; ngân hàng đưa ra cho
khách hàng nhiều hình thức thanh toán như: thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, các
loại thẻ… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy
khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bừ trừ với nhau thông qua
NHTW hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng
càng đạt hiêụ quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy,
công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản lý tìm cách áp
dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo tính thống
nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa

các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã
làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm
thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
1.1.3. Các dịch vụ của ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dich vụ cho công chúng và doanh
nghiệp. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài
chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả. Các dịch
vụ của ngân hàng bao gồm:
6
1.1.3.1. Mua bán ngoại tệ
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi (mua bán)
ngoại tệ - một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và
hưởng phí dịch vụ. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ
do các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro
cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao.
1.1.3.2. Nhận tiền gửi
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm mọi cách
để huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi (thanh
toán và tiết kiệm của khách hàng). Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ
người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành
được các khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho
khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân
hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh.
1.1.3.3. Cho vay
Gồm có: cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng, tài trợ cho dự án. Thời kỳ đầu,
các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu, cho vay đối với những người bán. Sau đó là
bước chuyển tiếp từ thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng, giúp
họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
Trong giai đoạn đầu, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá
nhân và hộ gia đình. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong

cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng
tiềm năng. Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng ngày
càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong
các ngành công nghệ cao. Mặc dù rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung là cao
song lãi lại lớn. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào đất.
1.1.3.4. Bảo quản vật có giá
Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng
trong kho bảo quản, đồng thời giao cho khách hàng tờ biên nhận. Do khả năng chi trả
bất cứ lúc nào cho giấy chứng nhận, nên giấy chứng nhận đã được sử dụng như tiền –
dùng để thanh toán các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng phát hành.
Đây là hình thức đầu tiên của giấy bạc ngân hàng. Ngày nay, vật có giá được tách khỏi
tiền gửi và khách hàng phải trả phí bảo quản.
1.1.3.5. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
7
Khi các doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng, họ nhận thấy ngân hàng không chỉ
bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của họ. Thanh toán qua
ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không
cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách (còn được
gọi là séc), khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của
thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí) đã
góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân.
Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều thể thức thanh toán được phát
triển như: uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh toán bằng điện, thẻ…
1.1.3.6. Quản lý ngân quỹ
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền cho các doanh nghiệp và cá nhân nên
ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệm
trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp
cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ.
1.1.3.7. Tài trợ các hoạt động của Chính phủ
Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách trong khi thu không đủ, Chính phủ

các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của ngân hàng. Trong điều kiện các
ngân hàng tư nhân không muốn tài trợ cho Chính phủ vì rủi ro cao, Chính phủ thường
dùng một số đặc quyền trao đổi lấy các khoản vay của những ngân hàng lớn. Ngày nay,
Chính phủ giành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân
hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức
độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ.
1.1.3.8. Bảo lãnh
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do ngân
hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho
khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát
triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá
và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của TCTD khác.
1.1.3.9. Cho thuê thiết bị trung và dài hạn (Leasing)
Nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn thuê các
thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua
thiết bị và cho khách hàng thuê. Hợp đồng cho thuê thường phải đảm bảo yêu cầu
khách hàng phải trả tới hơn 2/3 giá trị của tài sản cho thuê. Do vậy, cho thuê của ngân
hàng cũng có nhiều điểm giống như cho vay, được xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
1.1.3.10. Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn
8
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về
quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài
sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay
hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư… Thậm chí, các ngân hàng còn đóng vai trò là
người được uỷ thác trong di chúc. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài
chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp cho khách hàng.
1.1.3.11. Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách
hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến các ngân hàng
bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ

phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh
chứng khoán. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng
khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán.
1.1.3.12. Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó bảo
đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro trong
hoạt động, mất khả năng thanh toán.
1.1.3.13. Cung cấp các dịch vụ đại lý
Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn
phòng khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng (thường ngân hàng lớn) cung cấp dịch vụ ngân
hàng đại lý cho các ngân hàng khác như: thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ
tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ…
1.2. DỊCH VỤ BẢO LÃNH CỦA NHTM (BLNH)
1.2.1. Khái niệm, bản chất và vai trò của BLNH
1.2.1.1. Khái niệm
Quy chế BLNH ban hành kèm theo Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày
26/6/2006 của Ngân hàng Nhà nước (gọi là quy chế mới) quy định việc thực hiện
nghiệp vụ bảo lãnh của các TCTD đối với khách hàng. Khoản 1 trong Điều 2 của Quy
chế mới quy định: BLNH là cam kết bằng văn bản của TCTD (bên bảo lãnh) với bên
có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách
hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghiã vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả nợ
cho TCTD số tiền đã được trả thay.
Như vậy, quan hệ BLNH ít nhất bao gồm 3 chủ thể: bên bảo lãnh, bên được bảo
lãnh, bên nhận bảo lãnh. TCTD thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh (hay bên bảo lãnh) là các
9
TCTD được thành lập, hoạt động theo Luật các TCTD; trong trường hợp bên nhận bảo
lãnh là các tổ chức và cá nhân nước ngoài thì chỉ các ngân hàng được NHNN cho phép
hoạt động thanh toán quốc tế mới được thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh. Khách hàng
được TCTD bảo lãnh (hay bên được bảo lãnh) là các tổ chức và cá nhân trong nước và

nước ngoài, trừ những người quản lý, điều hành của TCTD, những người thân thích
của những người này và các cán bộ, nhân viên thực hiện thẩm định, quyết định bảo
lãnh. Người thụ hưởng bảo lãnh (hay bên nhận bảo lãnh) là các tổ chức, cá nhân trong
và ngoài nước có quyền thụ hưởng bảo lãnh của TCTD.
Vai trò của BLNH:
- BLNH thúc đẩy quá trình chu chuyển vốn, hàng hoá trong cũng như ngoài nước,
khuyến khích tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhập nguyên liệu, máy móc… từ đó
sẽ duy trì và mở rộng sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm, tạo công ăn việc làm… góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- BLNH tạo điều kiện thúc đẩy và là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế mũi
nhọn và các ngành kinh tế kém phát triển. Ngân hàng có thể khuyến khích các ngành
kinh tế mũi nhọn bằng việc tăng cường ưu tiên bảo lãnh để cho họ có vốn để tăng
cường sản xuất. Đối với các ngành kinh tế mũi nhọn, ngân hàng có thể dùng chính sách
ưu đãi về giảm tỷ lệ phí bảo lãnh để tạo điều kiện cho các ngành này thực hiện các hợp
đồng mua bán hàng hoá, vay nợ… để phát triển sản xuất kinh doanh.
- BLNH giúp cho các doanh nghiệp tăng cường sự tin cậy khi ký kết các hợp
đồng, hạn chế được các rủi ro.
- BLNH tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thu hút vốn thông qua việc phát hành
chứng khoán có sự bảo lãnh của ngân hàng. Đồng thời tạo ra công cụ hoạt động và
phát triển thị truờng chứng khoán, các doanh nghiệp có được một khoản vay thuận lợi
cho việc sử dụng với chi phí thấp hơn so với việc vay vốn của các NHTM nước ngoài.
1.2.1.2. Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng
Bảo lãnh ngân hàng có các đặc điểm sau:
- Là mối quan hệ nhiều bên phụ thuộc lẫn nhau: Trong một nghiệp vụ BLNH
thường có sự kết hợp giữa 3 hợp đồng độc lập: Hợp đồng giữa bên được bảo lãnh và
bên nhận bảo lãnh, hợp đồng giữa bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh, hợp đồng giữa
bên nhận bảo lãnh và bên bảo lãnh.
+ Bên bảo lãnh: là người phát hành bảo lãnh như các NHTM, ngân hàng đầu tư
phát triển, ngân hàng chính sách, các TCTD khác thành lập và hoạt động theo Luật các
TCTD.

+ Bên được bảo lãnh: là các khách hàng phải thực hiện các nghĩa vụ chi trả, gồm:
Doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp
danh, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp
10
liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại một nước, doanh nghiệp tư nhân,
hộ kinh doanh cá thể.
+ Bên nhận bảo lãnh: là các tổ chức, cá nhân, trong và ngoài nước có quyền
hưởng thụ các cam kết bảo lãnh của TCTD.
- BLNH có tính độc lập tương đối so với hợp đồng: Mặc dù mục đích của BLNH
là bồi hoàn cho nguời thụ hưởng những thiệt hại từ việc không thực hiện hợp đồng của
người được bảo lãnh trong quan hệ hợp đồng, nhưng việc thanh toán một bảo lãnh chỉ
hoàn toàn căn cứ vào các điều khoản và điêù kiện được quy định trong bảo lãnh.
- Tính phù hợp của bảo lãnh: Khi người thụ hưởng bảo lãnh đến yêu cầu TCTD
thanh toán thì TCTD có trách nhiệm kiểm tra các chứng từ do ngưòi thụ hưởng xuất
trình. TCTD bảo lãnh có quyền từ chối thanh toán nếu như chứng từ có dấu hiệu không
hợp lệ hay những điều kiện của bảo lãnh không được đáp ứng.
1.2.1.3. Bản chất và ý nghĩa của BLNH
- BLNH được dùng như một công cụ bảo đảm
Chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh là cung cấp một sự đảm bảo cho người
hưởng bảo lãnh vì nó cung cấp cho họ một khoản bồi hoàn tài chính cho những thiệt
hại do hành vi vi phạm hợp đồng của người yêu cầu bảo lãnh gây ra.
- BLNH được dùng như một công cụ tài trợ
Hầu hết các hợp đồng thi công và thậm chí một số hợp đồng buôn bán lớn đòi hỏi
phải có một khoảng thời gian dài mới thực hiện xong. Điều này đặt ra nhu cầu tài trợ
cho dự án. Người thi công sẽ rất gặp khó khăn về tài chính và chịu nhiều rủi ro nếu như
phải hoàn tất công trình hay từng hạn mục công trình thì mới nhận được thanh toán của
chủ công trình. Vì vậy, công ty xây dựng sẽ thương lượng với chủ công trình về một
khoản tiền tài trợ cho mình. Ngân hàng của công ty xây dựng sẽ phát hành bảo lãnh
hoàn trả tiến ứng trước như một công cụ tài trợ để công ty nhận được khoản tiền ứng
trước từ phía nhà đầu tư. Như vậy, bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín. Ngân

hàng không phải xuất tiền ngay khi bảo lãnh, và bảo lãnh được coi như tài sản ngoại
bảng. Tuy nhiên khi khách hàng không thực hiện được cam kết, ngân hàng phải thực
hiện nghĩa vụ chi trả cho bên thứ ba. Khoản chi trả này được xếp vào loại tài sản “xấu”
trong nội bảng, cấu thành nợ quá hạn. Vì vậy, bảo lãnh cũng chứa đựng các rủi ro như
một khoản cho vay và đòi hỏi ngân hàng phải phân tích khách hàng như khi cho vay.
- BLNH được dùng như công cụ đôn đốc hoàn thành hợp đồng
Việc thanh toán bảo lãnh dựa trên vi phạm hợp đồng của người yêu cầu bảo lãnh.
Trong suốt thời hạn hiệu lực của bảo lãnh phát hành, người hưởng bảo lãnh có quyền
yêu cầu ngân hàng phát hành thanh toán bảo lãnh khi người yêu cầu bảo lãnh vi phạm
hợp đồng (bất kể ở mức độ nào và gây thiệt hại cho người hưởng bảo lãnh bao nhiêu).
11
Như vậy, người yêu cầu bảo lãnh luôn phải chịu một áp lực của việc bồi hoàn bảo lãnh
nên hết sức cố gắng hoàn thành tốt hợp đồng mà hai bên đã ký.
Như vậy, BLNH tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro. Trách
nhiệm tài chính trước hết thuộc về khách hàng, trách nhiệm của ngân hàng là thứ cấp
khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba. Do mối liên hệ giữa ngân
hàng với khách hàng có khả năng ràng buộc khách hàng phải thực hiện các cam kết.
Bảo lãnh góp phần giảm bớt thiệt hại tài chính cho bên thứ ba khi tổn thất xảy ra. Đồng
thời cũng góp phần mở rộng các dịch vụ khác như: kinh doanh ngoại tệ, tư vấn,…
1.2.2. Phân loại bảo lãnh ngân hàng
Có nhiều tiêu thức để phân loại bảo lãnh, sau đây là một số tiêu thức cơ bản:
1.2.2.1. Căn cứ vào bản chất của bảo lãnh
1.2.2.1.1. Bảo lãnh đồng nghĩa vụ (hay bảo lãnh bổ sung):
Bảo lãnh đồng nghĩa vụ: là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng và người được bảo
lãnh được xem là có cùng nghĩa vụ. Tuy nhiên, nghĩa vụ của người được bảo lãnh là
nghĩa vụ đầu tiên, nghĩa vụ của ngân hàng chỉ là nghĩa vụ bổ sung, nghĩa vụ bổ sung
chỉ được thực hiện khi có bằng cứ xác nhận rằng nghĩa vụ đầu tiên bị vi phạm.
Bảo lãnh đồng nghĩa vụ đòi hỏi ngân hàng bảo lãnh phải can thiệp khá sâu vào
giao dịch hợp đồng giữa người được bảo lãnh và người hưởng thụ bảo lãnh. Do vậy, nó
chủ yếu được sử dụng trong phạm vi nội địa mà ít được sử dụng trong quan hệ quốc tế.

1.2.2.1.2. Bảo lãnh độc lập
Bảo lãnh độc lập: là loại bảo lãnh hiện đại, trong đó nghĩa vụ của ngân hàng và
của người được bảo lãnh hoàn toàn tách rời nhau. Việc thực hiện thanh toán chỉ căn cứ
vào những điều kiện, điều khoản quy định trong văn bản bảo lãnh được thoả mãn mà
thôi. Tuy nhiên tính độc lập cuả loại bảo lãnh này không hoàn toàn tuyệt đối mà phụ
thuộc vào các điều kiện thanh toán đã được quy định trong văn bản bảo lãnh giữa ngân
hàng người thụ hưởng bảo lãnh.
Bảo lãnh độc lập đem lại sự thuận lợi lớn cho người thụ hưởng và cả ngân hàng
bảo lãnh, do vậy nó được sử dụng rất phổ biến trong thương mại quốc tế. Hiện nay, hầu
hết các quy định về bảo lãnh trong lĩnh vực quốc tế đều chỉ quan tâm đến loại bảo lãnh
này.
1.2.2.2. Căn cứ vào phương thức phát hành bảo lãnh
1.2.2.2.1. Bảo lãnh trực tiếp
Bảo lãnh trực tiếp: là loại bảo lãnh trong đó, ngân hàng phát hành bảo lãnh chịu
trách nhiệm trực tiếp cho bên được bảo lãnh, người được bảo lãnh chịu trách nhiệm bồi
hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành bảo lãnh .
12
Bảo lãnh trực tiếp thông thường có ba bên tham gia: Ngân hàng phát hành bảo
lãnh, người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh.
1.2.2.2.2. Bảo lãnh gián tiếp
Bảo lãnh gián tiếp: là loại bảo lãnh mà trong đó ngân hàng bảo lãnh đã phát hành
bảo lãnh theo chỉ thị của một ngân hành trung gian phục vụ cho người được bảo lãnh
dựa trên một bảo lãnh khác gọi là bảo lãnh đối ứng. Người được bảo lãnh không phải
bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành bảo lãnh mà chính ngân hàng trung gian
chịu trách nhiệm bồi hoàn.
Như vậy, trong bảo lãnh gián tiếp có ít nhất bốn bên tham gia: ngân hàng phát
hành bảo lãnh, ngân hàng trung gian, người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh.
Bảo lãnh gián tiếp được sử dụng chủ yếu trong trường hợp người hưởng thụ bảo lãnh là
người nước ngoài và ngân hàng phát hành ở ngay tại quốc gia của người thụ hưởng, do
vậy quyền lợi của ngưòi thụ hưởng được bảo vệ chắc chắn hơn.

1.2.2.3. Căn cứ vào mục đích của bảo lãnh
1.2.2.3.1. Bảo lãnh vay vốn
Bảo lãnh vay vốn: là một BLNH do ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo lãnh,
về việc cam kết trả nợ thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả nợ
hoặc không trả nợ đầy đủ, đúng hạn.
Bảo lãnh vay vốn gồm: Bảo lãnh vay vốn trong nước và bảo lãnh vay vốn nước
ngoài (chủ yếu dưới hình thức bảo lãnh mở L/C trả chậm).
1.2.2.3.2. Bảo lãnh thanh toán
Bảo lãnh thanh toán: là một BLNH do ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo
lãnh cam kết sẽ thanh toán thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không
thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình khi đến hạn.
1.2.2.3.3. Bảo lãnh dự thầu
Bảo lãnh dự thầu: là một BLNH do ngân hàng phát hành cho bên mời thầu để đảm
bảo nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trường hợp khách hàng bị phạt do vi
phạm quy định dự thầu mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên mời thầu
thì ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
Trong hoạt động kinh tế, rất nhiều hoạt động được thực hiện thông qua đấu thầu
như đâú thầu cung cấp thiết bị, xây dựng. Để tìm kiếm được các nhà thầu có đủ năng
lực và hạn chế những rủi ro khi nhà thầu vi phạm các điều khoản tham gia dự thầu như:
trúng thầu xong không thực hiện hợp đồng, không kê khai đúng các yêu cầu của chủ
đầu tư… chủ đầu tư thường yêu cầu bên dự thầu phải kí quĩ (đặt cọc) dự thầu. Nếu vi
phạm, bên dự thầu sẽ bi mất tiền kí quĩ. Do kí quĩ gây ra nhiều thủ tục phiền phức cho
13
cả hai bên, đặc biệt làm đọng vốn của bên tham gia dự thầu, nhiều chủ thầu yêu cầu
thay thế tiền kí quĩ bằng bảo lãnh của ngân hàng.
1.2.2.3.4. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là một BLNH do ngân hàng phát hành cho bên nhận
bảo lãnh bảo đảm việc thực hiện đúng nghĩa vụ của khách hàng với bên nhận bảo lãnh
theo hợp đồng đã ký kết. Trường hợp khách hàng không thực hiện đúng và đủ các
nghĩa vụ trong hợp đồng, ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.

Các hợp đồng được bảo lãnh như: hợp đồng cung cấp hàng hoá, xây dựng, thiết
kế… Việc khách hàng vi phạm hợp đồng như cung cấp không đúng hạn, không đúng
chất lượng cam kết… đều có thể gây tổn thất cho bên thứ ba. BLNH một mặt bù đắp
một phần tổn thất cho bên thứ ba, mặt khác thúc đẩy khách hàng nghiêm chỉnh thực
hiện hợp đồng.
1.2.2.3.5. Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm
Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm: là một BLNH do ngân hàng phát hành
cho bên nhận bảo lãnh bảo đảm khách hàng thực hiện đúng các thoả thuận về chất
lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách
hàng bị phạt tiền do không thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp đồng về chất lượng
sản phẩm với bên nhận bảo lãnh mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên
nhận bảo lãnh, ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
1.2.2.3.6. Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước
Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước: Là một BLNH do ngân hàng phát hành cho bên
nhận bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo
hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm các cam
kết với bên nhận bảo lãnh và phải hoàn trả tiền ứng trước nhưng không hoàn trả hoặc
hoàn trả không đủ số tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh thì ngân hàng sẽ hoàn trả số
tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh.
1.2.2.3.7. Các loại bảo lãnh khác
- Bảo lãnh đối ứng: là bảo lãnh do một ngân hàng (bên phát hành bảo lãnh đối
ứng) phát hành cho một ngân hàng khác (bên bảo lãnh) về việc đề nghị bên bảo lãnh
thực hiện bảo lãnh cho các nghĩa vụ của khách hàng của bên phát hành bảo lãnh đối
ứng với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm các cam kết với bên nhận
bảo lãnh, bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì bên phát hành bảo lãnh đối
ứng phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối ứng cho bên bảo lãnh.
- Xác nhận bảo lãnh: là một BLNH do ngân hàng (bên xác nhận bảo lãnh) phát
hành cho bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của
ngân hàng được xác nhận bảo lãnh (bên được xác nhận bảo lãnh) đối với khách hàng.
14

Trường hợp bên được xác nhận bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ
nghĩa vụ của mình đã cam kết với bên nhận bảo lãnh thì bên xác nhận bảo lãnh sẽ thực
hiện nghĩa vụ thay cho bên được xác nhận bảo lãnh.
- Đồng bảo lãnh: là việc nhiều ngân hàng cùng bảo lãnh cho một nghĩa vụ của
khách hàng thông qua một ngân hàng làm đầu mối. Trong một số trường hợp, để giảm
thiểu rủi ro các ngân hàng có thể thực hiện đồng bảo lãnh. Trường hợp này một ngân
hàng đứng ra đóng vai trò là ngân hàng đầu mối phát hành bảo lãnh nhưng có sự tham
gia của các ngân hàng thành viên khác. Nếu phải chi trả cho người thụ hưởng theo bảo
lãnh đã lập, ngân hàng đầu mối có thể đòi bồi hoàn từ các thành viên theo tỷ lệ tham
gia của họ, dựa trên các bảo lãnh đối ứng do các ngân hàng này phát hành. Đến lượt
mình, các ngân hàng này lại tiến hành truy đòi từ người được bảo lãnh.
Ngoài các loại bảo lãnh được quy định tại Quy chế, TCTD còn được thực hiện các
loại bảo lãnh khác pháp luật không cấm và phù hợp với thông lệ quốc tế. Đây là một
quy định mở để các TCTD có thể phát hành các loại bảo lãnh mà pháp luật chưa dự
liệu được khi thực hiện bảo lãnh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ở
nứơc ta.
1.2.3. Phạm vi và giới hạn bảo lãnh
Khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, TCTD có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc
toàn bộ các nghĩa vụ sau đây:
- Nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi vay và các chi phí khác có liên quan đén khoản vay
- Nghĩa vụ thanh toán tiền mua vật tư, hàng hoá, máy móc, thiết bị và các khoản
chi phí để khách hàng thực hiện các dự án hoặc phương án đầu tư, phương án sản xuất,
kinh doanh hoặc dịch vụ đời sống.
- Nghĩa vụ thanh toán các khoản thuế, các nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà
nước.
- Nghiã vụ của khách hàng khi tham gia dự thầu.
- Nghĩa vụ của khách hàng khi tham gia quan hệ hợp đồng với bên nhận bảo lãnh,
như: thực hiện hợp đồng, bảo đảm chất lượng sản phẩm, hoàn trả tiền ứng trước…
- Các nghĩa vụ hợp pháp khác do các bên thoả thuận.
1.2.4. Điều kiện và quy trình bảo lãnh

1.2.4.1. Điêù kiện bảo lãnh
Khách hàng được bảo lãnh phải có đủ các điều kiện sau đây:
- Có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách
nhiệm dân sự theo quy đinh của pháp luật.
- Mục đích đề nghị ngân hàng bảo lãnh là hợp pháp và thuộc các dự án đầu tư
hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi, hiệu quả.
15
- Có bảo đảm hợp pháp cho nghĩa vụ được bảo lãnh (Trường hợp ký quỹ 100% số
tiền bào lãnh và các khoản phí liên quan không cần thiết điều kiện này).
Các hình thức bảo đảm cho bảo lãnh bao gồm:
+ Ký quỹ, cầm cố tài sản, thế chấp tài sản
+ Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba
+ Bảo lãnh đối ứng của các TCTD
+ Các biện pháp bảo đảm hợp pháp khác theo yêu cầu của ngân hàng bảo lãnh và
phù hợp với quy định của pháp luật.
Việc dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm cho bảo lãnh vay vốn, việc áp
dụng hay không áp dụng các biện pháp bảo đảm bằng tài sản cho việc thực hiện nghĩa
vụ bảo lãnh phải thực hiện theo Nghị định của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các
TCTD và các văn bản hướng dẫn của Thống đốc NHTW, của TCTD bảo lãnh.
- Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh trong thời hạn cam
kết.
- Có tín nhiệm trong quan hệ tín dụng và giao dịch tiền gửi, thanh toán với hệ
thống ngân hàng, không có nợ quá hạn khó đòi (trừ nợ khoanh), không có dư nợ do trả
thay bảo lãnh (Trường hợp ký quỹ 100% số tiền bảo lãnh và các khoản phí liên quan
không cần thiết điều kiện này).
- Trường hợp bảo lãnh hối phiếu, lệnh phiếu khách hàng phải bảo đảm các điều
kiện theo quy định của pháp luật về thương phiếu.
- Có trụ sở làm việc (đối với pháp nhân) hoặc hộ khẩu thường trú (đối với cá
nhân, hộ kinh doanh cá thể) cùng địa bàn tỉnh, thành phố nơi các chi nhánh ngân hàng
đóng trụ sở (Trường hợp ký quỹ 100% số tiền bảo lãnh và các khoản phí liên quan

không cần thiết điều kiện này).
- Trường hợp khách hàng đề nghị được bảo lãnh là đơn vị hạch toán kinh doanh
kinh tế phụ thuộc của pháp nhân là doanh nghiệp nhà nước, ngoài các điều kiện trên
phải đáp ứng được thêm các điều kiện sau:
+ Đơn vị phụ thuộc phải có giấy uỷ quyền đề nghị được bảo lãnh và cam kết được
bảo lãnh của các đơn vị chính. Nội dung ủy quyền và cam kết bảo lãnh phải thể hiện rõ
mức được bảo lãnh cao nhất, dự án, phương án sản xuất kinh doanh liên quan đến bảo
lãnh, thời hạn bảo lãnh và cam kết trả nợ khi ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh mà đơn vị phụ thuộc không trả được nợ cho ngân hàng.
+ Đơn vị chính có quan hệ tiền gửi, tín dụng trong hệ thống ngân hàng, chi nhánh
ngân hàng giao dịch với đơn vị chính phải có văn bản xác nhận về: số dư thực tế tiền
gửi, tiền vay, bảo lãnh, các biện pháp bảo đảm tiền vay, bảo lãnh của đơn vị chính.
- Trường hợp bảo lãnh có liên quan đến yếu tố nước ngoài (bên nhận bảo lãnh và
bên được bảo lãnh là tổ chức, cá nhân nước ngoài), ngoài các điều kiện trên, khách
hàng còn phải thực hiện đúng các quy định về quản lý vay và trả nợ nước ngoài, cho
16
vay và thu hồi nợ nước ngoài, quy định về quản lý ngoại hối và các quy định khác của
pháp luật.
1.2.4.2. Quy trình bảo lãnh
Trình tự và thủ tục bảo lãnh trong một nghiệp vụ bảo lãnh cũng có nhiều điểm
tương tự như trong nghiệp vụ cho vay, như tiếp nhận hồ sơ, thẩm định khách hàng; ký
hợp đồng; xử ký nợ quá hạn phát sinh khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
1.2.4.2.1. Khách hàng lập hồ sơ và đề nghị bảo lãnh
Trong hồ sơ gồm có: Hồ sơ pháp lý; Giấy đề nghị bảo lãnh; Báo cáo tài chính, báo
cáo về tình hình sản xuất kinh doanh và các thông tin khác; Hồ sơ tài sản bảo đảm
nghĩa vụ bảo lãnh theo quy định.
1.2.4.2.2. Ngân hàng thẩm định hồ sơ và ra quyết định bảo lãnh
Nhận được hồ sơ xin bảo lãnh của khách hàng, ngân hàng tiến hành thẩm định hồ
sơ đó, chủ yếu là thẩm định các điều kiện bảo lãnh của khách hàng (đã hội tụ đầy đủ và
thoả mãn quy chế về nghiệp vụ bảo lãnh chưa, tài sản bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh đã đủ

tiêu chuẩn chưa). Sau khi thẩm định hồ sơ, ngân hàng đưa ra quyết định bảo lãnh hay
không bảo lãnh (nếu không bảo lãnh, ngân hàng phải trả lời bằng văn bản cho khách
hàng và nói rõ lý do). Khi ra quyết định chấp thuận bảo lãnh, ngân hàng phải cân nhắc
lựa chọn hình thức và nội dung bảo lãnh thích hợp nhất với yêu cầu của khách hàng và
khả năng, kinh nghiệm nghiệp vụ của ngân hàng.
1.2.4.2.3. Ngân hàng ký hợp đồng bảo lãnh với khách hàng, phát hành thư bảo
lãnh
Khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh cho khách hàng, ngân hàng phải phát hành cam
kết bảo lãnh. Khách hàng nhận bản cam kết bảo lãnh do ngân hàng phát hành. Ngân
hàng kiểm tra theo dõi chặt chẽ tiến trình bảo lãnh nhằm phòng vệ rủi ro, đôn đốc
khách hàng thực hiện các nghĩa vụ được bảo lãnh. Cam kết bảo lãnh là văn bản bảo
lãnh của TCTD, bao gồm thư bảo lãnh và hợp đồng bảo lãnh.
Thư bảo lãnh là cam kết đơn phương bằng văn bản của TCTD về việc TCTD sẽ
thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
Hợp đồng bảo lãnh là thoả thuận bằng văn bản giữa TCTD và bên nhận bảo lãnh
hoặc giữa TCTD, bên nhận bảo lãnh, khách hàng và các bên liên quan (nếu có) về việc
TCTD sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho ngân hàng khi khách hàng không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
Ngoài hai hình thức trên, theo quy định tại Khoản 1, Điều 11 của Quy chế mới thì
TCTD còn có thể phát hành cam kết bảo lãnh bằng các hình thức khác pháp luật không
17
cấm và phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, theo quy định này thì dù TCTD phát
hành cam kết bảo lãnh bằng hình thức nào thì đều phải được thể hiện bằng văn bản.
So với Quy chế cũ thì quy định trên đã có một thay đổi khá quan trọng về mặt
khái niệm. Theo Quy chế cũ, hợp đồng bảo lãnh được hiểu là văn bản thoả thuận giữa
TCTD với khách hàng về quỳên lợi và nghĩa vụ của các bên trong việc bảo lãnh và
hoàn trả. Theo Quy chế mới, văn bản thoả thuận này được gọi là hợp đồng cấp bảo
lãnh. Hợp đồng cấp bảo lãnh do bên bảo lãnh, khách hàng và các bên có liên quan (nếu
có) thoả thuận các nội dung về số tiền, thời hạn bảo lãnh và phí bảo lãnh, mục đích bảo

lãnh, điều kiện thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, việc hoàn trả của khách hàng sau khi
TCTD thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh… TCTD và khách hàng cũng có thể thoả thuận áp
dụng hoặc không áp dụng các biện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ hoàn trả cuả khách
hàng đối với TCTD bảo lãnh thông qua các biện pháp như: ký quỹ,cầm cố tài sản, thế
chấp tài sản; bảo lãnh của bên thứ ba và các biện pháp bảo đảm khác theo quy định của
pháp luật.
Nội dung bảo lãnh là các nội dung được thể hiện trong cam kết bảo lãnh, bao
gồm: ngày phát hành bảo lãnh, số tiền bảo lãnh, hình thức và các điều kiện thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh, thời hạn bảo lãnh…
Thực hiện cam kết bảo lãnh ngân hàng: Trong thời hạn bảo lãnh, nếu khách hàng
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ với bên nhận bảo
lãnh thì TCTD có trách nhiệm thực hiện đúng cam kết bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh.
Khi cam kết bảo lãnh được thực hiện thì số tiền bảo lãnh trở thành một khoản vay thực
sự, TCTD mặc nhiên trở thành chủ nợ và có quyền đòi bồi hoàn từ phía khách hàng.
Khách hàng có nghĩa vụ hoàn trả ngay số tiền TCTD đã trả thay. Trong trường hợp
chưa hoàn trả được cho TCTD, khách hàng phải chịu lãi suất phạt đối với khoản nợ
TCTD đã trả thay, tối đa bằng 150% lãi suất trong hợp đồng vay vốn giữa khách hàng
và bên nhận bảo lãnh (trường hợp bảo lãnh vay vốn) hoặc lãi suất cho vay thông
thường mà TCTD đang áp dụng, kể từ ngày TCTD thực hiện trả thay.
1.2.4.2.4. Khách hàng thanh toán phí bảo lãnh và các khoản khác (nếu có) theo
thoả thuận trong hợp đồng bảo lãnh
Phí bảo lãnh được tính cho mỗi khoản bảo lãnh theo công thức:
Phí bảo lãnh = Số dư bảo lãnh * Mức phí bảo lãnh * Thời gian bảo lãnh
Trong đó : + Số dư bảo lãnh: là số tiền đang còn được bảo lãnh
+ Thời gian bảo lãnh: là thời gian ngân hàng chịu trách nhiệm bảo lãnh
về số dư bảo lãnh và có nghĩa vụ thanh toán theo bảo lãnh đã cấp.
+ Mức phí bảo lãnh: Theo Quy chế cũ thì mức phí bảo lãnh do TCTD
và khách hàng thoả thuận nhưng không vượt qúa 2%/năm tính trên số tiền còn đang
được bảo lãnh ( mức phí này chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng). Ngoài ra, khách hàng
18

còn phải thanh toán cho TCTD các chi phí hợp lý khác phát sinh liên quan đến giao
dịch bảo lãnh khi các bên có thoả thuận bằng văn bản. Để thực hiện tự do hoá các quan
hệ kinh tế, dân sự, Quy chế mới không quy định mức tối đa của phí bảo lãnh mà để
TCTD và khách hàng thoả thuận trên cơ sở TCTD tự cân nhắc chi phí và mức độ rủi ro
khi thực hiện bảo lãnh để đưa ra mức phí bảo lãnh và được khách hàng chấp nhận
thanh toán.
1.2.4.2.5. Tất toán bảo lãnh
Theo quy định tại Điều 20 của Quy chế mới, nghĩa vụ bảo lãnh của TCTD chấm
dứt trong các trường hợp:
- Khách hàng đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh.
- TCTD đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo cam kết bảo lãnh.
- Việc bảo lãnh được huỷ bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác.
- Thời hạn của bảo lãnh đã hết.
- Bên nhận bảo lãnh đồng ý miễn thực hiện nghiã vụ bảo lãnh cho bên bảo lãnh
hoặc nghĩa vụ bảo lãnh chấm dứt theo quy định của pháp luật.
- Chấm dứt theo thoả thuận của các bên.
Sau khi thư bảo lãnh hết thời hạn hiệu lực hoặc không có thông báo hoặc xác nhận
của bên nhận bảo lãnh về việc hoàn thành nghĩa vụ liên quan đến bảo lãnh, ngân hàng
tiến hành tất toán bảo lãnh. Trường hợp bên được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ đã đựơc
bảo lãnh, bên bảo lãnh phải trả thay và tự động hạch toán nợ vay bắt buộc đối với số
tiền trả nợ thay theo lãi suất nợ quá hạn của bên được bảo lãnh đối với bên bảo lãnh và
áp dụng các biện pháp cần thiết để thu hồi nợ như: phát mại tài sản bảo đảm, trích tài
khoản của bên được bảo lãnh (nếu có thoả thuận), khởi kiện ra cơ quan pháp luật và
các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm khác theo quy định của pháp luât.
Bên được bảo lãnh có trách nhiệm phối hợp thực hiện và chấp hành các biện pháp
xử lý của tổ chức tín dụng bảo lãnh, thực hiện bồi hoàn cho TCTD trong trường hợp
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ được bảo lãnh.
1.3. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN DỊCH VỤ BẢO LÃNH CỦA NHTM
1.3.1. Uy tín của ngân hàng
Bảo lãnh từ một ngân hàng có uy tín giúp tăng độ tin cậy của khách hàng với đối

tác của mình qua đó làm cho triển vọng thành công của giao dịch mua bán, vay vốn…
trở nên chắc chắn hơn. Các ngân hàng lớn thường có uy tín hơn trong nghiệp vụ bảo
lãnh, chẳng hạn bảo lãnh vay vốn thường được sử dụng trong các giao dịch vay vốn mà
quy mô khoản vay lớn, thời hạn vay dài và vay cùa nước ngoài; bảo lãnh dự thầu sẽ
giúp cho khách hàng có đủ điều kiện tham gia vào một giao dịch đấu thầu mà việc phải
có bảo lãnh của ngân hàng là bắt buộc theo yêu cầu của chủ thầu.
19
Các ngân hàng có uy tín sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu được bảo lãnh của khách
hàng. Các ngân hàng này có thể linh hoạt trong việc thương lượng về điều kiện bảo
lãnh sao cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng (bao gồm cả phí dịch vụ). Do đó,
khách hàng có thể yêu cầu gia hạn, sửa đổi nội dung hoặc huỷ bảo lãnh khi có nhu cầu.
Các ngân hàng này thường có đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm, sẵn sàng hướng dẫn
khách hàng lựa chọn DVBL cũng như hoàn tất thủ tục với khách hàng.
Trường hợp khách hàng bị phạt do không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ
trong hợp đồng, các ngân hàng lớn có uy tín sẽ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết
và được đối tác tin tưởng hơn.
1.3.2. Tài sản đảm bảo của khách hàng
Trong nhiều trường hợp, ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có tài sản đảm bảo
khi nhận tín dụng. Lý do là khách hàng luôn phải đối đầu với những rủi ro trong kinh
doanh, có thể mất khả năng trả nợ, gây cho ngân hàng những tổn thất lớn. Chính vì
vậy, trừ những khách hàng có uy tín cao, nhiều khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi
nhận tín dụng của ngân hàng. Yêu cầu phải có tài sản đảm bảo, ngân hàng muốn có
nguồn trả nợ thứ hai khi nguồn thứ nhất là thu nhập từ hoạt động kinh doanh không
đảm bảo trả nợ.
Các tài sản đảm bảo thường gồm: ký quỹ bằng tiền; cầm cố bằng các giấy tờ có
giá (sổ tiết kiệm, trái phiếu, công trái, kỳ phiếu, cổ phiếu… ), cầm cố bằng động sản (ô
tô, xe máy, máy móc, thiết bị… ), thế chấp bằng bất động sản (quyền sử dụng đất và
quyền sử hữu các công trình trên đất), thế chấp, cầm cố bằng các tài sản khác do ngân
hàng và doanh nghiệp thoả thuận phù hợp với quy định của pháp luật và quy định của
ngân hàng.

1.3.3. Pháp luật
Hệ thống pháp luật đồng bộ, thông thoáng; các quy định, chính sách rõ ràng, cụ
thể sẽ giúp cho bảo lãnh phát huy hết tác dụng của nó. Các nhà làm chính sách cần
nghiên cứu kịp thời, để sớm trình cấp thẩm quyền ban hành một số chính sách đồng bộ,
chặt chẽ, phù hợp với nhu cầu phát triển và phù hợp với môi trường kinh tế pháp lý và
hành chính.
Nếu các văn bản pháp quy thường xuyên thay đổi; các văn bản của các bộ, các
ngành có sự chồng chéo, không đồng bộ sẽ làm giảm hiệu quả của loại hình dịch vụ
này.
1.3.4. Trình độ cán bộ
Công nghệ ngân hàng cũng như trình độ đội ngũ cán bộ có ảnh hưởng lớn đến
hoạt động của ngân hàng. Một ngân hàng có công nghệ hiện đại, đội ngũ cán bộ có
trình độ cao, thành thạo về nghiệp vụ bảo lãnh, tinh thông về ngoại ngữ,… sẽ đáp ứng
20
được tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng. Do vậy thường được khách hàng
tin tưởng, có thể sẽ sử dụng nhiều hơn các loại hình dịch vụ khác của ngân hàng. Ngoài
ra còn giảm thiểu các rủi ro phát sinh trong quá trình bảo lãnh.
1.3.5. Khả năng kiểm tra, giám sát
Do phải đối mặt với rất nhiều rủi ro nên để đảm bảo an toàn, các cán bộ tín dụng
phải thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn cũng như hoạt động của khách hàng.
Trường hợp phát hiện khách hàng sử dụng vốn sai mục đích thì có thể xử lý ngay, kịp
thời thu hồi vốn để hoàn trả cho người cho vay. Ngoài ra ngân hàng có thể tư vấn cho
khách hàng để cùng giải quyết khó khăn phát sinh, thúc đẩy và giám sát chặt chẽ khách
hàng trong việc nộp tiền vào tài khoản tiền gửi tại ngân hàng để có nguồn trả nợ.
Ngoài các nhân tố chính trên, còn có một số nhân tố khác cũng tác động đến
DVBL của ngân hàng như: tình hình hoạt động của doanh nghiệp, nhu cầu của khách
hàng, yêu cầu của người cho vay…
21
PHẦN 2
THỰC TRẠNG VỀ DỊCH VỤ BẢO LÃNH CỦA

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
2.1. THỰC TRẠNG VỀ DVBL CỦA NHTM VIỆT NAM
Các ngân hàng lớn ở Việt nam thường có uy tín trong nghiệp vụ bảo lãnh như:
Ngân hàng Ngoại thương Vietcombank, Ngân hàng Công thương Incombank, ngân
hàng Đầu tư và Phát triển BIDV, ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Agribank, Techcombank… Chẳng hạn: Agribank bảo lãnh cho nhà máy sản xuất
đường Quảng Nam, Đà Nẵng với số tiền 2triệu USD vay của Ôxtrâylia; tái bảo lãnh
cho nhà máy sản xuất đường Kiên Giang, Biên Hoà với số tiền 2triệu USD của
Ôxtrâylia… Phần lớn các khoản vay của doanh nghiệp là các ngành sản xuất vật chất,
xây dựng cơ bản… giúp doanh nghiệp duy trì sản xuất, nhập được kỹ thuạt công nghệ
hiện đại, giảm giá thành, tăng tính cạnh tranh của hàng hoá… thúc đẩy tăng truởng
kinh tế. Tuy nhiên bên cạnh các ưu điểm cũng tồn tại nhiều nhược điểm như: các nhà
máy đường xi măng hoạt động sản xuất còn kém hiệu quả, không cạnh tranh được trên
thị truờng; nhiều máy móc thiết bị không sử dụng hết công suất, không đủ nguyên liệu
để sản xuất…
Techcombank, Incombank, Vietcombank… cung cấp cho khách hàng các loại
hình bảo lãnh đáp ứng được các đòi hỏi của bên thứ ba, qua đó thực hiện tốt nhất khả
năng kinh doanh cũng như trong các công việc khác, bao gồm các loại bảo lãnh sau:
(1) Cho cá nhân như cam kết thu xếp tài chính: Dùng trong sản phẩm cho vay du học
nước ngoài, trong đó các ngân hàng cam kết sẽ hỗ trợ cho khách hàng một khoản tài
chính để thanh toán chi phí phải trả cho con em đi du học nước ngoài. (2) Cho hộ kinh
doanh cá thể: bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo
lãnh hoàn tạm ứng. Lợi ích của khách hàng khi đựợc bảo lãnh từ các ngân hàng này là:
ngân hàng sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng, linh hoạt trong việc thương
lượng về điều kiện bảo lãnh sao cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng, khách hàng
có thể ra hạn, sửa đổi nội dung hoặc huỷ thư bảo lãnh khi có nhu cầu; thư bảo lãnh của
các ngân hàng này được nhiều ngân hàng và doanh nghiệp trong và ngoài nước chấp
nhận; bảo lãnh từ các ngân hàng này giúp tăng độ tin cậy của khách hàng với đối tác
của mình giúp cho các giao dịch có triển vọng hơn. Ngoài ra trong từng loại bảo lãnh,
22

khách hàng có những lợi ích riêng. Chẳng hạn trong bảo lãnh vay vốn, khách hàng có
thể vay vốn với quy mô lớn , thời gian vay dài; giúp cho khách hàng vay vốn trong các
giao dịch mà việc bảo lãnh vay vốn là bắt buộc. Trong bảo lãnh thanh toán, khách hàng
có thể mua bán trả chậm, chậm nộp thuế cho nhà nước trong thời hạn cho phép, các
hợp đồng thuê tài sản, đại lý tiêu thụ, cung cấp dịch vụ trả tiền sau…; ngân hàng sẽ
thanh toán cho người bán trong trường hợp người mua không thanh toán hoặc thanh
toán không đầy đủ đúng hạn. Trong bảo lãnh dự thầu, giúp cho khách hàng có đủ điều
kiện để tham gia vào một giao dịch đấu thầu mà bắt buộc phải có bảo lãnh của ngân
hàng; trường hợp khách hàng bị phạt do vi phạm quy định dự thầu mà không nộp hoặc
nộp không đầy đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì ngân hàng thực hiện nghĩa vụ cam
kết; chuyên viên khách hàng sẵn sàng hướng dẫn khách hàng lựa chọn DVBL cũng
như hoàn tất thủ tục với ngân hàng. Trong bảo lãnh chất luợng sản phẩm, ngân hàng
cam kết chịu toàn bộ trách nhiệm của khách hàng đối với các cam kết về chất lượng
sản phẩm nêu trong hợp đồng mua bán, nếu người bán bị phạt do không thực hiện đúng
các thoả thuận trong hợp đồng về chất lượng sản phẩm với người mua mà không nộp
hoặc nộp không đầy đủ tiền phạt cho bên nhận bảo lãnh thì ngân hàng sẽ thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh được cam kết…
Các NHTM cổ phần ở Việt Nam cũng ngày càng có uy tín hơn trong nghiệp vụ
bảo lãnh, chẳng hạn như NHTMCP Á Châu ACB có mức phí bảo lãnh như sau:
STT Giao dịch Mức phí Mức phí tối
thiểu
Mức phí tối
đa
1. Phát hành thư bảo lãnh (phí tính trọn tháng)
- Ký quỹ 100% 0,035% / tháng 150.000đ
- Bảo đảm bằng sổ tiết kiệm ACB
0,08% / tháng 200.000đ
- Bảo đảm bằng tài sản khác 0,12% / tháng 300.000đ
2. Tu chỉnh thư bảo lãnh
- Tu chỉnh tăng số tiền bảo lãnh

Như phát hành thư bảo lãnh
- Tu chỉnh thời hạn bảo lãnh
Như phát hành thư bảo lãnh
- Tu chỉnh khác
100.000đ/ lần
3. Phát hành thư bảo lãnh bằng 2 ngôn ngữ
(Việt + Anh)
Như phát hành thư bảo lãnh + 100.000đ
4. Phát hành thư bảo lãnh theo mẫu của khách
hàng (được ACB chấp thuận)
Như phát hành thư bảo lãnh + 100.000đ

23
Trong các lĩnh vực mà ngân hàng bảo lãnh thì lĩnh vực xây dựng cơ bản còn nhiều
bất cập. Đánh giá thực trạng bảo lãnh ngân hàng hiện nay trong lĩnh vực xây dựng cơ
bản, ta thấy cần chú ý đến những vấn đề sau:
- Đối với bảo lãnh dự thầu: Sau khi công trình được cấp có thẩm quyền phê duyệt
hồ sơ mời thầu đối với công trình đấu thầu, chủ đầu tư lập thư mời thầu gửi các nhà
thầu liên quan. Đến thời gian quy định, nhà thầu phải gửi hồ sơ dự thầu để tham gia
đấu thầu cho chủ đầu tư kèm theo thư bảo lãnh dự thầu của ngân hàng. Trong thư bảo
lãnh, ngân hàng phải ghi rõ tên nhà thầu, tên công trình, số tiền bảo lãnh, thời gian hiệu
lực, nội dung bảo lãnh và lãnh đạo ngân hàng ký tên đóng dấu vào thư bảo lãnh, với số
tiền bảo lãnh thường là 1%. Mục đích bảo lãnh là cam kết của ngân hàng về các sai
phạm của nhà thầu như phá thầu trong quá trình đấu thầu, không thực hiện hợp đồng
khi trúng thầu gây thiệt hại cho chủ đầu tư, không nộp bảo lãnh thực hiện hợp đồng
theo quy định… Nếu những vi phạm trên xảy ra, ngân hàng sẽ chịu trách nhiệm trả cho
chủ đầu tư tối đa là số tiền bảo lãnh để đền bù thiệt hại do nhà thầu gây ra, khi có văn
bản yêu cầu của chủ đầu tư.
Việc ngân hàng lập thư bảo lãnh dự thầu để nhà thầu được tham gia đấu thầu xây
dựng công trình là rất cần thiết, nhằm ràng buộc nhà thầu về mặt kinh tế, phải tham gia

đấu thầu thực sự. Nếu nhà thầu không tuân thủ theo quy chế đấu thầu, sẽ phải mất
khoản tiền mà ngân hàng đã đứng ra bảo lãnh. Khi trúng thầu (được cấp thẩm quyền
phê duyệt trúng thầu) thì ngân hàng lại tiếp tục lập thư bảo lãnh hợp đồng. Lúc đó, thư
bảo lãnh dự thầu sẽ hết hiệu lực. Do việc quy định mức bảo lãnh dự thầu và việc thực
hiện mức bảo lãnh dự thầu hiện nay thường là 1% (tương đối thấp) nên một số nhà thầu
chấp nhận ứng ra số tiền trên để thực hiện tham gia đấu thầu không lành mạnh. Cụ thể
là:
+ Tham gia đấu thầu để tạo ra sự cạnh tranh giả tạo, nhằm kiếm lợi nhuận thông
qua thỏa thuận với nhà thầu thực sự tham gia đấu thầu.
+ Sẵn sàng đứng tên đấu thầu giúp nhà thầu nào đó thắng thầu với giá thầu thấp.
- Đối với bảo lãnh hợp đồng: Khi công trình được phê duyệt kết quả trúng thầu
cho nhà thầu nào đó đạt điểm kỹ thuật cao nhất và giá bỏ thầu thấp nhất thì ngân hàng
sẽ làm thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng gửi chủ đầu tư, để làm thủ tục ký hợp đồng thi
công.
Thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng phải ghi rõ quyết định phê duyệt tên đơn vị
trúng thầu, công trình trúng thầu, số tiền bảo lãnh, thời gian bảo lãnh. Số tiền bảo lãnh
thường là 5% giá trị trúng thầu. Mục đích bảo lãnh là cam kết của ngân hàng về các sai
phạm của nhà thầu, nếu nhà thầu vi phạm, ngân hàng sẽ trả cho chủ đầu tư tối đa là số
tiền bảo lãnh để đền bù thiệt hại do nhà thầu gây ra trong quá trình thực hiện hợp đồng,
khi có văn bản yêu cầu của chủ đầu tư.
24
Việc ngân hàng lập thư bảo lãnh hợp đồng để ràng buộc trách nhiệm của nhà thầu
về mặt kinh tế, phải thực hiện theo đúng hợp đồng thi công xây dựng đã ký với chủ đầu
tư. Nếu không thực hiện đúng hợp đồng, ngoại trừ những lý do khách quan, thì nhà
thầu sẽ mất số tiền ngân hàng bảo lãnh. Tuy nhiên, theo quy chế đấu thầu, khi hợp
đồng thi công được ký kết, chủ đầu tư sẽ chuyển cho nhà thầu ứng trước một số tiền
thưởng thường là 20% giá trị trúng thầu.
Vấn đề phát sinh từ chỗ này: Xét về mặt tài chính, khi trúng thầu, nhà thầu chỉ cần
ngân hàng bảo lãnh 5% nhưng được ứng 20% giá trị trúng thầu. Nếu nhà thầu không
quyết tâm thực hiện công trình, sau khi được ứng 20% rồi không thực hiện hợp đồng,

thì chủ đầu tư sẽ bị thiệt hại 15%. Nếu giải quyết được số tiền này thì cũng mất nhiều
thời gian, có khi bị thiệt hại mà công trình buộc phải dừng lại chờ xử lý.
- Đối với bảo lãnh chất lượng công trình: Khi công trình thi công hoàn thành,
phải qua giai đoạn bảo hành, nghĩa là trong thời gian nhất định, nếu công trình xảy ra
sự cố, hư hỏng, xuống cấp thì nhà thầu phải bỏ ra chi phí để sửa chữa, hoàn thiện. Thời
gian bảo hành, tùy theo qui mô công trình mà dài ngắn khác nhau, nhưng thường là 1
năm. Như vậy, để đảm bảo cho nhà thầu bỏ chi phí ra sửa chữa trong thời gian bảo
hành, chủ đầu tư phải ràng buộc nhà thầu bằng 1 trong 2 cách:
+ Thanh toán cho nhà thầu 90-95% giá trị công trình.
+ Thanh toán cho nhà thầu 100% giá trị công trình nhưng với điều kiện phải có
bảo lãnh của ngân hàng về chất lượng công trình khoảng 5-10% giá trị công trình.
Trong thời gian bảo hành nếu chất lượng công trình không đảm bảo, nhà thầu không
sửa chữa thì chủ đầu tư sẽ dùng số tiền 5-10% đó để bù đắp chi phí sửa chữa.
Như vậy, việc bảo lãnh bảo hành là nhằm buộc nhà thầu phải thi công đảm bảo
chất lượng công trình. Mặc dù quá trình thi công có đơn vị giám sát nhưng nếu nhà
thầu không tự giác, không vì uy tín cá nhân mà chạy theo lợi nhuận, sẽ không tránh
khỏi ăn bớt vật tư, làm dối, làm không đúng qui trình kết cấu, sử dụng vật tư không
đồng bộ… dẫn tới chất lượng công trình giảm, dễ bị hư hỏng…
Tuy nhiên, thời gian bảo hành một năm là chưa phù hợp, vì tuổi thọ một số công
trình rất lớn, nên trong vòng một năm chưa thể phát hiện, đánh giá được chất lượng
công trình. Ngoài ra, với mức bảo lãnh từ 5 - 10% thì chỉ đủ để sửa chữa những hư
hỏng nhỏ. Nếu hư hỏng lớn, chi phí vượt quá tỷ lệ nói trên, thì chủ đầu tư cũng rất khó
buộc nhà thầu bỏ ra thêm chi phí để sửa chữa như đã cam kết.
Trên cơ sở thực trạng và các hạn chế của các loại hình bảo lãnh của ngân hàng
trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, nhiều người đưa ra một số kiến nghị như sau:
+ Nâng mức bảo lãnh dự thầu khoảng 1% lên 10% nhằm chọn lọc những nhà thầu
thực sự muốn tham gia đấu thầu, hạn chế những nhà thầu “giả”.
+ Đối với bảo lãnh hợp đồng, tỷ lệ bảo lãnh thực hiện hợp đồng của ngân hàng
phải tương đương với tỷ lệ vốn ứng trước của nhà đầu tư, sau khi ký hợp đồng. Quá
25

×