Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

THỰC TRẠNG VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.71 KB, 34 trang )

THỰC TRẠNG VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG SỨC LAO ĐỘNG Ở HẢI PHÒNG
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Hải Phòng tác động đến
vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động.
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế -xã hội của Hải Phòng.
2.1.1.1. Đặc điểm tự nhiên:
- Vị trí địa lý:
Hải Phòng là một thành phố ven biển, thuộc vùng đồng bằng sông Hồng
và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội 102 Km về phía đông
nam. Về ranh giới hành chính, Hải Phòng tiếp giáp với Quảng Ninh ở phía Bắc;
Hải Dương ở phía tây; Thái bình ở phía nam và với Biển Đông ở phía đông.
Thành phố Hải Phòng có diện tích 1.519,2 km
2
, dân số 1.793.038 người, mật độ
dân số 1.180 người/km
2
và mức tăng dân số bình quân là 1,1%/năm. Thành phố
có 14 đơn vị hành chính cấp huyện và 218 đơn vị hành chính cấp xã; trong đó
gồm: 5 quận nội thành, 1 thị xã, 5 huyện ngoại thành, 2 huyện đảo, 152 xã, 57
phường, 9 thị trấn.
Hải Phòng là một trong 3 cực tam giác tăng trưởng kinh tế năng động
nhất vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, lại nằm trong khu vực 2 hành lang, 1 vành
đai kinh tế của 6 quốc gia thuộc tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (GMS), nên
Hải Phòng có nhiều thuận lợi trong việc liên kết trao đổi, giao lưu hàng hóa,
công nghệ, lao động kỹ thuật, văn hóa xã hội để phát triển.
- Khí hậu:
Hải Phòng nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa vùng Duyên Hải
Bắc Bộ. Khí hậu Hải Phòng chia 2 mùa rõ rệt: mùa nóng (mưa) từ tháng 5 đến
tháng 10; mùa lạnh (khô) từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình
năm từ 20 đến 23 độ C, chênh lệch nhiệt độ giữa nóng nhất và lạnh nhất có thể
tới 12,9độ C. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1600-1800mm, tập trung


tới 85% vào mùa mưa. Đặc điểm về khí hậu này là điều kiện thuận lợi cho cây
trồng, vật nuôi, nhất là một số sản phẩm được coi là thế mạnh cho chế biến bảo
quản và xuất khẩu của Hải Phòng, như rau quả thực phẩm, hoa cây cảnh, lúa
gạo, cây công nghiệp, lợn và gia cầm, nuôi trồng thủy sản.
- Tài nguyên đất:
Hải Phòng nằm trong vùng hạ lưu sông Hồng và sông Thái Bình, có địa
hình biến đổi, không bằng phẳng và bị chia cắt bởi hệ thống sông ngòi. Hải
Phòng có diện tích đất tự nhiên 1519,2Km2, trong đó đất nông nghiệp
866,8Km2. Nếu chia theo địa hình thì đất đồng bằng chiếm 69%, đất đồi núi
chiếm 15%, còn lại đất đồi ven sông biển là 16%. Hải Phòng có trên 100.000
km2 thềm lục địa.
- Tài nguyên nước:
Hải Phòng có mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, mật độ trung bình từ 0,6-
0,8km/km2. Thành phố có 6 sông chính là: Sông Đá Bạch- Bạch Đằng dài hơn
32 km, đổ ra biển ở cửa Nam Triệu; Sông Cấm dài trên 30 km, đổ ra biển ở Cửa
Cấm; Sông Lạch Tray dài 45 km; đổ ra biển bằng cửa Lạch Tray; Sông Thái
Bình dài 35 km, đổ ra biển qua cửa sông Thái Bình; Sông Văn Úc; Sông Hóa, là
ranh giới giữa Hải Phòng và Thái Bình. Hệ thống sông có ý nghĩa rất lớn cung
cấp nước cho sinh hoạt, sản xuất và giao thông đường thủy.
- Tài nguyên thủy sản:
Vùng biển của Hải Phòng nằm ở vị trí trung tâm vịnh Bắc Bộ, tiếp giáp
với 3 ngư trường lớn, nên việc khai thác tại đây rất thuận lợi. Ngư trường Bạch
Long Vĩ (diện tích 1500 hải lý vuông), độ sâu 35-55m, nơi đây là bãi cá đáy và
cá nổi tầng trên. Đây là khu vực sản xuất của nghề khơi với các nghề lưới vây,
lưới kéo, lưới rê và nghề câu. Ngư trường Long Châu-Ba Đạt (diện tích 400 hải
lý vuông) độ sâu 25-35m, phân bố ở phía nam các đảo Long Châu đối với loại
cá trích ở tầng trên, cá hồng, cá phèn ở tầng đáy. Ngư trường Cát Bà (diện tích
450 hải lý vuông) có triển vọng về khai thác tôm. Theo đánh giá của Viện
nghiên cứu Hải sản Hải Phòng, vùng biển Hải Phòng có 135 loài thực vật nổi
tiếng, 138 loại rong, 23 loại cây nước mặn, 500 loại động vật đáy vùng triều,

160 loài san hô, 189 loài cá, tôm. Tổng trữ lượng cá vùng vịnh Bắc Bộ khoảng
680.000 tấn, trong đó 390.000 tấn cá nổi và 290.000 tấn cá đáy.
- Tài nguyên khoáng sản:
+ Đá vôi: Có ở nhiều nơi (Tràng Kênh, Cát Bà, Phi Liệt, Phà Đụn ...)
nhưng tập trung chủ yếu ở Tràng Kênh, trữ lượng hơn 185 triệu tấn, Puzơlan có
ở Pháp Cổ với trữ lượng trên 71 triệu tấn. Trữ lượng và chất lượng đa vôi Hải
Phòng cho phép phát triển công nghiệp sản xuất xi măng với quy mô khoảng 4-
5 triệu tấn/năm. Đá vôi là khoáng sản quan trọng có lợi thế đáng kể về sản xuất
vật liệu xây dựng của Hải Phòng so với nhiều địa phương khác trong vùng.
- Tài nguyên du lịch:
Hải Phòng có nhiều thắng cảnh đẹp như: Bán đảo Đồ Sơn, đảo Cát Bà,
Bạch Long Vĩ và có nhiều nơi thuận tiện cho việc nghỉ dưỡng như núi Đèo
(huyện Thủy Nguyên), núi Đối (huyện Kiến Thụy), núi Voi (huyên An Lão),
núi Thiên Văn (quận Kiến An). Hệ thống các điểm du lịch của Hải Phòng gắn
liền với Hạ Long của Quảng Ninh và Đồng Châu-Thái Bình, tạo thành các
tuyến du lịch ven biển đẹp, đa dạng có sức hấp dẫn du khách trong và ngoài
nước.
Cùng với các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, Hải Phòng còn có nhiều
làng nghề truyền thống như: đúc đồng, sơn mài, điêu khắc, thêu ... cũng có sức
thu hút thăm quan, du lịch.
2.1.1.2. Đặc điểm kinh tế:
Kinh tế Hải Phòng giai đoạn 2000-2005 đạt mức tăng trưởng khá cao;
tổng giá trị GDP (tính theo giá cố định năm 1994) tăng từ 8313,7 tỷ đồng năm
2000 lên 14071,9 tỷ đồng, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 11,1%/năm, cao
hơn mức bình quân chung của cả nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
giảm tỷ trọng nông, lâm, thủy sản; tăng tỷ trọng công nghiệp-xây dựng, dịch vụ.
Tổng sản phẩm (GDP) năm 2005 tăng gấp 1,7 lần so với năm 2000, trong
đó: ngành nông, lâm, thủy sản tăng gấp 1,26 lần; công nghiệp-xây dựng tăng
1,96 lần, dịch vụ tăng 1,63 lần.
Những năm gần đây, thu ngân sách trên địa bàn thành phố có xu hướng

tăng khá; năm 2000 tổng thu ngân sách trên địa bàn là: 4.591,5 tỷ đồng, năm
2005 đạt 11.200 tỷ đồng (tăng 2,44 lần), tốc độ tăng bình quân là 19,5%/năm.
2.1.1.3. Đặc điểm về xã hội:
- Dân số Hải Phòng năm 2005 có: 1.793.038 người, chiếm 2,1% dân số
cả nước và 13,1% dân số vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Tốc độ tăng dân số
bình quân 1,1%/năm, mật độ dân số 1.180 người/Km2. dự báo đến năm 2010,
dân số Hải Phòng sẽ là: 1,9 triệu người và năm 2020 là 2,1 triệu người.
- Lao động: Năm 2005 có 970.200 người, trong đó 40,4% dân số sống ở
khu vực thành thị, 59,6% dân số sống ở khu vực nông thôn, 50,8% dân số hoạt
động trong nông nghiệp và 49,2 dân số hoạt động trong khu vực kinh tế phi
nông nghiệp. Hàng năm, nguồn lao động của Hải Phòng được bổ sung hơn 2
vạn lao động.
Về chất lượng dân số và lao động, Hải Phòng được đánh giá là khá hơn
so với mức trung bình của cả nước, trí lực của dân số cao, tỷ lệ huy động học
sinh các cấp đạt 78,2% (chỉ sau Hà Nội và Đà Nẵng). Tỷ lệ biết chữ của người
lớn 95,4%, chỉ xếp sau Hà Nội, Thể lực của dân số tốt, tuổi thọ trung bình 73,4
tuổi. Mức sống người dân ngày càng được cải thiện, năm 2005 đạt trung bình 11
triệu đồng trên một đầu người, cao hơn mức trung bình của cả nước; tỷ lệ hộ
nghèo là: 2,3%.
Tóm lại, Những đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội ở Hải
Phòng, có tác động mạnh mẽ đến thị trường sức lao động của Hải Phòng, đòi
hỏi thị trường sức lao động phải phát triển cả về số lượng và chất lượng, quy
mô, cơ cấu ... Do đó, chính quyền thành phố Hải Phòng cần phải nghiên cứu,
phân tích, đánh giá thị trường sức lao động trên địa bàn một cách đầy đủ, đúng
đắn, để có phương hướng và những giải pháp hiệu quả để phát triển thị trường
sức lao động trên địa bàn thành phố, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2.1.2. Tình hình thị trường sức lao động ở Hải Phòng những năm gần
đây.
2.1.2.1. Tình hình cung sức lao động.

*. Về số lượng lao động.
Tính đến ngày 31/12/2005, dân số trên địa bàn thành phố là 1.793.038
người; bao gồm 49,3% dân số là nữ, 50,7% dân số là nam; 40,4% dân số sống ở
khu vực thành thị, 59,6% dân số sống ở khu vực nông thôn; 50,8% dân số hoạt
động trong nông nghiệp và 49,2 dân số hoạt động trong khu vực kinh tế phi
nông nghiệp; mật độ dân số thành phố là 1.180 người/km
2
, tăng 5,5% so với mật
độ dân số thành phố vào năm 2000 (1.119 người/ km
2
); dân số thành phố có
mức tăng tương đối đều qua các năm, năm sau cao hơn năm trước.
Tốc độ tăng dân số của thành phố chủ yếu là tăng tự nhiên, trung bình
trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2005 tốc độ tăng này là 1,14%/năm. Đối
với bộ phận dân số tăng cơ học của thành phố chủ yếu là dân số trong độ tuổi
lao động, di cư từ các tỉnh lân cận đến Hải Phòng nhằm mục đích tìm kiếm việc
làm.
Số lao động ngoại tỉnh nhập cư vào thành phố dẫn đến sự thay đổi trong
vấn đề nguồn lao động của thành phố. Với những người lao động nhập cư có
trình độ tay nghề thấp, họ làm việc và tìm kiếm việc làm chủ yếu ở các ngành
nghề may mặc, da giày, xây dựng và một bộ phận có tay nghề khá tìm kiếm việc
làm ở các khu chế xuất, khu công nghiệp của thành phố.
Khu vực nội thành có xu hướng tăng dân số nhanh hơn khu vực ngoại
thành; nguyên nhân là người dân từ khu vực ngoại thành di cư vào khu vực nội
thành để tìm kiếm việc làm và tìm đến nơi có điều kiện sống tốt hơn. Mặt khác,
do vấn đề chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp ở các địa bàn ven đô
và các huyện ngoại thành làm cho một bộ phận lớn người lao động ở đó không
còn tư liệu sản xuất (đất nông nghiệp) nên phải vào các quận nội thành để kiếm
sống.
Việc gia tăng dân số của thành phố đã tác động mạnh tới tổng cung của

thị trường sức lao động, tạo ra sức ép lớn về việc làm và các vấn đề xã hội khác
cho thành phố.
Biểu 2.1: Dân số, lực lượng lao động của thành phố giai đoạn từ năm
2001 đến năm 2005:
Chỉ tiêu Đơn vị
Thực hiện
2001 2002 2003 2004 2005
Dân số
1.000
người
1.723,
5
1.743,4 1.754,2 1.770,8 1.793,0
Lực lượng lao
động
1.000
người
891,2 906,3 935,1 958,0 970,2
Tỷ lệ lực lượng
lao động so với
dân số
% 51,71 51,98 53,31 54,10 54,11
Tổng số lao động
có việc làm
1.000
người
850,6 864,1 911,9 935,0 944,8
Lao động cần giải
quyết việc làm
1.000

người
40,6 42,2 23,2 23,0 25,4
Tỷ lệ lao động cần
giải quyết việc làm
% 4,56 4,66 2,48 2,40 2,62
so với người lực
lượng lao động
Tỷ lệ thất nghiệp
khu vực thành thị
% 3,21 7,13 6,96 6,19 5,78
(Nguồn: Niên giám thống kê thành phố Hải Phòng năm 2003, 2005; Thực trạng
Lao động – việc làm thành phố Hải Phòng từ năm 2001 đến 2005)
Đặc điểm cung lao động Hải Phòng có thể khái quát như sau:
- Cung lao động tăng khá nhanh qua các năm. Tốc độ tăng cung lao động lớn hơn tốc
độ tăng dân số và lớn hơn so với một số nước trong khu vực Đông Nam á và Châu á như:
Trung Quốc (tăng 1,5%/năm), Thái Lan (tăng 2,1%/năm).
- Số người bước vào tuổi lao động hàng năm cao, khoảng trên 20.000
người/năm và số lao động dôi dư, mất việc làm do chuyển đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp lớn.
- Nguồn lao động trẻ, phân bố không đều.
*. Về chất lượng cung sức lao động.
Lực lượng lao động của Hải Phòng tăng dần qua các năm, năm 2001 lao
động xã hội từ đủ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế thường xuyên là 891.199
người chiếm tỷ trọng 51,71% dân số, đến năm 2005 lao động xã hội từ đủ 15
tuổi trở lên hoạt động kinh tế thường xuyên là 970.220 người chiếm tỷ trọng
54,11% dân số. Điều này cho thấy lực lượng lao động có tốc độ cao hơn dân số
do đại bộ phận dân nhập cư là người trong độ tuổi lao động.
Lao động có trình độ văn hoá phổ thông và trình độ chuyên môn kỹ thuật
tăng dần qua các năm. Kết quả điều tra lao động-việc làm năm 2005, lực lượng
lao động có trình văn hoá phổ thông, trình độ chuyên môn kỹ thuật như sau:

Biểu 2.2: Trình độ văn hoá phổ thông:
Đơn vị: %
Trình độ học vấn Toàn thành phố Thành thị Nông thôn
2001 2005 2001 2005 2001 2005
- Chưa biết chữ và chưa
tốt nghiệp tiểu học
6,41 3,70 1,30 1,92 8,76 4,90
- Đã tốt nghiệp tiểu học 18,95 15,63 8,31 10,26 23,86 18,73
- Đã tốt nghiệp THCS 45,97 47,53 40,16 35,74 52,24 54,34
- Đã tốt nghiệp PTTH 28,68 33,03 50,23 52,08 15,14 18,94
(Nguồn: Thực trạng Lao động – Việc làm thành phố Hải Phòng năm 2005)
Kết quả trên cho thấy, trình độ văn hoá phổ thông nói chung của thành phố tiếp tục
được nâng cao, đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Tỷ lệ không biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu
học của lực lượng lao động thành phố đã giảm từ 6,41% năm 2001 xuống còn 3,70% năm 2005
(nông thôn giảm từ 8,76% xuống 4,90%). Tỷ lệ tốt nghiệp tiểu học giảm từ 18,95% năm 2001
xuống 15,63% năm 2005 (nông thôn giảm nhiều từ 23,86% xuống còn 18,73%). Lực lượng lao
động tốt nghiệp phổ thông cơ sở tăng qua các năm và khu vực nông thôn tăng nhanh hơn khu
vực thành thị.
Trình độ tốt nghiệp phổ thông trung học của lực lượng lao động có mức tăng cao nhất
so với các trình độ dưới (từ 28,68% năm 2001 lên 33,03% năm 2005) và tăng ở cả khu vực
thành thị và nông thôn. Đây là một lợi thế của thành phố, vì trình độ tốt nghiệp phổ thông trung
học là trình độ cơ bản để tiếp cận học nghề, học chuyên môn tiếp sau bậc học phổ thông, một
điều kiện thuận lợi để tham gia và đáp ứng yêu cầu của thị trường sức lao động.
Tuy nhiên, vẫn còn sự cách khá lớn về trình độ văn hoá phổ thông giữa thành thị và
nông thôn. Khu vực thành thị, cứ 100 người tham gia lực lượng lao động thì có 52 người đã tốt
nghiệp phổ thông, gấp 3 lần so với chỉ số này ở khu vực nông thôn.
Biểu 2.3: Trình độ chuyên môn kỹ thuật:
Đơn vị: %.
Trình độ chuyên môn kỹ thuật Toàn thành phố Thành thị Nông thôn
- Không có trình độ CMKT 57,50 39,76 67,73

- Đã qua đào tạo nghề và
tương đương
30,00 36,62 26,18
- Trung học chuyên nghiệp trở
lên
12,50 23,63 6,09
(Nguồn: Thực trạng Lao động – Việc làm thành phố Hải Phòng năm 2005)
Kết quả trên có thể đưa ra quan hệ về trình độ chuyên môn kỹ thuật của
lực lượng lao động năm 2005 là cứ 100 người thuộc lực lượng lao động thì có
58 người chưa qua đào tạo, 30 người đã qua đào tạo nghề, 12 người có trình độ
trung học chuyên nghiệp trở lên. Mối quan hệ 6-3-1 này là tương đối tích cực
trong điều kiện thị trường lao động hiện nay.
Lực lượng lao động ở khu vực thành thị có trình độ chuyên môn kỹ thuật
cao hơn ở khu vực nông thôn, đặc biệt là đội ngũ lao động có trình độ cao. Khu
vực thành thị, trong 100 người thuộc lực lượng lao động có 24 người có trình độ
cao, gấp 4 lần so với khu vực nông thôn. Đây là điều kiện thuận lợi để thành
phố thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá, nhưng cũng là thách thức lớn trong
vấn đề giải quyết việc làm cho lao động ở khu vực nông thôn.
Năm 2005 so với năm 2004, số người thuộc lực lượng lao động đã qua
đào tạo đã tăng cả tuyệt đối và tương đối. Riêng lực lượng lao động trong độ
tuổi lao động, năm 2004 có 337,9 nghìn người đã qua đào tạo, với tỷ lệ 37,42%,
năm 2005 là 411,3 nghìn người, với tỷ lệ 44,22%. Như vậy, về số lượng người
đã qua đào tạo, tăng thêm 73,4 nghìn người, tỷ lệ đã qua đào tạo tăng thêm
6,80%. Trong đó lao động nữ tăng thấp hơn nam, lao động nữ năm 2005 có
165,3 nghìn người đã qua đào tạo tăng thêm 4,7%. Các số liệu này nói lên công
tác đào tạo nghề của Hải Phòng đã có những kết quả cao trong thời gian ngắn.
*. Hạn chế của cung sức lao động:.
- Cung sức lao động lớn và tăng khá cao. Tuy chất lượng lao động ở mức
cao so với mặt bằng chung của cả nước, nhưng cơ cấu lao động qua đào tạo
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá

đất nước, thiếu lao động chất lượng cao cho các ngành mũi nhọn (công nghiệp
đóng tàu, phục vụ khu công nghiệp…).
- Tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo còn ở mức cao (57,5%). Một bộ phận
lao động kỹ thuật có kỹ năng yếu, thiếu thích nghi, thể lực kém, kỷ luật lao
động, tác phong làm việc công nghiệp cơ bản chưa tốt nên khả năng cạnh tranh
yếu.
2.1.2.2 Tình hình cầu sức lao động.
*. Quy mô cầu sức lao động.
Quy mô cầu về sức lao động có xu hướng tăng do chính sách phát triển
kinh tế nhiều thành phần và tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố cao. Số
người làm việc của Thành phố tăng đều qua các năm từ 2001 đến 2005 và đạt
gần 945 nghìn lao động năm 2005, chiếm 68,24% tổng số lao động xã hội. Cơ
cấu lao động chuyển dịch rõ nét theo hướng tăng lao động trong lĩnh vực
thương mại, dịch vụ và giảm lao động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp qua
các năm do quá trình đô thị hoá nhanh khu vực ngoại thành, đặc biệt là khu vực
ven đô thị.
Mặt khác, tốc độ tăng cầu sức lao động cao hơn tốc độ tăng cung lao
động (giai đoạn 2001-2005, cung lao động tăng 1,77%/năm, trong khi cầu lao
động tăng 2,22%/năm), dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp của thành phố giảm xuống còn
5,78% vào năm 2005.
+ Cầu sức lao động theo hình thức sở hữu.
Nhu cầu sử dụng lao động của các loại hình kinh tế thành phố chuyển
dịch theo hướng: loại hình kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể thu hút ngày càng
nhiều lao động; loại hình kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể có xu hướng giảm.
Biểu 2.4: Lao động trong các loại hình kinh tế.
Loại hình kinh tế Đơn
vị
tính
Năm
2001

Năm
2002
Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
Tổng số Ngườ
i
850.550 864.118 911.860 934.956 944.84
3
Kinh tế Nhà
nước
Ngườ
i
129.076 135.977 140.690 136.661 135.16
4
% so với tổng số % 15,18 15,74 15,43 14,62 14,31
Kinh tế tập thể Ngườ
i
589.692 487.431 288.504 154.959 100.73
7
% so với tổng số % 69,33 56,41 31,64 16,57 10,66
Kinh tế tư nhân Ngườ 62.008 70.022 81.851 80.913 105.36
i 8
% so với tổng số % 7,29 8,10 8,98 8,65 11,15
Kinh tế cá thể Ngườ
i
69.524 165.380 376.742 519.962 583.27

1
% so với tổng số % 8,17 19,14 41,32 55,61 61,73
Kinh tế có vốn
ĐTNN
Ngườ
i
250 5.308 24.073 42.461 20.303
% so với tổng số % 0,03 0,61 2,6 4,5 2,15
(Nguồn: Niên giám thống kê thành phố Hải Phòng năm 2005)
- Hải Phòng là thành phố công nghiệp tập trung, có cảng biển lớn, nhiều
doanh nghiệp lớn của Trung ương đóng tại Hải Phòng, vì vậy khu vực kinh tế
nhà nước có vị trí lớn trong các loại hình kinh tế và trong vấn đề thu hút, tạo
việc làm cho lao động. (14,31% năm 2005)
- Lao động làm việc trong khu vực ngoài nhà nước (bao gồm kinh tế tập
thể, kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể và hộ gia đình) khẳng định vị trí lớn nhất về
số lượng. Tỷ lệ lao động ở khu vực này ở năm 2005 chiếm 83,55%, trong đó:
- Khu vực kinh tế tập thể: Tỷ lệ lao động làm việc ở khu vực này giảm
mạnh qua các năm, năm 2005 còn rất thấp chỉ chiếm 10,66% tổng số lao động
làm việc của toàn thành phố. Năm 2001, tỷ lệ này là 69,33%.
- Khu vực kinh tế tư nhân những năm qua phát triển mạnh, dẫn đến thu
hút nhiều lao động vào làm việc. Năm 2001chỉ chiếm 7,29% thì đến năm 2005
lao động làm việc ở khu vực này đã chiếm 11,15% so với tổng số lao động của
thành phố.
- Khu vực kinh tế cá thể và hộ gia đình: Đây là khu vực thu hút nhiều lao
động nhất trong thời gian qua. Năm 2005 tỷ lệ lao động làm việc ở khu vực này
chiếm 61,73% tổng số lao động đang làm việc của thành phố, trong khi đó năm
2001 tỷ lệ này mới chỉ là 8,17%.
Hải Phòng thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, có điều kiện thuận
lợi để thu hút đầu tư nước ngoài, thời gian qua Thành phố đã đạt được những
kết quả nhất định trong phát triển khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Lao động do khu vực này thu hút năm 2005 chiếm 2,15% tổng số lao động đang
làm việc của thành phố với trên 20 nghìn lao động.
+ Cầu sức lao động theo ngành.
Qua điều tra thực trạng điều tra lao động - việc làm hàng năm cho thấy,
số lao động có việc làm của Thành phố tăng qua các năm và đạt 944.843 người
vào năm 2005, chiếm 52,69% dân số và 68,24% lao động xã hội (năm 2005 là
1.384.673 người). Cơ cấu lao động có việc làm chuyển dịch theo hướng tích
cực; lao động làm việc trong nhóm ngành kinh tế dịch vụ tăng, lao động làm
việc trong nhóm ngành nông, lâm, ngư nghiệp và nhóm ngành công nghiệp, xây
dựng giảm. Để đánh giá cơ cấu lao động theo nhóm ngành kinh tế của Thành
phố, quan sát số liệu sau (%):
Biểu 2.5: Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế.
Thành phố Hải
Phòng
Vùng Đồng
bằng sông
Hồng
Toàn quốc
2001 2005 2004 2005 2004 2005
Chung 100,0
0
100,0
0
100,0
0
100,00 100,00 100,0
0
Nông, lâm, ngư nghiệp 43,49 43,03 54,52 52,22 57,89 56,95
Công nghiệp, xây dựng 26,56 25,20 22,18 21,86 17,35 17,40
Dịch vụ 29,95 31,77 23,30 25,92 24,75 26,01

(Nguồn: Thực trạng Lao động – việc làm thành phố Hải Phòng năm 2005)
Tổng số 944.843 nghìn người có việc làm của Thành phố năm 2005, phân
bố vào các khu vực kinh tế: Khu vực nông, lâm, ngư nghiệp - 43,03%; khu vực
công nghiệp, xây dựng - 25,20%; khu vực dịch vụ - 31,77%. So sánh các số liệu
cùng loại với vùng đồng bằng sông Hồng và toàn quốc nhận thấy: Tỷ lệ lao
động làm việc khu vực nông, lâm, ngư nghiệp của Hải Phòng thấp hơn nhiều.
Ngược lại, tỷ lệ lao động làm việc ở khu vực công nghiệp, xây dựng và khu vực
dịch vụ cao hơn. Từ đó cho thấy, Hải Phòng là thành phố có cơ cấu lao động
tích cực.
Cơ cấu việc làm của Thành phố tuy có sự chênh lệch, nhưng không lớn
giữa 3 khu vực. Cơ cấu lao động Thành phố chuyển dịch theo hướng giảm tỷ lệ
lao động khu vực nông, lâm, ngư nghiệp và khu vực công nghiệp, tăng tỷ lệ lao
động khu vực dịch vụ. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động là phù hợp với sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đầu tư của thành phố trong những năm qua.
+ Cầu sức lao động theo các chương trình phát triển kinh tế – xã hội.
Cầu về sức lao động của Thành phố còn được tác động thông qua các
chương trình giải quyết việc làm của Thành phố. Giai đoạn từ năm 2001 đến
2005, kinh tế Thành phố tăng trưởng liên tục với tốc độ khá cao, năm sau cao
hơn năm trước và gấp 1,5 lần bình quân chung của cả nước. Cơ cấu kinh tế có
bước chuyển dịch đúng hướng, một số ngành kinh tế mũi nhọn phát triển khá
nhanh do được đầu tư có trọng điểm như đóng mới, sửa chữa tàu biển, xi măng,
sắt thép xây dựng, dệt, may, giầy dép, thuỷ sản, du lịch-dịch vụ… khuyến khích
phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế tập thể,
đẩy mạnh kinh tế đối ngoại, tập trung huy động mọi nguồn vốn cho đầu tư phát
triển, mở rộng mô hình trang trại vừa và nhỏ ở khu vực nông thôn để chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, sử dụng có hiệu quả Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm đã tác
động trực tiếp có hiệu quả để giải quyết việc làm cho lao động thành phố. Bình
quân mỗi năm đã giải quyết được 37.700 người lao động có việc làm. Cụ thể:
Giải quyết việc làm thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã
hội: Các chương trình, dự án đầu tư phát triển kinh tế-xã hội đã góp phần quan

trọng, tích cực giảm sức ép việc làm, tạo thêm nhiều cho làm việc mới cho lao
động thành phố, đặc biệt là các chương trình dự án phát triển kinh tế trọng điểm
như chương trình thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước nhằm phát triển công
nghiệp, dịch vụ; Chương trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, bảo tồn và
phát triển các làng nghề truyền thống; kinh tế trang trại; kinh tế hộ gia đình
ngày càng đóng vai trò quan trọng trong tạo việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao

×