Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Lý Thuyết Phát Triển - các nghiên cứu cổ điển của trường phía sự phụ thuộc ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.46 KB, 24 trang )

Phụ lục
I/. Các nghiên cứu cổ điển của Trường phái sự phụ thuộc
1/. Baran: Chủ nghĩa thực dân ở Ấn Độ.
a) Tác động về kinh tế.
b) Tác động về chính trị, văn hóa.
2/. Các tác giả của tạp chí Monthly Review: Cái bẫy nợ nước ngoài của
các nước Châu Mỹ La Tinh
a) Nguồn gốc của các vấn đề nợ nước ngoài
b) Tác động của nợ nước ngoài
c) Giải pháp cho vấn đề nợ nước ngoài
- Tuyên bố vỡ nợ có phải là giải pháp khả thi
- Giải pháp xin các ngân hàng nước ngoài nhượng bộ có khả thi
3/. Landsberg: Chủ nghĩa thực dân “kiểu mới” ở các nước Đông Á
a) Bối cảnh lịch sử
b) Bản chất của ELI: Nước nào đang xuất khẩu sang nước nào?
c) Nguồn gốc ELI
d) Ảnh hường của ELI
II/. Sức mạnh của Trường phái sự phụ thuộc
III/. Những phê phán với những nghiên cứu cổ điển Trường phái sự phụ
thuộc
a) Về phương pháp nghiên cứu
b) Về khái niệm củ sự phụ thuộc
c) Về hàm ý, chính sách
IV/. Kết luận

1
I/. Các nghiên cứu cổ điển của Trường phái sự phụ thuộc
1. Baran: Chủ nghĩa thực dân Ấn Độ
Nghiên cứu của Baran về Ấn Độ(1957, p.144-150) đã trở thành một trong số
những bản báo cáo về vấn đề đang xảy ra ở các nước thuộc thế giới thứ ba
sau quá trình bị xâm chiếm làm thuộc địa.


a., Tác động kinh tế
Theo Baran (1957) Ấn Độ là một trong những quốc gia có điều kiện
để phát triển kinh tế tốt nhất trong thế kỉ XVIII. Phương pháp sản xuất nền
công nghiệp, các tổ chức thương mại ở Ấn Độ có thể so sánh với bất kì đâu
trên thế giới. Đây là quốc gia có nền công nghiệp xuất khẩu sợi lớn nhất
cũng như có sự hiện đại của công trình kiến trúc. Các sản phẩm của Ấn Độ
đáp ứng được nhu cầu của Châu Á và Châu Âu trong suốt thế kỷ XVIII.
Cũng trong thế kỉ này nước Anh đang phải trải qua cuộc khủng hoảng công
nghiệp. Tuy nhiên, nền công nghiệp dệt của Anh vẫn đang phát triển. Trước
năm 1760 máy móc sử dụng cho dệt sợi ở Lancashire phần lớn đều giống
như ở Ấn Độ. Trong những năm 1750 nền công nghiệp luyện kim ở Anh
đang ngày càng tàn lụi và rơi vào suy thoái nghiêm trọng
Tuy nhiên, quân sự của Anh ngày càng được tổ chức cao. Họ có một
hạng đội hải quân mạnh với sự có mặt của nhiều tàu chiến tinh duệ đã giúp
họ chiếm được các nước thế giới thứ ba làm thuộc địa. Tất nhiên, sau chiến
thắng quân đội Ấn Độ, Anh biến Ấn Độ thành thuộc địa của mình. Theo
Baran, thực tế tình trạng lạc hậu của Ấn Độ là do “sự khó khăn, nhẫn tâm,
bóc lột của Anh với Ấn Độ qua rất nhiều những điều luật được Anh đặt ra”.
Đây là quá trình để hình thành sự kém phát triển mà bắt đầu với sự tước đoạt
của cải từ Ấn Độ. Ước đoán khối lượng của cải mà Anh mang về từ Ấn Độ
trong suốt giai đoạn là thuộc địa lên tới 500 triệu đến 1 tỉ đô la.

2
Vào đầu thế kỉ XIX, Anh đã chiếm hữu hơn 10% tổng doanh thu của
Ấn Độ trong suốt một năm. Có vẻ như đó là bản báo cáo không đúng sự thật
về sự bòn rút nguồn của cải của Ấn Độ bởi vì nó chỉ liên quan tới vận
chuyển trực tiếp mà không bao gồm những sự mất mát của Ấn Độ về việc
đánh thuế ở Ấn Độ bởi nước Anh. Thêm vào việc cướp bóc Anh còn sử
dụng nhiều phương pháp bòn rút các nguồn nguyên liệu từ Ấn Độ. Giữa thế
kỉ XVIII nền nông nghiệp bắt đầu ở nông thôn nước Anh với quy mô to lớn.

Để mở rộng được nông nghiệp và đạt được thị trường hàng dệt may thế giới
nước Anh cần phải hạn chế tiềm năng dệt ở Ấn Độ và mở rộng thị trường
tới bên kia bờ biển. Do đó sau khi Anh xâm chiếm Ấn Độ công ty East Ấn
Độ và nghị viện Anh bắt đầu chính sách: “Hạn chế quá trình CNH” Quoting
Romesh Dutt (1901), Baran (1957, p.147) đã khuyến cáo chính phủ Anh.
Kìm hãm nền công nghiệp Ấn Độ bằng những đạo luật và khuyến
khích sự tăng trưởng của công nghiệp Anh. Kìm hãm các chính sách theo
đuổi mười năm cuối thế kỉ XVIII và mười năm đầu thế kỉ XIX đã làm cho
Ấn Độ phải phụ thuộc vào nền công nghiệp của nước Anh. Nhưng chính
sách đó lại gây ảnh hưởng đến người công nhân làm việc trong công ty,
những người buôn bán được giao cho những cơ quan quyền lực trung ương
và địa phương về dệt may. Những biểu thuế quan được đặt ra để ngăn chặn
quá trình sản xuất tơ lụa, cotton từ Ấn Độ sang Anh. Hàng hóa Anh đưa vào
Ấn Độ không bị đánh thuế hoặc đánh thuế rất thấp. Những chính sách đó
được đưa ra với mục đích kiềm chế sự phát triển của nền công nghiệp Ấn
Độ. Và một thời gian sau khi sức mạnh của những chính sách này ảnh hưởng
đến Ấn Độ, chính phủ Anh lại một lần nữa hành động gây sự bất công
nghiêm trọng cho Ấn Độ vì lí do ghen tị. Thuế hàng hóa đã được áp đặt lên
nền sản xuất cotton của Ấn Độ và đã bóp nghẹt sự cố gắng của Ấn Độ.

3
Thêm vào chương trình hạn chế quá trình công nghiệp hóa, Anh muốn
Ấn Độ trở thành nước cung cấp đầy đủ nguyên liệu sợi cho công nghiệp dệt
ở Anh. Kết quả là Ấn Độ rơi vào thời kì khủng hoảng. Baran cho rằng nông
nghiệp là điều còn lại duy nhất ở quốc gia đã từng giàu có như Ấn Độ vào
thế kỉ 19.
Bần cùng hóa nông thôn Ấn Độ.Điều đó làm tê liệt nền nông nghiệp,
ngăn cản sự cứu tế và làm cho những người quản lí đất đai rơi vào tình trạng
nghèo nàn và mắc nợ. Thực tế ở Ấn Độ địa vị xã hội được đánh giá bằng sự
gàu có và tích lũy đất đai. Việc can thiệp tới doang thu và lợi ích của người

quản lí đất đẩy người nông dân vào tình trạng nghèo đói. Và rất có thể nhiều
thứ thuế khác sẽ tăng lên ở Ấn Độ để thu về nguồn lợi cho Châu Âu và để
chi trả cho nhu cầu của chính phủ.
Tóm lại, Baran cho rằng việc chuyển rời giá trị thặng dư của nền kinh
tế từ Ấn Độ sang Châu Âu, chính sách hạn chế CNH của nền công nghiệp
Ấn Độ, là để phát triển công nghiệp sản xuất hàng hóa ở Anh dẫn đến việc
không những không phát triển mà còn kém phát triển, tạo điều kiện cho sự
tích lũy vốn cho nước Anh cũng như các nước thuộc địa khác của Anh. Càng
có nhiều sự tác động tới nền kinh tế Ấn Độ thì nó càng ảnh hưởng sâu sắc
tới chính trị của quốc gia này.
b). Tác động chính trị và văn hóa
Từ quan điểm của trường phái sự phụ thuộc, mục đích của việc thành
lập một chính phủ thuộc địa là duy trì, đảm bảo sự ổn định cho sự bòn rút
nguyên liệu thô và khoáng sản từ những nước thuộc địa tới chính quốc cũng
như dễ dàng cho sự nhập khẩu từ nước ngoài vào. Chính phủ thuộc địa
không được thành lập cho mục đích đề xướng phương hướng phát triển từ
bên ngoài.

4
Những nước thuộc thế giới thứ ba phụ thuộc vào các quốc gia bên
ngoài, một chính phủ thuộc địa không có quyền tự quyết, sự ổn định ở các
nước thuộc địa trong suốt lịch sử bị đàn áp bằng bạo lực. Nếu cần thiết chính
phủ sẽ tiêu diệt toàn bộ những người chống đói như Tây Ban Nha dã đàn áp
người dân da đỏ ở Mĩ Latinh, chỉ sau khi những người dân khuất phục thì
Quốc mẫu sẽ định hình xây dựng lên một chế độ xã hội cho phù hợp với
mong muốn của mình. Theo bản báo cáo của Baran, những người quản lý
đất ở Anh có phương pháp phá hủy xã hội để thành lập lên một Ấn Độ mới.
Bằng việc đưa ra hệ thống thuế đã phá hủy nền kinh tế Ấn Độ và trở thành
người thay thế cho địa chủ. Chính sách thương mại, đã phá hủy những người
công nhân Ấn Độ và tạo ra những khu ổ chuột trong thành phố Ấn Độ, làm

cho những hàng nghìn người chết đó, đẩy họ tới nghèo khổ.
Sau sự điều hành kiên quyết của các chính quyền thuộc địa, mọi người
bắt đầu tin vào người dân thuộc địa. Tất nhiên, không phải tất cả những
người bản xứ đều tuân theo chỉ có nhũng người được hưởng ưu đãi mới
chọn cách trung thành với các chính phủ thuộc địa- người giữ mối quan hệ
mật thiết với các quốc gia bên ngoài. Trường phái gọi những người bản xứ
được ưu đãi đó là “giai cấp trên của xã hội” và những người địa chủ bản địa
nhận ra tham gia vào chính quyền thuộc địa mang lại cho họ quyền lực.
Ngược lại, chính phủ thuộc địa muốn những người địa chủ giữ yên bình
trong đất nước mình và đẩy mạnh xuất khẩu nông nghiệp. Như vậy, Baran
xác nhận rằng tại Ấn Độ Anh quốc đã củng cố quyền lực của mình bằng
cách tạo ra và ra quyền lực cho giai cấp mới- giai cấp liên minh, những
người phụ thuộc quyền lợi vào sự tồn tại của nước này, tầng lớp địa chủ, quý
tộc. Đó là tất cả những phương pháp chính trị có mục đích mà nước Anh
theo đuổi trong giai đoạn này để tạo ra sự phân chia ở Ấn Độ.

5
Để tạo thuận lợi cho sự thống trị chính trị, Anh đã thông qua một chính sách
giáo dục nhằm giúp cho người bản địa ở Ấn Độ thoát khỏi bóng tối và sự
ngu dốt. Theo Baran:
Nước Anh tổ chức và giám sát hệ thống giáo dục đã làm tất cả có thể
để thúc đẩy sự tăng trưởng của khoa học và công nghiệp của Ấn Độ. Chúng
ta không thấy rằng, thay vì giảng dạy người dân hiểu được thế giới của họ
mà dạy cho họ biết những điều trong các lý thuyết của thế kỉ XVI và thế kỷ
XVII để tìm hiểu lịch sử cai trị một đất nước
Kể từ khi nền kinh tế, chính trị của Ấn Độ đã được khôi phục trong
suốt thời gian là thuộc địa của chính quyền thực dân Anh trong hơn một thế
kỷ, Baran khẳng định: Ngay cả sau khi giành độc lập, thì di chứng đó vẫn
tồn tại. Trích dẫn Nehru, Baran (1957, p.149) đồng ý rằng “gần như tất cả
các vấn đề chính của chúng ta ngày hôm nay vẫn tồn tại, trong thời gian bị

nước Anh cai trị và đó như là kết quả trực tiếp của chính sách cai trị ở nước
Anh: các vấn đề dân tộc; lợi ích khác nhau của người dân, nước, việc thiếu
các ngành công nghiệp và bỏ bê nông nghiệp, sự đói nghèo của người dân
Lịch sử Ấn Độ thời thuộc địa và British Raj.

Kết luận: nghiến cứu của Baran tuy đã chỉ ra được rằng: thực tế
tình trạng lạc hậu của Ấn Độ là do “sự khó khăn, nhẫn tâm, bóc lột của Anh
với Ấn Độ qua rất nhiều những điều luật được Anh đặt ra”. Nhưng đây thực
sự mới chỉ là một khía cạnh .Tuy nhiên nghiên cứu của ông cũng đã đóng
góp cho lịch sử nhân loại một phát hi ện về âm mưu của bọn thực dân xâm
lược
2. Các tác giả của tạp chí Monthly Review: cái bẫy nợ nước ngoài của
các nước châu Mĩ Latinh

6
Một số nhà nghiên cứu kinh tế chính trị thế giới (Chinweizu, 1985,
Magdoff - 1986 và Stamos - 1985) từng ví nếu Chủ nghĩa Thực dân là
nguyên nhân chính gây nên tình trạng lạc hậu và đói nghèo ở Ấn Độ và các
quốc gia Nam Á trước kia thì tình trạng nợ nước ngoài đang là nhân tố chính
gây mất ổn định tại nhiều quốc gia thuộc châu Mỹ La-tinh.
Cái bẫy món nợ này có thể được quan sát ở Brazil, một trong số nhiều
các nước tiên tiến nhất trong châu Mỹ la-tinh. Món nợ nước ngoài của Brazil
chỉ khoảng 4 tỉ USD vào đầu những năm 1970. Đến cuối thập kỷ 70, con số
này đã là 50 tỷ USD và sau đó nhảy vọt lên 121 tỉ USD vào năm 1989.
Tuy nhiên, Brazil không phải là quốc gia duy nhất vướng vào vòng
xoáy nợ nần. Cũng trong thời gian nói trên, các quốc gia khác là Mê-hi-cô,
Ac-hen-tina, Venezuela, Chi-lê hoặc Cô-lôm-bi-a cũng bị nhấn chìm trong
vòng xoáy tương tự. Chẳng hạn, nợ nước ngoài của Mê-hi-cô tăng từ 7 tỷ
đô-la đầu thập kỷ 70 đến 38 tỷ vào cuối thập kỷ và đến năm 1989 thì con số
này là 106 tỷ, tương đương với 76% tổng thu nhập kinh tế quốc dân (Times,

8/1/1989. Trang 33). Điều này có nghĩa là 80% thu nhập từ xuất khẩu của
Mê-hi-cô cũng chỉ vừa đủ để trả số tiền lãi hàng năm của món nợ này, chứ
chưa nói gì đến trả món nợ gốc.
Sự gia tăng nợ nước ngoài làm các quốc gia nói trên ngày càng phụ
thuộc sâu sắc vào Hoa Kỳ và các nước tư bản phát triển. Và nợ nước ngoài
đã đóng vai trò quyết định đến bản chất phát triển của các quốc gia Mỹ La-
tinh ngay từ thập kỷ 80. Đến đây, bạn có thể tự hỏi: Vậy nợ nước ngoài có
nguồn gốc như thế nào? Nợ nước ngoài đã ảnh hưởng như thế nào đến các
quốc gia Mỹ La-tinh? Đâu là giải pháp khả thi cho vấn đề nợ nước ngoài?
a, Nguồn gốc của các vấn đề nợ nước ngoài


7
Trước hết, để minh họa vấn đề món nợ Mỹ la-tinh của các nước phát
triển như thế nào? Chúng ta có thể tập trung vào sự phát triển của Mexico
trong hai thập kỷ qua. Ở giữa những năm 1970, chính phủ của Tổng thống
Luis Echeveria ở Mexico đã đề ra một số chương trình cải cách giáo dục,
chăm sóc y tế, và các phúc lợi cho người nghèo và những người thất nghiệp.
Chính phủ Echeveria cũng đẩy mạnh ngành công nghiệp hóa và xây dựng cơ
sở hạ tầng như xây dựng đường cao tốc, sân bay, bến cảng Tuy nhiên, để
cấp vốn cho những dự án quy mô lớn này đã làm cho Chính phủ bội chi
ngân sách một cách trầm trọng.
Một vấn đề khác cũng làm nghiêm trọng thêm cán cân thành toán của
Chính phủ là để tiến hành công nghiệp hoá, Mê-hi-cô phải nhập khẩu nhiều
máy móc, sắt thép và công nghệ sản xuất. Điều này dẫn đến tình trạng nhập
siêu nên Mê-hi-cô cần rất nhiều tiền để thanh toán lượng đơn hàng nhập
khẩu ngày càng tăng.
May mắn thay, Mexico phát hiện ra rằng họ đang sở hữu một trong
những lĩnh vực giàu có nhất trên thế giới là dầu mỏ. Hơn nữa, có một sự
bùng nổ dầu vào những năm 1970: giá dầu tăng cao, điều đó chứng tỏ nhu

cầu về dầu cũng tăng. Do vậy, chính phủ Echeveria đã rất hy vọng, họ vay
những khoản tiền lớn từ Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân
hàng Mỹ để cấp vốn cho những dự án thăm dò và khai thác dầu mỏ. Sau khi
các ngành công nghiệp dầu mỏ và các ngành công nghiệp trong nước bắt đầu
có lãi, Chính phủ Echeveria dự tính rằng cần phải xuất khẩu, có thể giúp
được Mexico kiếm được đủ ngoại tệ để giảm bớt sự sự bội chi ngân sách và
cân bằng cán cân xuất nhập khẩu.
Rất lạc quan với viễn cảnh đó, Chính phủ Echeveria đã không ngần
ngại nâng mức vay hàng năm từ 4 tỷ USD lên 6 tỷ USD. Tuy nhiên, kế
hoạch đi lên từ dầu mỏ đó đã không thể trở thành hiện thực.

8
Đầu những năm 1980, giá dầu mỏ trên thị trường thế giới bỗng giảm đột
ngột do nhu cầu tiêu dùng không tăng. Khủng hoảng thừa dầu mỏ làm giá
dầu giảm từ 30 xuống 20 đô-la/thùng. Các quốc gia trong Tổ chức các nước
xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) buộc phải giảm sản lượng khai thác để tránh làm
cho giá dầu tụt xuống nữa. Hậu quả là thu nhập ngoại tệ từ xuất khẩu dầu mỏ
của Mê-hi-cô bị giảm theo và sai lầm trong phép tính đó đã làm cho quốc gia
này bị cuốn vào vòng xoáy nợ nước ngoài.
Nếu như ở thập kỷ 70, việc vay nợ mỗi năm từ 4-6 tỷ đô-la không là
gì với Mê-hi-cô vì có thể thành toán dễ dàng từ xuất khẩu dầu mỏ, thì đến
thập kỷ 80, món nợ này đã trở thành không thể nào chịu nổi đối với quốc gia
đang phát triển này. Do lãi mẹ đẻ lãi con, nợ nước ngoài của Mê-hi-cô đã
lớn lên với tốc độ khá nhanh đến một con số khổng lồ một khi nó đạt mức
"tới hạn".
Để dễ hình dung ra mức "tới hạn" ta nghiên cứu một phép tính của
Magdoff (1984). Giải sử một quốc gia mỗi năm vay 1000 đô-la trong vòng 7
năm với mức lãi suất ưu đãi 10% năm và số tiền này phải thanh toán trong
thời hạn 20 năm thì đến năm thứ 8, số tiền vay 1000 đô-la này chỉ vừa đủ để
trả số lãi ròng và khấu hao của toàn bộ số tiền đã vay trong 7 năm trước đó.

Diễn đạt theo cách khác, từ năm thứ 8 trở đi, ngoài số tiền vay 1000 đô-la
để tiếp tục đầu tư, quốc gia này mỗi năm sẽ phải vay thêm 1000 đô-la nữa
chỉ để trả hạn mức lãi và khấu hao cho số tiền đã vay trước đó. Điều này lý
giải cho ta thấy vì sao nợ nước ngoài của Mê-hi-cô cũng như các quốc gia
phải vay nợ khác lại tăng nhanh chóng như vậy. Thế là sau vài năm liên tiếp
vay nước ngoài ở mức 4-6 tỷ đô-la/năm, nợ nước ngoài của Mê-hi-cô đã lên
tới 55 tỷ vào năm 1982.

9
Từ sau năm 1982, Mê-hi-cô đã phải vay mỗi năm thêm 9 tỷ đô-la chỉ
để dùng vào việc trả lãi và khấu hao cho món nợ đã vay mấy năm trước đó.
Năm 1980, tổng nợ nước ngoài của Hê-hi-cô đã là 106 tỷ đô-la.
Do tính chất luỹ tiến của nợ nước ngoài nên các nhà nghiên cứu đã không
sai khi so sánh nó với tình trạng nghiện ma tuý. Giống như người nghiện ma
tuý phải tăng dần cơ số thuốc gây nghiện sử dụng hàng ngày mới đảm bảo
"đủ đô", các quốc gia trót mắc vào vòng xoáy nợ nần cũng phải tăng dần số
tiền vay hàng năm mới trả nổi khoản lãi và khấu hao vốn 'tới hạn". Quốc gia
vay nợ cũng giống như con nghiện ma tuý, khó có thể cai được 'thói quen'
chết người này.
b, Tác động của vấn đề nợ nước ngoài
Phần này ta phải trả lời câu hỏi: Vấn dề nợ nước ngoài ảnh hưởng đến
kinh tế chính trị học của các nước thế giói thứ 3 như thế nào?
Để trả lời câu hỏi này ta sẽ xem xét thực trạng vấn đề này ở một số nước
châu Mỹ-la tinh.
Với thực trạng: Giá dầu rớt, kinh tế thế giới suy thoái và các khoản nợ
nước ngoài thì không ngừng tăng lên, năm 1982 Mexico và Brazil đã phải
tuyên bố không thể theo kịp với các khoản lãi suất thanh toán nữa. Thông tin
này đã tạo ra một cuộc khủng hoảng với món nợ lớn hơn 300 tỉ đô la. Để
giải quyết vấn đề này, một nhiệm vụ được đặt ra cho các ngân hàng thế giới,
quỹ tiền tệ thế giới và các ngân hàng Mỹ đó là phải cứu các con nợ. Một số

chính sách đã được thông qua:
Đầu tiên, các quốc gia Mỹ-la tinh được cho phép lập lại lịch thanh
toán tiền vay của họ cho 1 tháng sau đó. Tuy điều này đã giúp ngăn chặn 1
cuộc khủng hoảng tài chính có thể gây ra toàn thế giới nhưng các nhà nghiên
cứu phụ thuộc lại cho rằng họ đã được các ngân hàng nước ngoài cứu sống
chứ không phải là Mỹ-la tinh.

10
Thứ 2, các ngân hàng đã quyết định cho họ mượn nhiều tiền hơn. Tuy
nhiên,có những điều kiện mới cho những khoản vay mới. Các khoản vay
mới được ngắn hạn, các khoản vay khẩn cấp, và mức lãi suất cao hơn mức
lãi suất thị trường.
Theo trường phái sự phụ thuộc, những chính sách này được cung cấp
nhiều lợi nhuận của các ngân hàng và giúp họ mở rộng kiểm soát với các
quốc gia Mỹ-la tinh. Kể từ nhiệm vụ cứu hộ này, các ngân hàng phương Tây
đã thực hiện 1 sự giám sát chặt hơn các báo cáo tài chính của các quốc gia
thiếu nợ nhiều hơn trước.Hơn nữa, IMF yêu cầu các quốc gia Mỹ-latinh
chấp nhận 1 chính sách hà khắc khi họ đã có thể thu được tiền vay mới,
chính sách bao gồm:
Giảm chi tiêu lớn của chính phủ, chẳng hạn như hủy bỏ hoặc giảm chi
tiêu vào phúc lợi xã hội, giáo giục, y tế và điều tương tự.
Tăng doanh thu của chính phủ thông qua việc tăng các loại thuế.
Giảm những nhập khẩu nước ngoài để giảm bớt vấn đề quyết toán chi trả.
Sự gia tăng trong xuất khẩu như vậy kiếm được nhiều ngoại tệ hơn.
Ngoài ra các nhà nghiên cứu sự phụ thuộc chỉ ra rằng cái bẫy món nợ
đó sử dụng 1 tác động sâu sắc trên những xã hội trong nước của các của các
quốc gia thiếu nợ.
Đầu tiên, tiền tệ Mexico bị phá giá, giảm mạnh từ 25 peso/1đô la US.
Vào năm 1982 tới 200 peso/1đô la US. Vào năm 1984, nhiều người Mexico
lo lắng rằng nền kinh tế Mexico sẽ sụp đổ bất kỳ lúc nào tạo ra một cuộc

khủng hoảng tài chính bằng việc xô đẩy để chuyển đổi từ peso về đô la Mỹ.
Thứ 2, lạm phát tăng cao. Đầu những năm 1980 tỉ lệ lạm phát hàng
năm của Mexico vào khoảng 80%. Brazil và Peru thậm chí còn tệ hơn,ở
Brazil tỉ lệ lạm phát hơn 200% năm 1985 và khoảng 500% năm 1986; Peru
tỉ lệ lạm phát tồi tệ nhất khoảng 1700% năm 1989.

11
Thứ 3, các con nợ suy giảm kinh tế mạnh mẽ trong những năm 1980.
GNP của Mexico giảm từ 8% năm 1978 còn -5% năm 1983. Nhiều nước
thiếu nợ tỉ lệ thất nghiệp đã lên đến hơn 50%.
Thứ 4, các xung đột chính trị trong xã hội của các quốc gia thiếu nợ
ngày một tăng. Các cuộc biểu tình và đình công trở lên phổ biến ở các quốc
gia Mỹ -la tinh những năm 1980. Năm 1983 có 1 sự nổi loạn do đói ở Brazil
với việc cư dân thành phố cướp thực phẩm ở các siêu thị.
Thứ 5, việc chống lại các phong tục Mỹ của các dân tộc Mỹ-la tinh
ngày một tăng. Họ bắt đầu khiển trách sự đau khổ và mức sống thấp của họ
trên các ngân hàng Mỹ và chính phủ Mỹ. Từ quan điểm phụ thuộc, người
dân tại Mỹ-la tinh sẽ được giảm giá tốt hơn nhiều nếu những tỉ đôla đã được
chi tiêu vào phúc lợi trong nó và các chương trình việc làm thay vì cho các
ngân hàng nước ngoài.
c, Giải pháp cho vấn đề nợ nước ngoài
Vấn đề món nợ này có thể được giải quyết như thế nào? Sự lựa
chọn nào khả thi cho các nước vay nợ và các nước chủ nợ là gì? Nếu các
nước vay nợ không có khả năng trả nợ đúng hạn thì liệu có khả năng cho họ
được ra hạn trả nợ? Liệu các nước vay nợ đơn giản tuyên bố rằng họ không
thể trả nợ và xóa bỏ trách nhiệm trả nợ?
Nợ mặc định có thể là một lựa chọn, nhưng không chắc rằng nó sẽ
được chấp nhận bởi các nước vay nợ. Từ quan điểm phụ thuộc, các con nợ-
chủ nợ là một mối quan hệ chính trị. Nếu các chủ nợ có tác động mạnh và
quyền lực thì rất khó khăn cho các con nợ. Kinh nghiệm lịch sử cho chúng ta

biết rằng mặc định của một món nợ quốc gia đã thường xuyên dẫn đến việc
thực dân của quốc gia đó gặp khó khăn, như đã xảy ra ở Ai Cập với người
Anh và tại Cộng hòa Dominica với những người Mỹ ở thế kỷ XX. Các chủ
nợ có thể gửi quân đội để lật đổ chính phủ mà cài đặt sẵn trên các khoản cho

12
vay, cài đặt một chính phủ mới, tiền thuế, hải quan và thu thập để bảo đảm
rằng các khoản nợ sẽ được hoàn trả.
Tuy nhiên, không giống như trong thực dân cũ, chủ nợ không thể có
khả năng gửi quân đội đến các con nợ trong những năm 1980. Tuy nhiên,
các quốc gia Mỹ Latinh được vay tiền từ một số các tổ chức quyền lực nhất
trên thế giới, các tổ chức tài chính đa quốc gia. Những ngân hàng nước
ngoài có thể dễ dàng tiến hành một chiến tranh kinh tế để lật đổ những chính
phủ người mắc nợ. Những chủ nợ có thể yêu cầu những một sự phng tỏa tài
sản của những nước thiếu nợ trong Nước Mỹ, thiết lập một sự phong tỏa
kinh tế để cắt đứt thương mại và cho vay tới những người mắc nợ và các
khoản vay cho các con nợ, và yêu cầu công ty nước ngoài kéo kinh doanh
của họ ra khỏi các con nợ. Kể từ khi con nợ đang gặp rắc rối kinh tế, bất kỳ
chính sách gây khó chịu ở trên được sử dụng chống lại họ sẽ cho vào hỗn
loạn kinh tế và chính trị bất ổn. Do vậy, các tầng lớp kinh tế trong nước và
lớp cầm quyền tại các quốc gia thiếu nợ có lẽ không ưu tiên chiến lược của
việc vắng mặt trên những sự thanh toán món nợ của họ. Các tầng lớp trong
nước tại các quốc gia Mỹ Latinh đã được hình thành quan hệ đối tác với các
tập đoàn nước ngoài, và họ sẽ tổn thương nhất do sự trả thù kinh tế của các
tập đoàn đa quốc gia. Thay vì mặc định, các tầng lớp kinh tế thống trị đã
chọn để chuyển giao một số tài sản bí mật kinh tế của họ từ Mỹ Latinh vào
Hoa Kỳ, hoặc để các ngân hàng Thụy Sĩ. Magdoff ước tính khoảng 180 tỉ đô
la vốn Mỹ Latin-khoảng một nửa các khoản nợ nợ các ngân hàng nước ngoài
bây giờ là bên ngoài của các quốc gia con nợ.
Do đó, thay vì mặc định, các tầng lớp trong nước đã yêu cầu xin

nhượng bộ từ các ngân hàng nước ngoài. Tháng 3 năm 1986, các quốc gia
con nợ tại Mỹ Latinh đã tổ chức một cuộc họp để đối phó với các bẫy nợ.
Cuộc họp đạt kết luận sau đây :

13
1. Cần phải có một sự giảm lãi suất trong quá khứ và tiền vay tương
lai. Các quốc gia Mỹ Latinh vay lãi suất 14-16% vào cuối những năm 1970.
Kể từ khi lãi suất thấp hơn nhiều lần vào giữa thập niên 1980, các quốc gia
Mỹ Latinh hy vọng rằng các ngân hàng nước ngoài có thể cắt giảm từ 2-4%
lãi suất cho vay của họ.
2. Cần phải có thời gian hoàn trả nợ vay. Những khoảng thời gian dài
có thể giảm nhẹ gánh nặng của các khoản thanh toán lãi suất đáng kể.
3. Cần phải cũng có một giới hạn trên số lượng thu nhập xuất khẩu
không thể được dùng để bỏ ra những sự quan tâm trên món nợ. Các quốc gia
thiếu nợ không có khả năng chi trả 80% hoặc hơn từ các khoản thu nhập
xuất khẩu của họ, bởi vì sau đó họ sẽ không có đủ tiền để nhập khẩu công
nghệ cần thiết cho công nghiệp nước ngoài trong nước.
Trong tổng kết, các quốc gia thiếu nợ yêu cầu những ngân hàng nước
ngoài nhượng bộ. Các ngân hàng nước ngoài cũng lo ngại về viễn cảnh của
mặc định trên 300 tỷ đô la nợ Thế giới thứ ba. Nhiều ngân hàng Mỹ đã vay
quá nhiều đến các quốc gia Mỹ Latinh. Ví dụ, Ngân hàng của Mỹ, Citibank
và Ngân hang Chase Manhattan có khoảng 30-40% vốn của họ bị bó buộc
trong món nợ thế giới thứ ba. Nếu những quốc gia Thế giới thứ ba trốn tránh
trả nợ và tuyên bố phá sản, các ngân hàng Mỹ và các tập đoàn đa quốc gia
khác sẽ phải làm như vậy, bởi vì họ đã được mật thiết với nhau được kết nối
với các quốc gia con nợ. Đối mặt với điều này sẽ xảy đến khủng hoảng kinh
tế, những ngân hàng nước ngoài sẵn sàng để cầm lấy một chân " mềm " và
để đàm phán với những nước thiếu nợ về việc làm thế nào để giảm tỷ lệ lãi
suất và để kéo dài thời hạn cho vay. Trên thực tế, những ngân hàng nước
ngoài không muốn giết chết ngỗng mà đặt những trứng bằng vàng.

Năm 1989, Nicholas F. Brady, thư ký của kho bạc của Mỹ, đưa ra một
kế hoạch mà tìm cách giảm bớt gánh nặng nợ Mỹ Latinh đè nặng lên bằng

14
yêu cầu các ngân hàng để tha thứ cho các phần của các khoản cho vay và để
trao đổi các phần khác của nợ dành cho chứng khoán mới-cuộc trao đổi đó
sẽ được bảo hiểm bởi bảo lãnh từ IMF và Ngân hàng. Tuy nhiên, các ngân
hàng đều không muốn để mất lợi nhuận từ các khoản nợ Thế giới thứ ba. Vì
sự chống cự từ cộng đồng ngân hàng, các đề nghị mới nhất của Brady, tính
tới tháng bảy năm 1989, được đặt xa con nợ quốc gia. Đồng thời, vai trò của
IMF và ngân hàng thế giới trong việc ký giảm món nợ đến nay đã chứng
minh nhỏ hơn so với những gì Brady bước đầu hình dung.
Tóm lại, quan điểm phụ thuộc đã đóng góp bằng cách chỉ ra nguồn
gốc của cái bẫy nợ, tác động của vấn đề món nợ trên những nước thiếu nợ,
và những vấn đề phức tạp có liên quan đến việc giải quyết vấn đề nợ.
Từ những nghiên cứu về Mỹ Latinh, quan điểm phụ thuộc một cách nhanh
chóng lây lan sang các nghiên cứu của các bộ phận khác của thế giới, trong
đó có một nghiên cứu về những triển vọng cho công nghiệp hoá Đông Á.
2.Landsberg: Chủ nghĩa thực dân kiểu mới ở các nước Đông Á
Trong quan sát các nước công nghiệp dẫn đầu Hàn Quốc, Đài Loan ,
Singapore và Hồng Kông, Landsberg (1979) trả lời các câu hỏi nghiên cứu:
Liệu nên hay không nên xem xét mô hình cho sự phát triển Thế giới thứ ba?
Chiến lược công nghiệp hóa hướng ngoại ELI (export-led industrialization)
của các nước Đông Á là hình mẫu để các nước thế giới thứ ba đi theo
không? Hay ELI chỉ là một kiểu thống trị mới của các đế quốc với các nước
thế giới thứ ba? Để trả lời câu hỏi này Landsberg đã nghiên cuuws bối cảnh
lịch sử, bản chất và nguồn gốc của mô hình ELI ở các nước Đông Á.
a, Bối cảnh lịch sử
Landsberg lập luận rằng sự thống trị nước ngoài của các nước thế giới
thứ ba đã không tham gia vào Thế chiến II. Trong nước, sự phát triển của

các nước thế giới thứ ba gặp khó khăn vì những lý do sau đây. Trước tiên,

15
với các cơ sở công nghiệp nhỏ, các nước thứ ba thế giới đã bị buộc phải chi
một khoản tiền lớn của ngoại tệ để nhập khẩu gần như tất cả các hàng hóa
sản xuất. Thứ hai, để kiếm được đồng tiền nước ngoài, các nước thế giới
thứ ba phải dựa vào xuất khẩu hàng hóa: đường, cao su, chè… là đối tượng
biến động trên thị trường quốc tế. Thứ ba, việc thiếu ngoại tệ dẫn đến sự khó
khăn: nợ nước ngoài đáng kể.
Do đó, chiến lược thay thế xuất khẩu thành nhập khẩu, công nghiệp
ISI (import –substituded industrialization) đã được đề xuất để giúp Thế giới
thứ ba nước này thoát ra khỏi sự phụ thuộc vào xuất khẩu hàng hóa. Ngoài
ra, thay vì nhập khẩu tất cả các hàng hóa sản xuất, thông qua ISI các nước
này sẽ theo đuổi việc thay thế các hàng nhập khẩu trong nước bằng cách
thúc đẩy sản xuất công nghiệp.
Tuy nhiên, theo Landsberg, các nước đế quốc sẽ ngăn chiến lược ISI
thành công. Trước tiên, vì đa số dân cư ở các nước thứ ba thế giới vẫn
nghèo, lượng người tiêu dùng hàng hoá thị trường còn ít, nếu có thì là số
lượng nhỏ. Vì vậy, sản xuất trong nước đã hướng về phía một thị trường đô
thị nhỏ sang trọng mà người tiêu dùng lâu dài. Thứ hai, các giai cấp tư sản
không có vốn và công nghệ cho sự nghiệp công nghiệp trong nước. Kết quả
là phải nợ nước ngoài và công nghiệp phụ thuộc vào sự thống trị của nước
ngoài. Thứ ba, thay vì nhập khẩu hàng hoá nước ngoài, họ nhanh chóng
nhập khẩu vốn và công nghệ nước ngoài. Sau đó, là sự bỏ qua lợi nhuận lớn
trở về nước nhà của các tập đoàn xuyên quốc gia(TNCs). Kết quả là, số tiền
thâm hụt từ sự mất cân bằng các khoản thanh toán tại các nước thế giới thứ
ba vẫn tiếp tục tăng lên theo chương trình ISI. Tóm lại, Landsberg lập luận
rằng các kết quả của chương trình ISI không thành công: sự bất bình đẳng
thu nhập ngày càng tăng, công nghiệp hóa hạn chế, bị nước ngoài thống trị,
và thâm hụt lớn vào các khoản nợ.


16
Buổi đầu những năm 1960, các nước thế giới thứ ba nhận ra rằng
chiến lược của ISI là một thất bại, và một chiến lược xuất khẩu mới được gọi
là công nghiệp hóa (ELI) đã được đề xuất. Không giống như ISI, mục tiêu
đó để nắm bắt được thị trường trong nước, mục tiêu của ELI là để gia tăng
xuất khẩu hàng hóa sản xuất sang thị trường thế giới. Thông qua các chiến
lược các nước thế giới thứ ba hy vọng sẽ thúc đẩy công nghiệp hoá và tạo
việc làm, thu ngoại tệ và kích thích sự tích lũy vốn trong nước.
Sử dụng số liệu của Liên hiệp quốc, Landsberg thấy rằng: sản xuất
hàng xuất khẩu tăng nhanh như tỷ lệ phần trăm của tổng số hàng xuất khẩu
của các nước thế giới thứ ba tăng từ 9,2% năm 1960 đến gần 17% vào năm
1969. Ông cũng chỉ ra rằng sản xuất hàng xuất khẩu của các nước thế giới
thứ ba gia tăng tại một tỷ lệ hàng năm là 14% giữa 1970 và 1976, tăng bốn
lần so với tỷ lệ tăng trưởng của sản lượng sản xuất trong nước phát triển tư
bản. Từ những con số ấn tượng, nhà nghiên cứu sẽ hỏi những câu hỏi sau:
tính chất của làn sóng mới của ELI là gì? Làm thế nào chúng ta có thể giải
thích sự nổi lên của nó? Tác động của nó phát triển Thế giới thứ ba là gì?
b, Bản chất của ELI: Nước nào đang xuất khẩu sang nước nào?
Landsberg thấy rằng một vài quốc gia thế giới thứ ba sản xuất phần
lớn hàng xuất khẩu của các nước phát triển tư bản. Landsberg phân biệt hai
nhóm. Các nước trong nhóm A bao gồm: Mexico , Brazil , Argentina , và
Ấn Độ-có nguồn tài nguyên thiên nhiên đáng kể, tương đối lớn các cơ sở
công nghiệp trong nước và thị trường trong nước, và thành lập cơ sở hạ
tầng,chưa xuất khẩu sang các nước phát triển tư bản đã được tập trung vào
sản xuất hàng hóa truyền thống như dệt may, da, giày dép, gỗ, và các sản
phẩm thực phẩm. Các nước trong nhóm B bao gồm: Hồng Kông ,
Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan có thị trường trong nước nhỏ, ít tài
nguyên thiên nhiên, và tương đối phát triển công nghiệp cơ sở hạ tầng ở đầu


17
thập niên 1960. Tuy vậy những nước nhỏ này chuyên sản xuất hàng hóa hiện
đại như sản xuất quần áo, ánh sáng, và kỹ thuật kim loại, và các sản phẩm
điện tử. Hơn nữa, các nước nhỏ này đã trở thành nhà xuất khẩu rất thành
công, kết quả là các nước thế giới thứ ba càng phát triển trên thị trường thế
giới. Sau đó, đằng sau sự tăng trưởng xuất khẩu của các nước Nhóm B là
những gì? Điều gì giải thích động lực bất ngờ của họ về hướng ELI trong
những năm 1960?
c,Nguồn gốc của ELI
Theo một nhà nghiên cứu của trường phái sự phụ thuộc, ELI đại diện
cho một lời hứa sai của hệ thống tự mở rộng nền kinh tế tư bản. Trong thế
giới thứ 3, Landsberg lập luận rằng ELI chỉ là một hình thức mới của sự
thống trị tư bản quốc tế và không thể phục vụ như là một mô hình cho sự
phát triển bản địa Thế giới thứ ba.
Đối với Landsberg, điều giải thích của ông nằm trong chính sách”
thầu phụ quốc tế” được thiết kế bởi các tập đoàn xuyên quốc gia. Để nắm bắt
được thị trường tiêu dùng ở các nước tư bản tiên tiến các TNCs đã sử dụng
của các hãng thế giới thứ ba để sản xuất sản phẩm hoặc toàn bộ các thành
phẩm của sản phẩm. Một loạt các mối quan hệ pháp lý được hình thành giữa
TNCs và các nhà thầu phụ, các công ty con hoàn toàn sở hữu liên doanh và
sản xuất độc lập. Từ quan điểm của các thầu phụ quốc tế, ELI báo hiệu một
giai đoạn mới trong bộ phận lao động của quốc tế trong đó các hoạt động
sản xuất đã được chuyển giao từ các nước tư bản tiên tiến tiến tới các nước
thế giới thứ ba.
Landsberg đề cập tới một vài lý do cho sự tăng trưởng của thầu phụ
liên quốc gia. Đầu tiên, đã có sự mở rộng thị trường tiêu dùng ở một số nước
tư bản tiên tiến. Do đó các tập đoàn xuyên quốc gia cạnh tranh với nhau để
nắm bắt được thị trường tiêu dùng mở rộng ở các nước cốt lõi.

18

Thứ hai, chi phí sản xuất trên đã được tăng lên ở các hang tư bản tiên
tiến. Ví dụ, giữa thập niên 1960, nhà tư bản Mỹ bị buộc phải đáp ứng nhu
cầu về tài liệu và lợi ích chính trị cho giai cấp công nhân. Trong thực tế, chi
phí lao động tại Hoa Kỳ đã lên quá cao mà người Mỹ TNCs thấy khó để
cạnh tranh với các công ty Nhật Bản và Đức. Thị trường ganh đua, do vậy,
buộc các công ty Mỹ tham gia thầu phụ quốc tế để tăng cường khả năng
cạnh tranh của họ.
Thứ ba, đổi mới công nghệ mới về vận chuyển và giao tiếp rất thuận
lợi cho sự phát triển của tiểu quốc tế ký kết hợp đồng. Landsberg (1979,
p.57) chỉ ra rằng "với vận tải hàng không cải thiện, Côngtenơ, viễn thông,
các tập đoàn xuyên quốc gia có thể gửi các sản phẩm và thành phần nhanh
hơn, rẻ hơn, và an toàn hơn."
Thứ tư, thầu phụ quốc tế đã được coi là mang lại siêu lợi nhuận, có xu
hướng cao hơn thầu phụ về năng xuất, vì vấn đề lao động như nhu cầu của
công đoàn, cuộc đình công. Ngoài ra, mức lương mà các nước thế giới thư
ba nhận được nhiều thấp hơn nhiều so với của Hoa Kỳ. Năm 1967, mức
lương cơ bản mỗi giờ ở Hàn Quốc chỉ là $ 0,10, so với mức lương cơ bản
của người Mỹ 2,01 $ / giờ.
Cuối cùng, các quốc gia nhóm B là ứng cử viên tuyệt vời cho các hợp
đồng gia công có nguồn cung cấp lao động dồi dào. Landsberg (1979, p.58)
giải thích: Lao động là nhân tố quan trọng khi các nước nghèo hơn, những
người có ngành công nghiệp ít hơn phải tham gia cạnh với các nước phát
triển.
d) Ảnh hưởng của ELI
Theo quan điểm phụ thuộc, ELI đã biểu hiện cho một lời hứa sai
về sự thiết lập một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa tự mở rộng. Hay nói cách

19
khác, Landsberg đã phản bác rằng ELI chỉ hình thành một dạng mới của sự
thống trị tư bản chủ nghĩa quốc tế và không thể đưa ra một khuôn mẫu cho

sự phát triển văn hoá bản xứ của các nước thứ 3.
Trước hết, vì những nước thế giới thứ 3 đã thực thi ELI, nền sản xuất
công nghiệp của họ được mở rộng cho xuất khẩu. Do vậy, sự đầu tư về công
nghệ và nhân lực cũng được mở rộng do nhu cầu của người tiêu dùng và nhu
cầu của các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Nền sản xuất công nghiệp của
họ không liên quan gì tới nhu cầu của công nhân và nông dân.
Thứ hai, quá trình hợp tác thường được phân loại với các công nhân
có trình độ thấp cho tiến trình sản xuất cơ bản (như công việc lắp ráp chất
bán dẫn). Do đó, bản chất của các hợp đồng tạo cho nó không giống các
công nghệ tiến bộ sẽ được chuyển sang các nước thế giới thứ 3. Ở đó sẽ có
sự nâng cấp trình độ của lực lượng lao động hoặc công nghệ cao cho chúng
ta biết sự gắn liền toàn bộ tiến trình sản xuất sẽ biểu lộ sự hợp tác giữa các
quốc gia.
Thứ ba, việc không coi trọng liệu một công ty thuộc thế giới thứ 3
là công ty cổ phần với các tập đoàn đa quốc gia hay độc lập, nó thường
không có ưu thế trong các tiến trình ký kết. Landsberg chỉ ra rằng các tập
đoàn đa quốc gia luôn luôn ghi nhớ quá trình điều hành phức tạp trong toàn
bộ tiến trình (nghiên cứu, thiết kế, quá trình vận chuyển, kho hàng và tiếp
thị). Vì thế các công ty thuộc thế giới thứ 3 phụ thuộc vào TNCs trong việc
cung cấp các nguyên liệu đầu vào, công nghệ hiện đại, dịch
vụ và sự hỗ trợ kỹ thuật, xâm nhập thị trường và xuất khẩu trực tiếp.
Một điều không thể cho thế giới thứ 3 là đạt được nền công nghiệp hoá tự

20
chủ của các nước TBCN dưới sự phụ thuộc trong điều kiện hợp đồng quốc
tế.
Thứ tư, Landsberg chỉ ra rằng các nước nhóm B cũng đang cố gắng
nâng cấp và hoàn thành chỉ tiêu xuất khẩu để xây dựng nền tảng công
nghiệp hoá. Landsberg rất bi quan về khả năng thành công của họ bởi vì các
tập đoàn đa quốc gia đang giữ sức mạnh để xây dựng lại những hợp đồng từ

những nước nhóm B ở Đông Á với các nước ở Nam Á, Châu Phi và Trung
Mỹ. Để cạnh tranh trong hợp đồng, nhiều nước ở thế giới thứ 3 đã đưa ra
thuế du lịch, thẻ tín dụng bao cấp, tỷ lệ tiền thưởng và mặt hàng nhập khẩu
giảm thuế. Một số nước thậm chí còn hài lòng khi chính phủ gia nhập tự do
thương mại khu vực với các nước TBCN nước ngoài. Landsberg đoán rằng
sau khi mất đi một số các hợp đồng thì sẽ có một sự thiết lập mới .
II/ . Sức mạnh của trường phái sự phụ thuộc
Ba nghiên cứu thực nghiệm đã thảo luận ở trên đại diện cho quan
điểm của sự phụ thuộc về việc nghiên cứu phát triển Thế giới thứ ba? Đó là
sức mạnh của trường phái sự phụ thuộc
Phụ thuộc như là một điều kiện áp đặt từ bên ngoài. Cách nhìn của các
nhà nghiên cứu trong trường phái sự phụ thuộc chỉ ra quá trình mà nước
ngoài thống trị đã hình sự phát triển của các nước thứ ba thế giới. Ví dụ,
Baran nghiên cứu cách thực dân Anh gây lên sự kém phát triển của Ấn Độ
thông qua bóc lột, bòn rút, đàn áp, đặt ra các thứ thuế. Về vấn đề của cái bẫy
nợ, phụ thuộc các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng sau khi các quốc gia Mỹ
Latinh đã vay tiền từ Ngân hàng Thế giới, IMF, và các ngân hàng phương
Tây, họ đứng dưới sự kiểm soát chặt chẽ của các tổ chức tài chính.
Landsberg lập luận rằng các TNCs, thông qua các chính sách của “hợp đồng

21
gia công” giữ lại toàn quyền điều khiển các nghiên cứu, thiết kế, vận
chuyển, và tiếp thị của làn sóng mới của công nghiệp hóa ở Đông Á.
Phụ thuộc như là một điều kiện kinh tế. Phụ thuộc xuất hiện trong quá
trình trao đổi bất bình đẳng về kinh tế, các nhà nghiên cứu của trường phái
sự phụ thuộc đã chỉ ra hệ quả kinh tế của phụ thuộc. Vì vậy, hệ quả chính trị
và văn hóa của các nước phụ thuộc đực coi như hậu quả tự nhiên của các hệ
quả của nền kinh tế bị phụ thuộc. Ví dụ, hệ quả của nền kinh tế thực dân
(như xuất khẩu nông nghiệp, và chuyển giao các thặng dư kinh tế) đã đặt nền
tảng cho tầng lớp khách hàng ở Ấn Độ. Trong đương đại Mỹ Latin, cuộc

khủng hoảng nợ đã dẫn tới sự mất giá của tiền tệ trong nước, tăng lạm phát,
giảm GNP, và thất nghiệp, kéo theo là sự bất ổn chính trị và xã hội.
Landsberg mô tả nguồn gốc kinh tế công nghiệp Đông Á gần đây là do nêu
bật các yếu tố như chi phí lao động cao ở các nước tư bản tiên tiến, đổi mới
công nghệ mới về vận chuyển và giao tiếp, và năng suất cao và mức lương
thấp ở các bang Đông Á.
Phụ thuộc đối lập với sự phát triển. Các lý thuyết cổ điển phụ thuộc là
điều kiện của họ trong phân định hiệu ứng có hại của sự phụ thuộc vào các
nước thứ ba thế giới. Các nhà nghiên cứu cho rằng sự phát triển, tự trị ở các
nước thế giới thư ba là không thể. Vì vậy Baran lập luận rằng những tồn tại
lịch sử của chủ nghĩa thực dân vẫn còn ám ảnh sự phát triển hiện nay của Ấn
Độ. Vay tiền từ ngân hàng phương Tây chỉ trầm trọng hơn vấn đề phụ thuộc
tài chính của các nước Mỹ Latin, càng hỗn loạn về kinh tế và bất ổn về chính
trị.
III/ . Những phê phán với những nghiên cứu cổ điển. Trường phái sự
phụ thuộc
Quan điểm phụ thuộc đã là chủ đề của rất nhiều lời chỉ trích kể từ năm
1970. Các nhà phê bình không hài lòng với các phương pháp và khái niệm

22
của phụ thuộc, hoặc với những hàm ý chính sách của các nghiên cứu phụ
thuộc.
Trường phái sự phụ thuộc nổi lên như là một lời phê phán với trường
phái hiện đại hóa, nó lên án nghiên cứu của HĐH đã cung cấp tư tưởng biện
minh cho các nước phương Tây để khai thác nước Thế giới thứ ba. Đáp lại
lời chỉ trích này, các nhà lý thuyết hiện đại hóa phản bác quan điểm của
trường phái sự phụ thuộc như là một đoạn tuyên truyền của các nghiên cứu
chủ nghĩa Mác, cách mạng phụ thuộc chỉ có trong lý thuyết hơn là xảy ra
trong thực tế. Thay vì cung cấp một phân tích khoa học của những gì đã thực
sự xảy ra ở các nước thế giới thứ ba, mà đó lại là những quan điểm chung

chung và trừu tượng. Khái niệm về sự phụ thuộc đã trở thành một mục đích
giải thích cho tất cả mọi thứ.
a, Các khái niệm về sự phụ thuộc
Quá nhấn mạnh vào yếu tố bên ngoài, bỏ qua vai trò của các yếu tố
trong nước như mâu thuẫn giai cấp và nhà nước
Cho rằng nhà nước và các giai cấp trong nước không có khả năng
thoát khỏi sự phụ thuộc vào nước ngoài
Cố gắng tạo ra một bức tranh thiếu chính xác về sự bị động của các
nước thế giới thứ ba
b, Về hàm ý chính sách
Sự phụ thuộc không hẳn đã bất lợi cho sự phát triển của các nước thế
giới thứ ba
Sự loại bỏ sự phụ thuộc vào các nước phát triển liệu có đem lại sự
phát triển cho các nước thế giới thứ ba?

23
IV/. Kết luận.
Qua tìm hiểu về quan điểm, cách tiếp cận và những nghiên cứu cổ
điển của trường phái sự phụ thuộc như Baran nghiên cứu về chủ nghĩa thực
dân ở Ấn Độ, các tác giả của tạp chí Monthly Review về cái bẫy nợ nước
ngoài của các nước châu Mĩ Latinh, Landsberg về chủ nghĩ thực dân kiểu
mới ở các nước Đông Á. Nội dung nghiên cứu khác nhau, nhưng mỗi nghiên
cứu đều có ưu nhược điểm của nó. Có thể nghiên cứu này đúng với quốc gia
này nhưng lại không đúng với quốc gia khác. Tuy những nghiên cứu đó có
những điểm hạn chế như thiếu hàm lượng khoa học, chung chung và trìu
tượng nhưng lại không hẳn đã là bất lợi cho sự phát triển của các nước thế
giới thứ ba. Vì vậy, cần phải biết lựa chọn đúng đắn những lợi ích của nó để
phù hợp với từng hoàn cảnh lịch sử cũng như định hướng của từng quốc gia.
Thankyou very much!


24

×