Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông đến sự lựa chọn nghề của học sinh lớp 12 là người dân tộc thiểu số tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (962.27 KB, 117 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i
§¹i häc th¸i nguyªn
tr-êng ®¹i häc s- ph¹m
––––––––––––




KIỀU THU PHƢƠNG




ẢNH HƢỞNG CỦA CÁC PHƢƠNG TIỆN
TRUYỀN THÔNG ĐẾN SỰ LỰA CHỌN NGHỀ
CỦA HỌC SINH LỚP 12 NGƢỜI DÂN TỘC
THIỂU SỐ TỈNH THÁI NGUYÊN



LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC











THÁI NGUYÊN - 2011


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii
§¹i häc th¸i nguyªn
tr-êng ®¹i häc s- ph¹m
––––––––––––



KIỀU THU PHƢƠNG



ẢNH HƢỞNG CỦA CÁC PHƢƠNG TIỆN
TRUYỀN THÔNG ĐẾN SỰ LỰA CHỌN NGHỀ
CỦA HỌC SINH LỚP 12 NGƢỜI DÂN TỘC
THIỂU SỐ TỈNH THÁI NGUYÊN

Chuyên ngnh: Giáo dục học
Mã số: 60.14.01



LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC



Ngƣờ i hƣớ ng dẫ n khoa họ c: GS. TSKH Nguyễ n Văn Hộ







THÁI NGUYÊN - 2011

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào. Mọi sự giúp đỡ đều được cảm ơn. Các thông tin trích dẫn trong luận văn
được chỉ rõ nguồn gốc.

Tác giả


Kiều Thu Phƣơng



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ii
LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Sau Đại học,
khoa Tâm lý - Giáo dục trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã
tạo điều kiện, giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn GS.TSKH Nguyễn Văn Hộ, thầy
giáo đã giảng dạy và trực tiếp hướng dẫn trong suốt quá trình nghiên cứu và
hoàn thành luận văn.
Xin gửi lời cảm ơn tới Ban Giám hiệu, các thầy, cô giáo và các em học
sinh lớp 12 (khoá 2008 - 2011) các trường PT DTNT Thái Nguyên, THPT
Định Hoá, THPT Võ Nhai đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi điều tra,
khảo sát, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Dù đã có nhiều cố gắng, nhưng chắc chắn luận văn sẽ không tránh khỏi
những thiếu sót và hạn chế. Vì vậy, rất mong được sự góp ý, chỉ dẫn của các
thầy, cô giáo và bạn bè đồng nghiệp.

Thái Nguyên, tháng 9 năm 2011


Kiều Thu Phƣơng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1

2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 2
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 2
5. Giả thuyết khoa học 3
6. Phương pháp nghiên cứu 3
6.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết 3
6.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn 3
6.3. Nhóm các phương pháp bổ trợ 3
7. Phạm vi, giới hạn nghiên cứu 3
7.1. Phạm vi nội dung 3
7.2. Phạm vi khảo sát 3
8. Đóng góp mới của đề tài 4
9. Cấu trúc luận văn 4
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VẤN ĐỀ CHỌN NGHỀ CỦA HỌC SINH
LỚP 12 NGƢỜI DTTS DƢỚI ẢNH HƢỞNG CỦA CÁC
PHƢƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG 5
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 5
1.1.1. Sơ lược lịch sử nảy sinh công tác hướng nghiệp 5
1.1.2. Công tác hướng nghiệp trong các nước Tư bản chủ nghĩa 6
1.1.3. Công tác hướng nghiệp trong các nước xã hội chủ nghĩa 7
1.1.4. Công tác hướng nghiệp ở Việt Nam 8
1.2. Các khái niệm cơ bản 9
1.2.1. Hướng nghiệp 9
1.2.2. Nghề nghiệp 10

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iv
1.2.3. Sự phù hợp nghề 11
1.2.4. Lựa chọn nghề và những tính chấ́t của lựa chọn nghề 12

1.2.5. Truyền thông và truyền thông đại chúng 14
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề của học sinh
Trung học phổ thông 16
1.3.1. Những đặc điểm lứa tuổi học sinh THPT 16
1.3.1.1. Những đặc điểm cơ bản về tâm lý và nhân cách của HS THPT 16
1.3.1.2. Sự hình thành thế giới quan 19
1.3.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề của học sinh
cuối cấp THPT 20
1.3.2.1. Yếu tố gia đình 20
1.3.2.2. Yếu tố giáo dục hướng nghiệp của nhà trường: 21
1.3.2.3. Yếu tố bạn bè 22
1.3.2.4. Yếu tố các phương tiện truyền thông và các tổ chức XH 22
1.4. Đặc điểm của học sinh dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên 23
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG CHỌN NGHỀ CỦA HỌC SINH LỚP 12
NGƢỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH THÁI NGUYÊN DƢỚI
ẢNH HƢỞNG CỦA CÁC PHƢƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG 25
2.1. Vài nét về khách thể điều tra 25
2.2. Thực trạng sự lựa chọn nghề của học sinh lớp 12 là người dân tộc
thiểu số tỉnh Thái Nguyên dưới ảnh hưởng của các phương tiện
truyền thông 26
2.2.1. Thực trạng nhận thức về ảnh hưởng của các phương tiện
truyền thông đến sự lựa chọn nghề của học sinh lớp 12 người
dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên 26
2.2.2. Ý kiến của giáo viên làm công tác hướng nghiệp về sự lựa
chọn nghề của học sinh lớp 12 là người dân tộc thiểu số dưới
ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông 57
2.2.3. Ý kiến của cha, mẹ đối với việc lựa chọn nghề nghiệp của HS
lớp 12 hiện nay 66
2.3. Kết luận chương 2 67


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

v
Chƣơng 3. CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
HƢỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH LỚP 12 NGƢỜI
DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH THÁI NGUYÊN DƢỚI ẢNH
HƢỞNG CỦA CÁC PHƢƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG 69
3.1. Những cơ sở có tính nguyên tắc để xây dựng biện pháp 69
3.1.1. Nghiên cứu, xây dựng các biện pháp phải đảm bảo tính mục
đích của giáo dục hướng nghiệp 69
3.1.2. Nghiên cứu xây dựng các biện pháp phải đảm bảo sự phù hợp
với những đặc điểm tâm lý và nhân cách của HS PT 69
3.1.3. Nghiên cứu xây dựng các biện pháp phải đảm bảo sự phân
hoá, cá biệt hoá HS trong hoạt động hướng nghiệp 70
3.1.4. Nghiên cứu xây dựng các biện pháp phải đảm bảo tính hệ
thống trong hoạt động GDHN 70
3.1.5. Nghiên cứu xây dựng các biện pháp theo quan điểm tiếp cận
hoạt động và nhân cách 71
3.1.6. Nghiên cứu xây dựng các biện pháp phải đảm bảo tính khả thi 71
3.2. Các biện pháp tổ chức hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học
sinh lớp 12 người dân tộc thiểu số dưới ảnh hưởng của các PTTT 72
3.2.1. Xây dựng bài học có nội dung giới thiệu về những lĩnh vực
nghề nghiệp có sử dụng các phương tiện truyền thông 72
3.2.2. Tổ chức buổi toạ đàm trên lớp với chủ đề “Internet với nghề
nghiệp và lựa chọn nghề nghiệp” 74
3.2.3. Tổ chức cho HS tìm hiểu thông tin nghề nghiệp qua bản tin,
phóng sự truyền hình hay một đoạn video 75
3.2.4. Tổ chức hội nghị để trao đổi với cha mẹ học sinh về nghề
nghiệp tương lai của con em họ 76
3.2.5. Lập hồ sơ hướng nghiệp chi tiết cho mỗi HS 78


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

vi
3.3. Khảo nghiệm các biện pháp trên cơ sở lấy ý kiến chuyên gia 80
3.3.1. Mục đích khảo nghiệm 80
3.3.2. Đối tượng khảo nghiệm 80
3.3.3. Quá trình tiến hành khảo nghiệm 80
3.3.4. Kết quả khảo nghiệm 80
3.4. Kết luận chương 3 85
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 86
1. Kết luận 86
2. Khuyến nghị 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO 90
PHỤ LỤC

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

vii
CÁC TỪ VÀ CỤM TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CNH - HĐH
DTTS
ĐH, CĐ, THCN
GDHN
GV
HS
GD - ĐT
HS THCS
HS THPT

PT DTNT
TT
PTTT
NXB
TB
XH
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá
Dân tộc thiểu số
Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp
Giáo dục hướng nghiệp
Giáo viên
Học sinh
Giáo dục và đào tạo
Học sinh trung học cơ sở
Học sinh trung học phổ thông
Phổ thông dân tộc nội trú
Truyền thông
Phương tiện truyền thông
Nhà xuất bản
Trung bình
Xã hội


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

viii
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Nhận thức của học sinh lớp 12 người DTTS về tầm quan
trọng của công tác hướng nghiệp trong trường THPT 26

Bảng 2.2: Nhận thức của học sinh lớp 12 người DTTS về mục đích
của hoạt động hướng nghiệp trong trường phổ thông 27
Bảng 2.3: Hiểu biết của học sinh lớp 12 người DTTS về các PTTT 28
Bảng 2.4: Mức độ sử dụng các PTTT để tìm hiểu thông tin nghề của
học sinh lớp 12 người DTTS 29
Bảng 2.5: Lĩnh vực học sinh lớp 12 người DTTS quan tâm trên các
phương tiện truyền thông 33
Bảng 2.6: Mức độ quan tâm của học sinh lớp 12 người DTTS với
những nội dung trên các PTTT 35
Bảng 2.7: Những vấn đề HS lớp 12 người DTTS quan tâm khi lựa
chọn nghề nghiệp 38
Bảng 2.8: Mức độ cung cấp thông tin nghề cho học sinh lớp 12 người
DTTS thông qua các PTTT tại địa phương 41
Bảng 2.9: Mức độ ảnh hưởng của từng PTTT đến việc chọn nghề 44
Bảng 2.10: Lí do lựa chọn nghề nghiệp của HS lớp 12 người DTTS khi
tìm hiểu thông tin nghề trên các PTTT 46
Bảng 2.11: Mức độ ưu tiên lựa chọn các ngành nghề (nhóm nghề) của
HS lớp 12 người DTTS 48
Bảng 2.12: Nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn nghề nghiệp của học
sinh lớp 12 người DTTS 52
Bảng 2.13: Những khó khăn HS lớp 12 gặp phải khi lựa chọn nghề nghiệp 54
Bảng 2.14: Quyết định lựa chọn nghề của học sinh lớp 12 người DTTS 56

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ix
Bảng 2.15: Thực tế và hiệu quả của việc tổ chức GDHN trong trường
PT theo sự đánh giá của giáo viên 58
Bảng 2.16: Những nhân tố tác động đến lựa chọn nghề nghiệp của HS
lớp 12 người DTTS theo ý kiến của giáo viên 60

Bảng 2.17: Ý kiến đánh giá của giáo viên về thông tin nghề nghiệp trên
các PTTT 62
Bảng 2.18: Những vấn đề HS lớp 12 quan tâm khi lựa chọn nghề
nghiệp theo sự đánh giá của giáo viên 62
Bảng 2.19: Những nghề (nhóm nghề) được HS lớp 12 ưu tiên lựa chọn
theo sự đánh giá của giáo viên 63
Bảng 2.20: Mức độ cung cấp thông tin hướng nghiệp của nhà trường
trên các PTTT 64
Bảng 4.1: Đánh giá của chuyên gia về sự phù hợp của những cơ sở có
tính nguyên tắc trong việc nghiên cứu xây dựng các biện pháp 81
Bảng 4.2: Đánh giá của chuyên gia về sự phù hợp của các biện pháp 82
Bảng 4.3: Đánh giá của chuyên gia về mức độ hợp lý của các bước
tiến hành những biện pháp 83
Bảng 4.4: Đánh giá của chuyên gia về mức độ khả thi của các biện pháp 84

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
(CNH - HĐH), thời kỳ của sự hội nhập. Bởi vậy, nhằm đáp ứng những yêu
cầu của xã hội hiện đại, con người phải được coi là nhân tố cốt lõi, nhân tố
trung tâm và cần phải có được những điều kiện tốt nhất để phát huy tối đa khả
năng sáng tạo của mình.
Muốn phát triển nguồn nhân lực, nhất thiết phải dựa vào giáo dục - đào
tạo nên trong nghị quyết hội nghị lần thứ II Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII đã nhấn mạnh: “Muốn tiến hành CNH - HĐH thắng lợi phải phát
triển mạnh giáo dục đào tạo và phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản
của sự phát triển nhanh và bền vững”. Như vậy, có thể thấy hoạt động dạy

học - giáo dục cùng công tác hướng nghiệp của nhà trường phổ thông có tác
dụng to lớn đối với việc đào tạo nguồn nhân lực vì thực chất hướng nghiệp
không chỉ đơn thuần là định hướng nghề nghiệp cho mỗi cá nhân học sinh đi
theo một nghề định trước mà hướng nghiệp được hiểu là tạo điều kiện để các
em khám phá và phát huy những năng lực của bản thân đóng góp tốt nhất cho
xã hội trong quá trình lao động.
Hiện nay, sự bùng nổ thông tin và sự phát triển mạnh của các PTTT đó
tác động đến nhận thức của học sinh lớp 12 bởi qua các PTTT, học sinh lớp 12
có thể tìm hiểu các lĩnh vực của cuộc sống; trong đó có vấn đề lựa chọn nghề.
Những thông tin nghề trên các PTTT rất phong phú, đa dạng. Bởi vậy thông
qua các PTTT, học sinh lớp 12 sẽ có những căn cứ để chọn nghề phù hợp.
Xuất phát từ những đặc điểm của vùng dân tộc: Do quan niệm về nghề
còn nhiều hạn chế nên chưa phát triển nhiều loại hình nghề, mặt khác những
thông tin nghề đến với học sinh lớp 12 người dân tộc còn nhiều hạn chế…
khiến cho việc lựa chọn nghề của các em gặp nhiều khó khăn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
Từ thực trạng trên, với mong muốn tìm hiểu ảnh hưởng của các PTTT
đến việc chọn nghề của học sinh lớp 12 người DTTS, cũng như đề xuất một
số ý kiến giúp nhà trường có những biện pháp tí́ ch cực trong việc sử dụng một
số phương tiện truyền thông nhằm cung cấp những thông tin về nghề cho học
sinh lớp 12 nên tôi đã chọn đề tài: “Ảnh hưởng của các phương tiện truyền
thông đến sự lựa chọn nghề của học sinh lớp 12 là người dân tộc thiểu số
tỉnh Thái Nguyên”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về các tác động
tới sự lựa chọn nghề của học sinh sẽ làm sáng tỏ những ảnh hưởng của các
phương tiện truyền thông trong việc chọn nghề của học sinh lớp 12 là người

dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên.
3. Khách thể v đối tƣợng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình lựa chọn nghề của học sinh
- Đối tượng nghiên cứu: Ảnh hưởng của phương tiện truyền thông đến sự
lựa chọn nghề của học sinh lớp 12 là người dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về ảnh hưởng của phương tiện truyền
thông đến sự lựa chọn nghề của học sinh lớp 12 là người dân tộc thiểu số Tỉnh
Thái Nguyên.
4.2. Nghiên cứu thực trạng việc lựa chọn nghề của học sinh lớp 12 là
người dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên dưới ảnh hưởng của các phương tiện
truyền thông.
4.3. Đề xuất các biện pháp sử dụng PTTT hỗ trợ cho công tác giáo dục
hướng nghiệp trong trường phổ thông.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
5. Giả thuyết khoa học
Có thể nâng cao hiểu biết về lựa chọn nghề cho học sinh cuối cấp
THPT Tỉnh Thái Nguyên bằng việc đưa ra các biện pháp tận dụng các yếu tố
tích cực do phương tiện truyền thông mang lại.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết, hệ thống hóa
và khái quát hóa lý thuyết trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu lý thuyết từ đó rút
ra các kết luận khoa học làm cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu thực trạng và
đề xuất các biện pháp của đề tài.
6.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
* Phương pháp quan sát

* Phương pháp điều tra
* Phương pháp trao đổi, trò chuyện
* Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
* Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
6.3. Nhóm các phương pháp bổ trợ
* Phương pháp thống kê toán học
* Sử dụng phần mềm
7. Phạm vi, giới hạn nghiên cứu
7.1. Phạm vi nội dung
Nghiên cứu ảnh hưởng của phương tiện truyền thông đến sự lựa chọn
nghề của học sinh cuối cấp THPT.
7.2. Phạm vi khảo sát
Căn cứ vào điều kiện và khả năng thực hiện đề tài, tôi đi sâu vào
nghiên cứu sự lựa chọn nghề của học sinh lớp 12 là người dân tộc thiểu số
dưới ảnh hưởng của phương tiện truyền thông tại một số trường trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
8. Đóng góp mới của đề tài
Giúp học sinh lớp 12 người DTTS thấy được tầm quan trọng của PTTT
với việc chọn nghề, đồng thời đưa ra một số biện pháp thay đổi thực trạng
chọn nghề của các em hiện nay.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, các tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận vấn đề chọn nghề của học sinh lớp 12 người
DTTS tỉnh Thái Nguyên dưới ảnh hưởng của các PTTT.
Chương 2: Thực trạng sự lựa chọn nghề của học sinh lớp 12 người
DTTS tỉnh Thái nguyên dưới ảnh hưởng của các PTTT

Chương 3: Các biện pháp tổ chức hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho
học sinh lớp 12 người DTTS tỉnh Thái Nguyên dưới ảnh hưởng của các PTTT.
Kết luận và khuyến nghị.















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VẤN ĐỀ CHỌN NGHỀ CỦA
HỌC SINH LỚP 12 NGƢỜI DTTS DƢỚI ẢNH HƢỞNG
CỦA CÁC PHƢƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Sơ lược lịch sử nảy sinh công tác hướng nghiệp
Vào giữa thế kỷ 19, hệ thống nghề nghiệp khá phức tạp, sự chuyên môn
hóa đã đạt tới mức độ cao hơn so với giai đoạn giai đoạn sản xuất nông
nghiệp và thủ công nghiệp. Thời điểm này, ở Pháp xuất hiện cuốn sách

“hướng dẫn chọn nghề” với nội dung đề cập tới vấn đề phát triển đa dạng của
nghề nghiệp do sự phát triển công nghiệp và việc nhất thiết phải giúp đỡ
thanh niên trong việc chọn nghề nhằm sử dụng có hiệu quả năng lực lao động
của thế hệ trẻ.
Thời gian này, các phòng nghiệp với chức năng tư vấn chọn nghề đã
được thành lập ở nhiều nước như: Anh, Pháp, Mĩ… Tại đây, người ta thường
dùng trắc nghiệm Test để xác định khả năng thích ứng của con người với
những nghề đang có nhu cầu tuyển lao động.
Thực tế cho thấy, để có được sự tuyển chọn chính xác nguồn lao động
thì cần phải đưa hướng nghiệp vào trường phổ thông. Muốn làm được việc
này, phải đào tạo những giáo viên hướng nghiệp - đó là những giáo viên có
nhiệm vụ theo dơi sự phát triển của trẻ em, khả năng phù hợp nghề của chúng,
giúp trẻ em định hướng lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai.
Trong lịch sử, trong các nhà trường phổ thông của nhiều nước trên thế
giới đã xuất hiện loại hình giáo viên: “giáo viên hướng nghiệp”, ở một số
nước xã hội chủ nghĩa hướng nghiệp không chỉ là nhiệm vụ của riêng giáo
viên hướng nghiệp mà còn là nhiệm vụ của giáo viên bộ môn, giáo viên chủ
nhiệm, cán bộ lãnh đạo - quản lý trường học…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
1.1.2. Công tác hướng nghiệp trong các nước Tư bản chủ nghĩa
Việc hướng dẫn thanh thiếu niên chọn nghề ở các nước tư bản chủ
nghĩa không vì quyền lợi lao động của thế hệ trẻ mà nhằm vào việc bóc lột
thặng dư giá trị. Với tính chất đó, công tác hướng hướng nghiệp ở các nước tư
bản đã hướng và buộc con em người lao động phục vụ cho lợi ích riêng của
nhà tư bản.
Công tác hướng nghiệp ở các nước tư bản là công cụ để thực hiện quan
điểm không để nam - nữ bình đẳng trong việc lựa chọn nghề nghiệp (ở các

nước Anh, Pháp Mĩ… hạn chế nữ công nhân, nữ nhân viên trong nhiều nghề kỹ
thuật và họ được sử dụng trong các nghề dịch vụ, văn phòng và những công
việc đơn giản, tay nghề thấp hoặc không cần có sự chuẩn bị nghề nghiệp). Vì
vậy, có sự phân hóa chương trình học tập ở trường phổ thông với nam và nữ rồi
từ đó tiến hành công tác hướng nghiệp đã làm cho các em không bình đẳng về
những điều kiện chọn nghề. Còn nếu người ta hướng các em nam và nữ vào
cùng một nghề thì ngay sau đó sự không bình đẳng vẫn diễn ra (lao động nữ
được trả rẻ mạt hơn lao động nam mặc dù năng suất lao động như nhau).
Công tác hướng nghiệp ở các nước tư bản chủ nghĩa không dựa trên
cơ sở giáo dục toàn diện nhân cách cho người lao động. Việc tuyển chọn lao
động thường dựa trên trắc nghiệm vì họ chú trọng sự thích ứng của nhân
cách với những phương tiện, điều kiện lao động của nhà máy, xí nghiệp. Khi
đánh giá phương pháp sản xuất Taylo, V.I. Lênin đã phê phán sự đào tạo
phiến diện người lao động nhằm thích ứng với công việc đơn điệu, đồng thời
ông cũng nhận xét hệ thống dây truyền Taylo thực chất là hệ thống ép mồ
hôi người lao động.
Hiện nay, nội dung giáo dục hướng nghiệp trong các trường trung học
của Pháp được phân hóa theo nhiều phân ban hẹp trong đó phần lớn là các
ban kỹ thuật - công nghệ đào tạo kỹ thuật viên. Kế hoạch dạy học ở các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
chuyên ban kỹ thuật - công nghệ bao gồm nhiều môn văn hóa phổ thông và kỹ
thuật nghề nghiệp theo tỷ lệ khoảng 50/50. Việc cải cách chương trình giáo
dục công nghệ ở Pháp nhằm hoàn thiện hệ thống giáo dục kỹ thuật công nghệ
ở tất cả các bậc học, làm cho nội dung giáo dục công nghệ phù hợp với từng
giai đoạn giáo dục và trình độ phát triển khoa học kỹ thuật.
1.1.3. Công tác hướng nghiệp trong các nước xã hội chủ nghĩa
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền lợi của người lao động thống nhất

với quyền lợi của Nhà nước và̀ t ập thể nên công tác hướng nghiệp trong các
nước XHCN phải góp phần vào việc làm thỏa măn nhu cầu nhân lực của các
ngành sản xuất trong nền kinh tế quốc dân trên cơ sở tính đến hứng thú,
nguyện vọng, năng lực, sở trường của con người.
Nhà tâm lý giáo dục học người Nga N. K. Crupxkaia đã nêu lên luận
điểm “tự do chọn nghề” cho mỗi thanh, thiếu niên: Thông qua hướng nghiệp,
mỗi trẻ em đề phải nhận thức sâu sắc hướng phát triển kinh tế của đất nước,
những nhu cầu của nền sản xuất cần được thỏa măn; những nhiệm vụ của
thanh, thiếu niên phải đáp ứng được yêu cầu mà xã hội đề ra. Mặt khác, công
tác hướng nghiệp phải giúp các em phát triển được hứng thú và năng lực nghề
nghiệp, giáo dục cho các em có thái độ lao động đúng đắn, động cơ chọn nghề
trong sáng. Từ đó, thanh - thiếu niên có thái độ tự giác trong việc chọn nghề.
Trên cơ sở các luận điểm về hướng nghiệp của C.Mac, V.I.Lênin và các
nhà giáo dục Liên xô như: B.F. Kapeep, X.Ia Batusep… trong các tác phẩm và
công trình nghiên cứu của mình đã chỉ ra mối quan hệ giữa hướng nghiệp và
các hoạt động sản xuất xã hội, và nếu sớm thực hiện giáo dục hướng nghiệp
cho thế hệ trẻ thì đó là cơ sở để họ chọn nghề đúng đắn, có sự phù hợp giữa
năng lực, sở thích cá nhân với nhu cầu xã hội. Đồng thời các tác giả này cũng
đã trình bày những nguyên tắc, phương pháp thực hành lao động nghề nghiệp
cho học sinh phổ thông tại các cơ sở học tập - lao động liên trường.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
Tại Trung Quốc khuyến khích giáo dục suốt đời một cách tích cực và
hiện nay, giáo dục dựa trên cộng đồng đang được phát triển mạnh mẽ. Trong
chương trình giảng dạy thường có các môn học tự chọn với mục tiêu trang bị
cho học sinh những kiến thức và kỹ năng chuyên môn cần thiết để học sinh có
khả năng tham gia lao động nghề nghiệp ở các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác
nhau hoặc tiếp tục học học lên trình độ nghề nghiệp cao hơn ở bậc Đại học.

1.1.4. Công tác hướng nghiệp ở Việt Nam
Giáo dục hướng nghiệp ở Việt nam là một ngành non trẻ cả về lý luận
và thực tiễn. Cho đến những năm 1970, giáo dục hướng nghiệp cho học sinh
chủ yếu chỉ dừng lại ở các quan điểm, chỉ thị nên chưa có được những công
trình nghiên cứu khoa học thực sự.
Vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX, Đảng và Nhà nước rất quan tâm
đến công tác hướng nghiệp. Quyết định 126/CP ngày 19/3/1981 của Chính
phủ đã tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển của công tác hướng nghiệp -
nhất là hướng nghiệp cho học sinh phổ thông. Trong văn kiện Đại hội Đảng
lần thứ IX ghi rõ: “Coi trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh
trung học, chuẩn bị cho thanh niên, thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp
phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước và từng địa
phương”. Luật giáo dục 2005 đã khẳng định: Giáo dục THPT nhằm giúp cho
học sinh củng cố và phát triển những kết quả của Trung học cơ sở, hoàn thiện
học vấn để tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học nghề nghiệp, học nghề,
và đi vào cuộc sống lao động”…
Về mặt nghiên cứu khoa học ở Việt Nam, theo các chuyên gia ngành
hướng nghiệp Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ vào những năm
1970, 1980. Những nhà khoa học tiên phong trong lĩnh vực này phải kể đến GS
Phạm Tất Dong, PGS Đặng Văn Ánh, Phạm Huy Thụ, GS Nguyễn Văn Hộ,…
Các tác giả đó tập trung làm rõ các vấn đề cơ bản của hoạt động hướng nghiệp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
trong nhà trường phổ thông: xác định mục đích, ý nghĩa, vai trò của hướng
nghiệp; cơ sở xã hội, kinh tế, tâm lý của giáo dục hướng nghiệp; hệ thống các
nguyên tắc, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức hướng nghiệp.
1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Hướng nghiệp

Có nhiều cách hiểu khác nhau về hướng nghiệp.
Các nhà tâm lý học cho rằng đó là hệ thống các biện pháp sư phạm, y
học giúp cho thế hệ trẻ chọn nghề có tính đến nhu cầu của xã hội và năng lực
của bản thân.
Các nhà kinh tế học cho rằng đó là những mối quan hệ kinh tế giúp cho
mỗi thành viên xã hội phát triển năng lực đối với lao động và đưa học vào
một lĩnh vực hoạt động cụ thể phù hợp với việc phân bố lực lượng lao động
xã hội.
Nhà tâm lý học K. K. Platônốp cho rằng: “Hướng nghiệp, đó là hệ
thống các biện pháp tâm lý - giáo dục, y học nhằm giúp cho con người đi vào
cuộc sống thông qua việc lựa chọn cho mình một nghề nghiệp vừa đáp ứng
nhu cầu xuất hiện, vừa phù hợp với hứng thú, năng lực của bản thân. Những
biện pháp này sẽ tạo nên sự thống nhất giữa quyền lợi của XH với quyền lợi
của cá nhân”.
Viện sĩ X. Ia. Batưsép xác định: “Hướng nghiệp là một hoạt động hợp
lý gắn với sự hình thành ở thế hệ trẻ hứng thú và sở thích nghề nghiệp vừa
phù hợp với những năng lực cá nhân, vừa đáp ứng đòi hỏi của xã hội đối với
nghề này hay nghề khác”.
Theo GS. TS. Phạm Tất Dong, khái niệm hướng nghiệp được hiểu trên
hai bình diện:
* Trên bình diện xã hội: hướng nghiệp như là một hệ thống tác động
của xã hội về giáo dục, y học, xã hội học, kinh tế học nhằm giúp cho thế hệ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
trẻ chọn được nghề vừa phù hợp với hứng thú, năng lực, nguyện vọng, sở
trường của cá nhân, vừa đáp ứng được nhu cầu nhân lực của các lĩnh vực sản
xuất trong nền kinh tế quốc dân.
* Trên bình diện trường phổ thông: Hướng nghiệp được coi là công

việc của tập thể giáo viên, tập thể sư phạm, có mục đích giáo dục học sinh
trong việc chọn nghề, giúp các em tự quyết định nghề nghiệp tương lai trên cơ
sở phân tích khoa học về năng lực, hứng thú của bản thân và nhu cầu nhân lực
của các ngành sản xuất trong xã hội.
Hội nghị lần thứ IX những người đứng đầu cơ quan giáo dục nghề
nghiệp các nước xã hội chủ nghĩa họp tại La Habana - Cu ba (Tháng 10/1980)
đã thống nhất về khái niệm hướng nghiệp như sau: “Hướng nghiệp là hệ
thống những biện pháp dựa trên cơ sở tâm lý học, sinh lý học, y học và nhiều
khoa học khác để giúp đỡ học sinh chọn nghề phù hợp với nhu cầu xã hội,
đồng thời thoả mãn tối đa nguyện vọng, thích hợp với những năng lực, sở
trường và tâm, sinh lý cá nhân, nhằm mục đích phân bố hợp lí và sử dụng có
hiệu quả lực lượng lao động dự trữ có sẵn của đất nước”.
Qua những quan điểm về khái niệm hướng nghiệp nêu trên, có thể hiểu,
dưới góc độ giáo dục phổ thông: Hướng nghiệp là sự tác động của một tổ hợp
các lực lượng xã hội, lấy sự chỉ đạo của một hệ thống sư phạm làm trung tâm
(nhà trường) vào thế hệ trẻ, giúp các em làm quen và hiểu biết về một số
ngành nghề phổ biến trong xã hội để khi tốt nghiệp ra trường, các em có thể
lựa chọn cho mình một cách có ý thức nghề nghiệp tương lai.
1.2.2. Nghề nghiệp
- Theo tác giả E. A. Klimôp: “Nghề nghiệp là một lĩnh vực sử dụng sức
mạnh vật chất và tinh thần của con người một cách có giới hạn, cần thiết cho
xã hội (do sự phân công lao động xã hội mà có), nó tạo cho mỗi con người
khả năng sử dụng lao động của mình để thu lấy những phương tiện cho việc
tồn tại và phát triển”.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
- Theo từ điển Tiếng việt: “Nghề là công việc chuyên môn làm theo sự
phân công lao động xã hội”.

- Từ những quan niệm trên ta hiểu:
Nghề nghiệp như một dạng lao động vừa mang tính xã hội(sự phân
công xã hội), vừa mang tính cá nhân (nhu cầu bản thân), trong đó con người
với tư cách là chủ thể hoạt động đ̣ i hỏi để thỏa măn những nhu cầu nhất định
của xã hội và cá nhân.
1.2.3. Sự phù hợp nghề
Một người được coi là phù hợp với một nghề nào đó khi ở họ có được
những phẩm chất đạo đức, trình độ văn hoá, năng lực chung và năng lực
riêng, tri thức, kĩ năng và tình trạng sức khoẻ đáp ứng được đòi hỏi do nghề
nghiệp đặt ra.
Người ta chỉ cần làm một số biện pháp nhằm đối chiếu những đặc
điểm tâm sinh lý của con người với hệ thống yêu cầu do nghề đặt ra mà kết
luận về mức độ phù hợp nghề của người đó. Sự phù hợp nghề thường thể
hiện ở 3 dấu hiệu:
* Bảo đảm tốc độ làm việc, tức là bảo đảm được yêu cầu về số lượng
công việc theo định mức lao động. Người ta có thể đo đếm được các động tác
lao động để kết luận về sự phù hợp nghề.
* Bảo đảm độ chính xác của công việc. Đây là yêu cầu về chất lượng sản
phẩm. Người lao động phải làm ra mặt hàng đúng quy cách, không có số lượng
phế phẩm quá con số cho phép, không để công cụ lao động bị hư hỏng
* Không bị công việc của nghề gây nên những độc hại cho cơ thể của
bản thân.
Mức độ hiệu quả hoạt động nghề nghiệp chịu sự chi phối của mức độ
sự phù hợp nghề. Thông thường, người ta chia làm 3 phần mức độ phù hợp
đối với một nghề đó là: Phù hợp hoàn toàn, phù hợp có mức độ và không phù

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
hợp. Trên thực tế, ít có ai sinh ra mà phù hợp với nghề này hay nghề khác mà

thường chỉ có những cơ sở ban đầu có khả năng phù hợp hay không phù hợp
với nghề nghiệp. Bởi vậy khó có sự phù hợp tuyệt đối với nghề (phù hợp hoàn
toàn), và để đạt tới mức độ này, bản thân mỗi người phải có sự rèn luyện để
hình thành cho mình những gì mà nghề nghiệp đòi hỏi.
Một khi học sinh chưa biết mình, chưa hiểu nghề thì đối với các em
nghề nào cũng có thể làm được nhưng không phải nghề nào cũng phù hợp.
Các nhà tâm lý học đã chứng minh được mỗi nghề đòi hỏi một trình độ phát
triển năng lực chung và những năng lực chuyên biệt cần thiết để thực hiện
thành công cho riêng nghề nghiệp đó. Đồng thời mỗi nghề còn có những yêu
cầu riêng về trạng thái sức khỏe, tâm lý của con người.
Có thể nói sự phù hợp nghề trước hết là phụ thuộc vào quá trình nhận
thức sâu sắc với nghề mình chọn để biết mình, biết nghề và sau đó là quá
trình tự rèn luyện để tạo sự phù hợp nghề là cơ sở để đảm bảo cho hoạt động
nghề đạt tới hiệu quả. Song, để làm cho sự phù hợp nghề có sự bền vững về
chất lượng là cả một quá trình khổ công học hỏi, hoàn thiện những gì đã có
thể làm cho những yêu cầu do nghề nghiệp đặt ra trở thành những đòi hỏi của
chính bản thân mình.
1.2.4. Lựa chọn nghề và những tính chấ́t của lựa chọn nghề
Việc lựa chọn nghề của học sinh là một quá trình lâu dài và phức tạp,
được biểu hiện ở các mức độ khác nhau ngay trong những lớp đầu của trường
THCS, được tiếp tục phát triển và hoàn thiện dần ở những lớp sau, nhất là ở
cuối cấp THPT, trong các trường, lớp dạy nghề và được tạm coi là kết thúc
khi họ đã có những khả năng lao động nghề nghiệp độc lập.
Với tư cách là một quá trình hoạt động, lựa chọn nghề nghiệp bao gồm
những tính chất cơ bản sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
* Tính chủ thể của quá trình lựa chọn

Quá trình lựa chọn nghề nghiệp của học sinh diễn ra với sự chi phối của
những mối quan hệ xã hội phức tạp (giữa học sinh với gia đình; học sinh với
tập thể lớp, trường, đoàn đội; học sinh với cộng đồng ). Những mối quan hệ
này tác động tới nhận thức, nhu cầu, động cơ, hứng thú, sở thích nghề nghiệp
của học sinh. Tuy nhiên để đi tới một quyết định lựa chọn nghề thì hầu hết đó
là quyết định do chính chủ thể đưa ra và khẳng định. Tỷ lệ ảnh hưởng của
những tác động khách quan tới sự lựa chọn trên mỗi cá nhân là nhiều ít khác
nhau, song quyết định cuối cùng của quá trình lựa chọn nghề bao giờ cũng
thuộc về một con người cụ thể.
* Tính khách thể của quá trình lựa chọn nghề:
Khi nói đến quá trình lựa chọn nghề là nói tới sự kết hợp giữa nhu cầu,
nguyện vọng cá nhân với yêu cầu do nghề nghiệp và xã hội đòi hỏi. Không
phải bất cứ nguyện vọng nghề nghiệp nào của chủ thể lựa chọn cũng được xã
hội chấp nhận. Trong xã hội mỗi cá nhân có một vị trí xác định, với vị trí đó,
cá nhân vừa được hưởng những quyền lợi đồng thời cũng cần có trách nhiệm
đối với cộng đồng và xã hội.
Mối quan hệ giữa quyền lợi và trách nhiệm trong lựa chọn nghề được
biểu hiện trong qua mối quan hệ giữa nguyện vọng cá nhân (tôi muốn) với đòi
hỏi về số lượng và chất lượng mà nhu cầu nguồn nhân lực hoạt động trong
các lĩnh vực nghề nghiệp đòi hỏi (tôi cần phải). Khi đó chủ thể của sự lựa
chọn trở thành đối tượng của sự lựa chọn. Phần chính yếu phụ thuộc vào
những gì có được nhờ vào hoạt động của chủ thể lựa chọn (tôi có thể).
* Tính mục đích của quá trình lựa chọn nghề:
Lựa chọn nghề là một hoạt động có đối tượng. Đối tượng ở đây chính
là những nghề mà học sinh sẽ chọn. Nghề được chọn trở thành mục đích hoạt
động của lựa chọn của học sinh. Để đạt tới mục đích, học sinh cần phải hiểu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14

rõ đối tượng (nghề). Sự hiểu biết này càng cặn kẽ sâu sắc, đầy đủ bao nhiêu
thì khả năng chiếm lĩnh nghề nghiệp càng nhanh chóng trở thành hiện thực
bấy nhiêu. Một khi đã hiểu rõ nghề nghiệp, học sinh sẽ dần thiết lập được kế
hoạch cụ thể, có những biện pháp, phương pháp thích hợp trong học tập, rèn
luyện để chiếm lĩnh được nghề lựa chọn ở những mức độ khác nhau. Việc xác
định mục đích cho sự lựa chọn nghề của học sinh là rất đa dạng và phức tạp.
Muốn xác định được nghề sẽ chọn phù hợp với mình, ngoài việc hiểu biết về
nghề đó, học sinh phải tự hiểu mình. Chỉ có trên cơ sở này, bản thân học sinh
mới đáp ứng với những yêu cầu của nghề nghiệp.
* Tính cấu trúc của quá trình lựa chọn nghề:
Trong quá trình tồn tại và phát triển, giai đoạn lựa chọn nghề được coi
là một bộ phận, một mắt xích trong cấu trúc đời sống của con người. Khi xác
định cho mình một hướng đi, một vị trí hoạt động trong đời sống xã hội chính
là lúc con người lựa chọn nghề. Quá trình lựa chọn nghề không phải là chốc
lát, không phải diễn ra chỉ một lần mà nó nảy sinh trong các mối quan hệ
phức tạp. Điều đó có nghĩa là lựa chọn nghề được đặt trong một hệ thống các
mối quan hệ giữa chủ thể (người lựa chọn) và những điều kiện khách quan có
mối quan hệ trực tiếp đối với nghề nghiệp.
Nếu như việc xem xét và lựa chọn nghề nghiệp của học sinh tách khỏi
các dạng lựa chọn (các mối quan hệ) trong đặc trưng của cuộc sống con người
thì sẽ dẫn tới sự hạn chế kết quả thực tế của các biện pháp hướng nghiệp, giới
hạn khả năng điều khiển quá trình tái sản xuất nguồn nhân lực cho đất nước.
1.2.5. Truyền thông và truyền thông đại chúng
Năm 1448, người thợ kim hoàn Gutenberg sống tại Đức đã phát hiện ra
hệ thống movable type (hệ thống sắp chữ động). Phương pháp này phá vỡ
kiểu phân phối thông tin chủ đạo thời đó là các nhà truyền giáo chép tay các
thông tin hoặc khắc lên gỗ rồi in ra giấy. Năm 1455, ông kinh doanh công
nghệ lắp ghép chữ.

×