Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

biện pháp quản lí sinh viên ngoại trú theo hướng tiếp cận phát triển môi trường giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (634.54 KB, 96 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
~~~~~~*~~~~~~




ĐÀO DUY THĂNG




BIỆN PHÁP QUẢN LÍ SINH VIÊN NGOẠI TRÖ
THEO HƢỚNG TIẾP CẬN PHÁT TRIỂN MÔI TRƢỜNG GIÁO DỤC

LUẬN VĂN THẠC SĨ
QUẢN LÍ GIÁO DỤC
Mã số: 60.14.05


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM HỒNG QUANG




THÁI NGUYÊN - 2011


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU
1
1.
Lí do chọn đề tài
1
2.
Mục đích nghiên cứu
2
3.
Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
2
3.1
Khách thể nghiên cứu
2
3.2
Đối tƣợng nghiên cứu
2
4.
Nhiệm vụ nghiên cứu
3
5.
Giới hạn, phạm vi nghiên cứu
3
6.

Giả thuyết khoa học
3
7.
Phƣơng pháp nghiên cứu
3
8.
Cầu trúc của luận văn
5

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÍ
SINH VIÊN NGOẠI TRÚ
6
1.1.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
6
1.2.
Một số khái niệm có liên quan đến đề tài
10
1.2.1.
Quản lí
10
1.2.2.
Quản lí giáo dục
16
1.2.3.
Quản lí trường học
18
1.2.4.
Quản lí sinh viên ngoại trú
20

1.2.5.
Môi trường giáo dục
27
1.3.
Các yếu tố tác động đến lối sống của sinh viên ngoại trú
33
1.3.1.
Đặc điểm
33
1.3.2.
Hoàn cảnh sống
34
1.3.3.
Quan hệ xã hội
36
1.4.
Vai trò, ý nghĩa của quản lí sinh viên ngoại trú
37

Tiểu kết chương 1
37

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG MÔI TRƢỜNG SỐNG VÀ
HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN NGOẠI TRÖ
38
2.1.

Vài nét về địa phƣơng
38
2.2.
Thực trạng điều kiện sống và học tập của sinh viên ngoại
trú
40
2.2.1.
Lí do sinh viên ở ngoại trú
40
2.2.2.
Điều kiện sống và học tập của sinh viên ngoại trú
42
2.3.
Thực trạng công tác quản lí sinh viên ngoại trú
50

Tiểu kết chương 2
58

Chƣơng 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÍ SINH VIÊN
NGOẠI TRÖ THEO HƢỚNG TIẾP CẬN PHÁT
TRIỂN MÔI TRƢỜNG GIÁO DỤC
60
3.1.
Nguyên tắc xây dựng và hoàn thiện các biện pháp quản
lí sinh viên ngoại trú
60
3.2.
Một số biện pháp quản lí sinh viên ngoại trú theo hƣớng
tiếp cận phát triển môi trƣờng giáo dục

61
3.3.
Cấu trúc và mối quan hệ giữa các biện pháp
65
3.3.1.
Cấu trúc của các biện pháp
65
3.3.2.
Mối quan hệ của các biện pháp
66
3.4.
Kết quả khảo nghiệm
66
3.4.1.
Mục đích khảo nghiệm
66
3.4.2.
Đối tượng, phạm vi khảo nghiệm
66

Tiểu kết chương 3
68

KẾT LUẬN, KHUYẾN NGHỊ
70

* Kết luận
70

* Khuyến nghị

71

Đối với các nhà trường
71

Đối với địa phương
72

TÀI LIỆU THAM KHẢO
74

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4

PHỤ LỤC
78

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực. Đến thời điểm này trên địa bàn Thái Nguyên
chƣa có ai nghiên cứu về vấn đề này!



TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Đào Duy Thăng



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
LỜI CẢM ƠN
Quản lí sinh viên nói chung, quản lí sinh viên ngoại trú nói riêng đã và đang là
một vấn đề được nhiều tổ chức và xã hội quan tâm.
Trong quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài: Biện pháp quản lí sinh viên
ngoại trú theo hƣớng tiếp cận phát triển môi trƣờng giáo dục, ngoài sự nỗ lực cố
gắng của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tích cực của nhiều cán bộ, giáo viên
trong các cơ quan, nhà trường.
Có được kết quả này, tôi xin chân thành cám ơn các đồng chí lãnh đạo Thành
ủy Thái Nguyên; cán bộ, chiến sĩ công an; cán bộ đảng ủy, ủy ban nhân dân, tổ
trưởng nhân dân, xóm, chủ hộ kinh doanh nhà trọ; cán bộ, giảng viên, sinh viên các
trường đại học, cao đẳng trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên mà tôi đã đến khảo
sát, phỏng vấn, xin ý kiến.
Tôi xin bày tỏ sự kính trọng và biết ơn sâu sắc tới cán bộ, giảng viên Khoa
Tâm lí- Giáo dục (Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên) và các giảng viên, nhân
viên đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong 2 năm học vừa qua, đặc biệt là Phó Giáo
sư. Tiến sĩ Phạm Hồng Quang – Người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá
trình nghiên cứu và thực hiện đề tài này.
Đây được xem là vấn đề mới và khá phức tạp, cộng với những khó khăn khách
quan và chủ quan nên đề tài khó tránh được những hạn chế nhất định. Tôi rất mong
nhận được những ý kiến tham gia, góp ý của các nhà khoa học, giảng viên
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
HỌC VIÊN

Đào Duy Thăng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sinh viên (SV) là bộ phận quan trọng trong các học viện, trường đại
học, cao đẳng (sau đây gọi chung là các nhà trường). Đây là lực lượng mà
hàng năm sau khi tốt nghiệp sẽ bổ sung vào nguồn nhân lực có trình độ của
đất nước. Hiện nay, cả nước có trên 6 triệu SV. Vì vậy, vấn đề chỗ ở cho SV
trong điều kiện cơ sở vật chất của các nhà trường còn rất hạn chế là một bài
toán chưa có lời giải tối ưu. Theo báo cáo của Ban Tuyên giáo Trung ương,
thì hiện nay các nhà trường trong toàn quốc chỗ ở nội trú mới đáp ứng được
khoảng 25% so với tổng số SV. Điều đó là có 75% số SV ở ngoại trú.
Mục tiêu cơ bản của giáo dục đại học, cao đẳng là đào tạo người học có
phẩm chất chính trị, đạo đức, ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và kỹ
năng thực hành nghề nghiệp. Trong khi đó tuyệt đại đa số SV đang ở độ tuổi
từ 18 đến 25, tâm lí phát triển chưa ổn định, nhận thức về hành vi còn hạn
chế, cộng với việc thay đổi môi trường sống có ảnh hưởng rõ rệt đến tư
tưởng, lối sống và hành vi của mỗi người. Đa số SV đều từ các địa phương
khác nhau tới trường học tập khiến cho việc giáo dục, hướng dẫn, quản lí của
gia đình đối với SV trong lối sống và học tập gặp nhiều khó khăn, hạn chế.
Mặt khác, nhiều gia đình do cha mẹ bận rộn, thậm chí có tư tưởng ỷ lại, phó
mặc việc giáo dục, quản lí con em mình cho nhà trường và xã hội. Thực tế
cho thấy, hầu hết SV đều ý thức được nhiệm vụ học tập và rèn luyện của
mình. Tuy nhiên, có một bộ phận SV, do thiếu sự hướng dẫn, nhắc nhở, quản
lí của nhà trường, gia đình, cộng với sự tác động tiêu cực của môi trường xã
hội, nhất là môi trường sống ngoại trú làm cho sao nhãng việc học tập, rèn
luyện, sai lệch về nhận thức, sống buông thả, đua đòi ăn chơi, sa ngã vào các

tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật v.v…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
Trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên có 7 trường đại học, 1 khoa đào
tạo đại học, 10 trường cao đẳng với trên 100.000 SV, trong đó trên 70.000 SV
hệ chính quy tập trung từ hầu hết các tỉnh, thành phố phía Bắc về học tập.[7].
Trong những năm qua, các cấp, các ngành cùng các nhà trường trên địa bàn
đã có những kế hoạch, chương trình, biện pháp quản lí SV ngoại trú, tuy
nhiên chưa đem lại những kết quả như mong đợi. Hàng năm trên địa bàn xảy
ra vài trăm vụ án hình sự, hàng nghìn vụ việc phải xử lí hành chính, trong đó
có nhiều vụ án, vụ việc do SV gây ra hoặc có liên quan đến SV.
Nhiều SV chưa tự giác học tập, rèn luyện, vi phạm quy định của địa
phương, nhà trường và pháp luật. Trong khi đó mục tiêu của giáo dục, cũng
như của xã hội hiện đại đòi hỏi mỗi công dân cần nêu cao tinh thần tự giác đối
với học tập và rèn luyện. Đây chính là cơ sở quan trọng để chúng tôi tiến hành
nghiên cứu và đề xuất những biện pháp quản lí SV ngoại trú trong thời gian
tới.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn biện pháp quản lí SV ngoại trú
những năm vừa qua, từ đó đề xuất những biện pháp trong thời gian tới.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu quá trình quản lí SV ngoại trú.
3.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Nghiên cứu các biện pháp quản lí SV ngoại trú trên địa bàn Thành phố
Thái Nguyên.
3.3. Khách thể điều tra


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
- Cán bộ quản lí (Ban Giám hiệu một số nhà trường, cán bộ Phòng Công
tác HSSV, cán bộ quản lí SV ở các khoa), cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh, Hội Sinh viên và SV ngoại trú.
- Cán bộ chính quyền, đoàn thể nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, chủ hộ kinh
doanh nhà trọ (gọi tắt là chủ nhà trọ)… ở một số phường (xã), tổ nhân dân
(xóm), nơi có đông SV ngoại trú.
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
4.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn quản lí SV ngoại trú.
4.2. Khảo sát thực trạng quản lí SV ngoại trú trên địa bàn Thành phố
Thái Nguyên.
4.3. Đề xuất một số biện pháp quản lí SV ngoại trú.
5. GIỚI HẠN, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi chủ yếu tập trung nghiên cứu tại 5
phường, xã có đông SV ngoại trú là: phường Quang Trung, Hoàng Văn Thụ,
Đồng Quang, Tân Thịnh, xã Tích Lương của Thành phố Thái Nguyên.
6. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Một trong những nguyên nhân nhiều SV sai lệch về nhận thức và hành vi
là thiếu ý thức tự giáo dục, tự tu dưỡng. Chúng tôi tin tưởng chắc chắn rằng,
nếu có tinh thần, thái độ tự học, tự rèn thì SV sẽ trở thành những công dân
gương mẫu của đất nước; có phẩm chất và năng lực trên con đường lập thân,
lập nghiệp của mình.
7. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp cơ
bản sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


10
7.1. Nhóm phƣơng pháp nghiên cứu lí thuyết
Nghiên cứu lí luận về quản lí, các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Hiến pháp, Luật Cư trú, Luật Giáo dục, các văn bản dưới luật của Quốc
hội, Chính phủ, bộ, ngành Trung ương, Tỉnh Thái Nguyên… về giáo dục- đào
tạo, quản lí hành chính, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội; nghiên cứu các
bài viết được đăng trên tạp chí, báo, sách về giáo dục- đào tạo và nhiều tài
liệu khác. Phân loại, phân tích các dữ liệu có liên quan đến đề tài về mặt cơ sở
lí luận.
7.2. Nhóm phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phƣơng pháp quan sát
- Quan sát, tìm hiểu thực tế công tác quản lí SV ngoại trú trên địa bàn
Thành phố Thái Nguyên.
- Quan sát, theo dõi tinh thần, thái độ tự học tập, tự rèn luyện và tự quản
lí của SV ngoại trú.
7.2.2. Phƣơng pháp điều tra
- Điều tra công tác quản lí SV ngoại trú của một số nhà trường, địa
phương trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên.
7.2.3. Phƣơng pháp phỏng vấn sâu
- Phỏng vấn Ban Giám hiệu một số nhà trường, cán bộ quản lí địa
phương, công an khu vực, tổ trưởng dân phố, trưởng xóm, cán bộ đoàn thể
nhân dân, chủ nhà trọ, phụ huynh SV, SV ngoại trú về thực trạng và ý nghĩa
của quản lí SV ngoại trú.
7.2.4. Phƣơng pháp chuyên gia

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
- Lấy ý kiến cán bộ, người có kinh nghiệm trong công tác quản lí SV
ngoại trú.

- Hỏi ý kiến, tìm hiểu thực trạng và các biện pháp, kinh nghiệm quản lí
SV ngoại trú.
7.3. Nhóm phƣơng pháp xử lí kỹ năng, thống kê toán học
Sử dụng toán thống kê để tổng hợp kết quả khảo sát, phỏng vấn bằng
phiếu (ankét) và xử lí dữ liệu, kết quả khảo sát, phỏng vấn, khảo nghiệm.
8. CẤU TRÖC CỦA LUẬN VĂN
Luận văn gồm 3 chương, ngoài ra còn có phần mở đầu, kết luận, khuyến
nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục.



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÍ SINH VIÊN NGOẠI TRÚ
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
- Khổng Tử tên là Khâu, tự là Trọng Ni (sinh năm 551- 479 trước công
nguyên). Ông sinh ra trong một gia đình quý tộc, là người học rộng, tài cao,
nên 20 tuổi đã đi khắp thiên hạ để mở trường dạy học và thuyết giáo. Ông
không nhận làm quan mà dành nhiều tâm trí cho giáo dục và dạy học. Theo
ông mục đích của giáo dục là phải dạy cho người ta thành người nhân nghĩa,
trung chính, hiểu được cái đạo của người quân tử. Ông thường nói: Ngọc
bất trắc bất thành khí, nhân bất học bất tri đạo (ngọc không mài rũa không
thành đồ dùng, người không học không thể hiểu đạo lí làm người).
Khổng Tử chứng kiến thời đại loạn lạc, vua không ra vua, tôi không ra
tôi, "tiếm ngôi việt vị". Khổng Tử cho rằng nguyên nhân chính của tình trạng
trên là do đạo đức suy đồi, kỷ cương rối loạn, Lễ bị xem nhẹ, thiên hạ không

còn tôn trọng các chuẩn mực đẳng cấp, mọi người không ở đúng vị trí của
mình. Để thiên hạ trở về ổn định, có "đạo", có Lễ thì phải tạo dựng điều
Nhân, khôi phục Lễ, mỗi người phải tôn trọng kỷ cương, hành động theo
khuôn phép. Tư tưởng được thể hiện ở ba phạm trù cơ bản là: Nhân - Lễ -
Chính danh. Nhìn chung theo Khổng Tử thì muốn cai trị đất nước, người dân
phải đặc biệt coi trọng đạo đức. Lấy đạo đức là phương tiện cai trị xã hội
(quản lí xã hội). Bằng con đường học tập, tu dưỡng con người có thể dần dần
hoàn thiện chính mình và trở thành người hiền. Theo tư tưởng của ông: Người
trên nêu gương, kẻ dưới noi theo. Việc cai trị lấy đạo đức là cơ bản.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
- Mạnh Tử là người kế tục của Khổng Tử. Ông sinh năm 372 và mất
năm 289 trước công nguyên. Ông nhấn mạnh vai trò làm chủ của nhân dân và
trách nhiệm phục vụ nhân dân của người cầm quyền. Chính sách kinh tế của
nhà nước phải hướng vào làm giàu cho dân, dân giàu thì nước mạnh. Ông nói:
Dân là đáng quý, sau đến xã tắc và cuối cùng mới là vua.
- Hàn Phi Tử (sinh năm 280 và mất 233 trước công nguyên) là công tử
nước Hàn. Ông sinh ra và lớn lên trong xã hội loạn lạc. Bộ máy cai trị (bộ
máy quản lí xã hội) không phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Cách cai trị hiện
tại không khích thích con người làm lợi cho bản thân và xã hội. Vì vậy, ông
cho rằng phải đổi mới cách cai trị, lấy pháp luật là công cụ cai trị xã hội.
Lịch sử ông cha ta đã từng khẳng định: Hiền tài là nguyên khí quốc gia.
Nguyên khí thịnh thì nước mạnh. Nguyên khí suy thì nước yếu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước
hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã
khẳng định: Thanh niên nước ta đã nêu cao tinh thần hy sinh anh dũng trong
kháng chiến và trong lao động hòa bình. Thanh niên là lớp người đang xây

dựng chủ nghĩa xã hội và sẽ xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở nước ta. Phải
giáo dục và rèn luyện thế hệ trẻ thành những chiến sĩ trung thành với Tổ
quốc, với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, động viên thanh niên đem hết nhiệt
tình của tuổi trẻ tham gia xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải củng cố và phát
triển mạnh mẽ Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam. Coi trọng hơn nữa
việc tổ chức và giáo dục thiếu niên và nhi đồng.
Nghị quyết lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá VII của Đảng
một lần nữa khảng định: Đào tạo, giáo dục, bồi dưỡng và tạo mọi điều kiện
cho thanh niên phấn đấu để hình thành một thế hệ con người mới có lý tưởng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
cao đẹp, có ý thức trách nhiệm công dân, có tri thức, có sức khoẻ và lao động
giỏi, sống có văn hoá và tình nghĩa, giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế
chân chính. Cổ vũ thanh niên Việt Nam nuôi dưỡng hoài bão lớn, tự cường
dân tộc, năng động, sáng tạo, làm chủ được khoa học và công nghệ mới, vươn
lên ngang tầm thời đại, sánh vai cùng thanh niên các nước trên thế giới.
Đảng và nhân dân ta đã xác định, giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Đầu tư cho giáo dục là
đầu tư cho phát triển. Đầu tư cho con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của phát triển. Mục tiêu của giáo dục Việt Nam là đào tạo con người Việt
Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề
nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình
thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng
yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà giáo dục vĩ đại của dân tộc ta đã từng nói:
“Thanh niên cần phải có ý chí tự động, tự cường, tự lập.
Phải có khí khái ham làm việc, chứ không ham địa vị.
Phải có quyết tâm, đã làm việc gì thì làm cho đến nơi đến chốn, làm cho

kỳ được.
Phải có lòng ham tiến bộ, ham học hỏi, học luôn, học mãi. Học văn hoá,
học chính trị, học nghề nghiệp”. [20]
Học tập là một quá trình tích lũy tri thức và rèn luyện phẩm chất, kỹ
năng nhằm hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người. Giáo dục là
một lĩnh vực quan trọng trong tổng thể các lĩnh vực của xã hội. Giáo dục và
tự giáo dục, quản lí và tự quản lí là hai phạm trù mang tính tương tác (nhu cầu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
và yêu cầu) đối với mỗi người, nhất là đối với những công dân trí thức sống
trong xã hội hiện đại.
Trước đây SV học tập tại các học viện, trường đại học, cao đẳng đều
có chỗ ở trong ký túc xá của nhà trường. Giáo dục và quản lí SV ngoại trú là
khái niệm chỉ mới xuất hiện từ khi nhu cầu học tập vượt quá khả năng đầu tư
của Nhà nước về ký túc xá tại các nhà trường. Điều này khiến cho đa số SV
phải tự lo liệu chỗ ở trong quá trình học tập. Đặt lên vai các nhà trường và
cộng đồng xã hội một nhiệm vụ mới là giáo dục và quản lí SV ngoại trú. Để
sau thời gian học tập tại trường mọi SV đều trở thành những người có tri thức
và nhân cách đáp ứng yêu cầu chung của xã hội.
Như đã nói ở trên, quản lí SV ngoại trú, nhất là quản lí SV ngoại trú theo
hướng tiếp cận phát triển môi trường giáo dục ngoại trú là một vấn đề mới.
Đã có một số tác giả nghiên cứu, đề cập tại một vài cuốn sách, hội thảo, hội
nghị, tạp chí, báo như: Tài liệu Hội thảo đời sống văn hóa sinh viên thực
trạng và giải pháp, năm 2007 do Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa - Thông tin phối hợp tổ chức; Trần Viết
Lưu- Giáo dục kĩ năng sống theo chuẩn mực công dân có văn hóa cho học
sinh sinh viên trong tình hình mới, Tạp chí Giáo dục, số 231, tháng 2/2010;
Thái Thị Thanh Thúy- Vấn đề giáo dục lối sống cho thanh niên trí thức hiện

nay, Tạp chí Giáo dục, số 214, 5/2009; Nguyễn Anh Tú - Quản lí ngoại trú
còn nhiều khó khăn, Báo Giáo dục và Thời đại, số 139, ngày 18/11/2008;
Nguyễn Thị Thúy Hồng - Sự cần thiết của Quy chế phối hợp quản lí sinh viên
ngoại trú Đại học Đà Nẵng, Báo Giáo dục và Thời đại, số 1, ngày 1/2/2009;
Giao Thủy - Lời giải nào cho công tác quản lí SV ngoại trú, Báo Giáo dục và
Thời đại, số 132, ngày 5/11/2009; Giao Thủy - Dạy chữ phải đi đôi với dạy
người, Báo Giáo dục và Thời đại, số 145, ngày 3/12/2009; Thái Khuê - Khan
phòng trọ mùa nhập học, Báo Giáo dục và Thời đại, số 147, ngày 14/9/2010;

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Nguyễn Thị Thúy Hồng- Nỗi niềm sinh viên trọ học, Báo Giáo dục và Thời
đại, số 36, ngày 4/3/2011 Tuy nhiên, các tác giả chủ yếu nghiên cứu, đề cập
đến vấn đề còn quá rộng lớn hay ở các địa bàn khác như: Hà Nội, Thành phố
Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng Trên địa bàn Thái Nguyên đến thời điểm
này chưa có tác giả nào nghiên cứu về công tác quản lí sinh viên ngoại trú
theo hướng tiếp cần phát triển môi trường giáo dục ngoại trú.
Đến thời điểm này trên địa bàn Thái Nguyên chưa có tác giả nào nghiên
cứu về công tác quản lí SV ngoại trú theo hướng tiếp cận phát triển môi
trường giáo dục. Chính vì vậy, chúng tôi nhận thấy cần phải nghiên cứu thực
tiễn và đề xuất một số biện pháp về quản lí SV ngoại trú theo hướng tiếp cận
nói trên. Để từ đó làm cơ sở lí luận và thực tiễn áp dụng vào thực tế công tác
quản lí SV ngoại trú trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên và các địa bàn
khác.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.2.1. Quản lí
1.2.1.1. Một số quan điểm về quản lí
Quản lí là một hiện tượng có tính lịch sử và xuất hiện rất sớm, ra đời và
tồn tại từ nhu cầu khách quan của xã hội. Quản lí xuất hiện và phát triển cùng

với xã hội loài người. Tuy nhiên, không phải có con người là có quản lí. Mà
quản lí chỉ xuất hiện khi xã hội có chiếm hữu về của cải và tư liệu sản xuất.
Phrêđric Uynslâu Taylor (1856- 1915), người Mỹ, được coi là cha đẻ
của Thuyết quản lí khoa học. Ông là một trong những tác giả khai phá ra thời
đại đề cao vai trò quản lí tại nước Mỹ và phương Tây. Taylor cho rằng: Quản
lí là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó hiểu được
rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất. Theo ông
quản lí một cách khoa học phải dựa trên 4 cơ sở cơ bản sau: Phát triển khoa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
học để thay thế những thao tác cũ; Lựa chọn công nhân một cách khoa học;
Gắn công nhân được chọn với tổ chức lao động khoa học; Phân đều công việc
giữa người quản lí và công nhân, phải có "cách mạng trí tuệ" cả về phía người
quản lí lẫn phía công nhân nhằm tạo ra sự gắn bó công việc từ hai phía.
Tư tưởng cốt lõi của Taylor về quản lí là phải đảm bảo tính khoa học
cho dù là nhỏ nhất, đơn giản nhất.
Các. Mác là lãnh tụ của giai cấp vô sản thế giới đã cho rằng: Tất cả mọi
lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô
tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa
những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ
sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí
quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình,
còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng. Nghĩa là dù lao động giản đơn
hay phức tạp cứ từ hai người trở lên là có hoạt động quản lí và người quản lí.
Quản lí được nhiều người định nghĩa khác nhau nhưng tựu chung: Quản
lí là sự tác động có tổ chức, có hướng địch của chủ thể quản lí lên đối tượng
và khách thể quản lí nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ
hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của

môi trường.
Quản lí là một trong những loại hình lao động quan trọng nhất trong các
hoạt động của con người. Quản lí đúng tức là con người nhận thức và vận
dụng đúng quy luật. Quản lí gần với các thuật ngữ quản trị, lãnh đạo, điều
khiển. Chúng có mối quan hệ gần gũi nhưng không đồng nghĩa nhau.
Theo Đại từ điển tiếng Việt xuất bản năm 1998 thì Quản trị là tổ chức,
điều hành công việc của một cơ quan và cũng có nghĩa là quản lí và cấp phát

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
các phương tiện làm việc theo chế độ. Thuật ngữ này thường hay được sử
dụng trong các doanh nghiệp, đơn vị kinh tế.
Lãnh đạo là quá trình tác động lên con người sao cho họ tự nguyện và
nhiệt tình phấn đấu để đạt được các mục tiêu của tổ chức.
Điều khiển: là thuật ngữ của điều khiển học, thể hiện quá trình tác động
của chủ thể lên đối tượng, đảm bảo cho hành vi của đối tượng hướng tới mục
tiêu của hệ thống khi điều kiện bên ngoài thay đổi.
1.2.1.2. Đặc điểm của quản lí
- Tính uy quyền của chủ thể quản lí: Để có thể tiến hành có hiệu quả
hoạt động quản lí, chủ thể quản lí phải có uy quyền như: về tổ chức hành
chính; về kinh tế; về trí tuệ; về đạo đức.
- Tính chủ quan của chủ thể quản lí: các quyết định quản lí cho dù của
tập thể hay cá nhân đều mạng sắc thái chủ quan của chủ thể quản lí. Để hạn
chế điều này đòi hỏi chủ thể quản lí phải là người có đầy đủ phẩm chất và
năng lực đối với hoạt động quản lí của mình.
- Tính thông suốt: Thông tin là điều kiện đặc biệt quan trọng và có ý
nghĩa quyết định đối với hoạt động quản lí. Một quyết định quản lí cho là có
hiệu quả khi và chỉ khi là sản phẩm của những thông tin khách quan, kịp thời
và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.

- Tính khoa học và nghệ thuật: quản lí là hoạt động có tác động đến sự
vật và hiện tuợng. Điều đó đòi hỏi các nhà quản lí trước hết cần phải nắm
vững những quy luật liên quan đến quá trình hoạt động của tổ chức, đó không
chỉ là những quy luật tự nhiên mà còn là quy luật tâm lí, xã hội Chính vì vậy,
trong quá trình quản lí cần phải kiên quyết nhưng khéo léo cho phù hợp với
đối tượng, hoàn cảnh cụ thể.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
1.2.1.3. Chức năng của quản lí
Quản lí là một loại hoạt động đặc biệt, nó mang tính sáng tạo rất cao của
chủ thể quản lí. Xã hội càng phát triển thì sự phân công lao động ngày càng
được chuyên môn hóa trong đó có lao động quản lí. Những năm gần đây
chúng ta hay thấy các thuật ngữ: "quản lí nhân sự", "quản lí kinh doanh",
"quản lí tài chính" Chuyên môn hóa ngày càng cao là cơ sở hình thành các
chức năng của quản lí.
Chức năng của quản lí là một thể thống nhất những hoạt động tất yếu
của chủ thể quản lí nảy sinh từ sự phân công, chuyên môn hóa trong hoạt
động quản lí nhằm thực hiện mục tiêu. Tuy vậy, phân công phải gắn liền với
hợp tác. Mặt khác chức năng quản lí còn nhằm xác định khối lượng các công
việc và trình tự các công việc của quá trình quản lí.
Quản lí thực hiện nhiều chức năng khác nhau, các chức năng có tính độc
lập tương đối, đồng thời có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Như vậy, quản lí
có nhiều chức năng khác nhau, có chức năng cơ bản và chức năng không cơ
bản. Chúng tôi xin giới thiệu một số chức năng cơ bản của quản lí:
a. Chức năng dự đoán
Dự đoán là phán đoán trước toàn bộ quá trình và các hiện tượng mà
tương lai có thể xảy ra có liên quan tới hệ thống quản lí. Nó dự đoán các yếu
tố thuận lợi, khó khăn, những tác động khác đến quá trình quản lí.

Dự đoán là chức năng quan trọng, không thể thiếu được trong chu trình
quản lí. Nhờ dự đoán mà chúng ta xác định được tiền đề, các điều kiện cho
việc xây dựng chiến lược, lập kế hoạch, xây dựng hệ thống tổ chức quản lí và
điều chỉnh trong quá trình điều hành hoạt động của hệ thống. Tuy nhiên, dự
đoán chỉ mạng tính chất định hướng. Điều này có nghĩa trong quá trình thực
hiện có thể phải điều chỉnh cho phù hợp với tình hình cụ thể.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
b. Chức năng kế hoạch hóa
Kế hoạch hóa là chức năng cơ bản nhất trong số các chức năng quản lí
nhằm xây dựng quyết định về mục tiêu, chương trình hành động và bước đi
cụ thể trong một thời gian nhất định của một hệ thống quản lí.
Kế hoạch hóa bao gồm toàn bộ quá trình từ xác định mục tiêu, phương
pháp, phương tiện, tổ chức thực hiện đến kiểm tra, đánh giá quá trình thực
hiện mục tiêu.
c. Chức năng tổ chức
Tổ chức là sắp xếp, sắp đặt một cách khoa học những yếu tố, những con
người, những dạng hoạt động khác nhau thành một hệ thống chỉnh thể, đồng
bộ, thống nhất nhằm đảm bảo cho chúng tương tác với nhau một cách tối ưu.
V.I. Lênin đã từng viết: Tổ chức là nhân tố sinh thành ra hệ toàn vẹn,
biến một tập hợp các thành tố rời rạc thành một thể thống nhất, người ta gọi là
hiệu ứng tổ chức.
Nguyên nhân của thành công hay thất bại trong hoạt động của một hệ
thống suy cho cùng bắt nguồn từ tổ chức. Một cơ cấu tổ chức được coi là hợp
lí và hiệu quả khi nó đạt được mục tiêu tối đa nhưng với mức chi phí cho bộ
máy tối ưu nhất.
d. Chức năng động viên
Mục tiêu của mọi hoạt động trên thế giới này là vì con người và do con

người. Vì vậy, quản lí làm sao phải có tác dụng phát huy tôi đa khả năng lao
động sáng tạo của con người. Việc động viên kịp thời, thiết thực của chủ thể
quản lí đối với đối tượng quản lí là rất cần thiết và có ý nghĩa thúc đẩy mỗi cá
nhân và toàn tổ chức phát triển.
đ. Chức năng điều chỉnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
Quản lí nhằm thấy được những hợp lí, bất hợp lí và những nảy sinh
trong quá trình hoạt động của bộ máy. Những hợp lí cần duy trì và bổ sung
phát triển. Những bất hợp lí cần điều chỉnh, thậm chí loại bỏ để phù hợp với
thực tế.
Việc điều chỉnh cũng phải tuân thủ theo những nguyên tắc: Điều chỉnh
khi thật cần thiết; Điều chỉnh đúng mức độ, tránh tùy tiện, gây tác động xấu;
Điều chỉnh tránh để lỡ thời cơ, tránh bảo thủ; Điều chỉnh phải phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh; Điều chỉnh phải nhằm khắc phục cái hạn chế trong hệ
thống quản lí.
e. Chức năng kiểm tra
Kiểm tra nhằm đánh giá được thực trạng thực hiện mục tiêu, kế hoạch
của bộ máy, phát hiện kịp thời những bất hợp lí và có biện pháp phát huy ưu
điểm, khắc phục hạn chế. Kiểm tra phải là "bạn" của cấp dưới và là "tai, mắt"
của cấp trên. Vì vậy, kiểm tra phải được tổ chức thường xuyên với nhiều hình
thức linh hoạt, sáng tạo.
f. Chức năng đánh giá
Quản lí là quá trình thu nhận thông tin và ban hành quyết định quản lí.
Để có quyết định quản lí chính xác nhà quản lí phải đánh giá khách quan, toàn
diện hoạt động của bộ máy cũng như từng đối tượng quản lí cụ thể.
Như vậy, các chức năng của quản lí tạo thành một chỉnh thể thống nhất,
trong quá trình vận dụng tuyệt đối tránh hiện tượng quá coi trọng chức năng

này mà xem nhẹ chức năng khác.
1.2.1.4. Các nguyên tắc quản lí

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
Nguyên tắc quản lí được hiểu là những tư tưởng, quan điểm dẫn dắt,
hướng dẫn và có ý nghĩa quy định trong suốt quá trình quản lí. Trong quá
trình quản lí cần thực hiện một số nguyên tắc cơ bản sau:
a. Nguyên tắc đảm bảo tính Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức duy nhất lãnh đạo hệ thống chính trị
Việt Nam. Vì vậy, quản lí phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết.
Tránh chủ quan, phiến diện.
b. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Tập trung và dân chủ là hai nội dung có mối quan hệ chặt chẽ, biện
chứng với nhau. Có dân chủ vì có tập trung và ngược lại. Chứ đây không phải
là nguyên tắc gồm hai vế hoặc là hai nguyên tắc nhỏ của một nguyên tắc lớn
như một số người đã từng nói.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng trong tổ chức hoạt động
quản lí. Nó giúp cho nhà quản lí phát huy sức mạnh của hệ thống, đồng thời
kết hợp với khả năng linh hoạt, sáng tạo của nhóm cá nhân hoặc cá nhân.
c. Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học và thực tiễn
Nguyên tắc này đòi hỏi người quản lí phải nắm được quy luật, quá trình
hình thành và phát triển của bộ máy, cá nhân; nắm vững đặc điểm, tình hình
địa phương, ngành, tổ chức, cá nhân mình quản lí. Người quản lí phải biết xử
lí hài hòa các lợi ích (cá nhân - tập thể - xã hội ).
1.2.2. Quản lí giáo dục

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


23
Theo M.I.Kônđacốp thì: "Quản lí giáo dục là tập hợp các biện pháp tổ
chức cán bộ, giáo dục, kế hoạch hóa, tài chính nhằm đảm bảo sự vận hành
bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục để tiếp tục phát triển và
mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như chất lượng". [7].
Theo Nguyễn Ngọc Quang: "Quản lí giáo dục là hệ thống những tác
động có mục đích, có kế hoạch hợp với quy luật của chủ thể quản lí nhằm làm
cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lí giáo dục của Đảng. Thực hiện
được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mà tiêu điểm
hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục đến mục tiêu
dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất". [23].
Còn theo Đặng Quốc Bảo thì: "Quản lí giáo dục theo nghĩa tổng quát là
hoạt động điều hành phối hợp của các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy mạnh
công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu xã hội". [23].
Từ những định nghĩa nói trên có thể nói rằng quản lí giáo dục là sự tác
động của chủ thể quản lí tác động lên đối tượng, khách thể quản lí nhằm thực
hiện các mục tiêu giáo dục mà Đảng, xã hội đã xác định.
Quản lí giáo dục được hiểu như sau:
- Quản lí giáo dục là một hệ thống tác động có kế hoạch, có ý tưởng, có
mục đích của chủ thể quản lí đến đối tượng quản lí.
- Quản lí giáo dục là sự tác động lên tập thể giáo viên, học sinh và các
lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm huy động họ cùng phối
hợp, tham gia vào các hoạt động giáo dục của nhà trường để đạt mục đích đã
định.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

24
Từ quản lí giáo dục có thể nêu ra một số chức năng cơ bản trong quản lí
giáo dục như sau: Chức năng kế hoạch hóa; Chức năng tổ chức; Chức năng

chỉ đạo; Chức năng kiểm tra, đánh giá.
1.2.3. Quản lí nhà trƣờng
Trường học là đơn vị cơ sở mà ở đó tiến hành quá trình giáo dục và đào
tạo. Nhà trường là một thiết chế đặc biệt của xã hội, thực hiện chức năng kiến
tạo các kinh nghiệm xã hội cho một nhóm dân cư nhất định nhằm đạt được
các mục tiêu xã hội yêu cầu. Trường học là tổ chức giáo dục mang tính nhà
nước- xã hội, trực tiếp làm công tác giáo dục thế hệ trẻ, nó là tế bào cơ sở,
quan trọng của bất kỳ hệ thống giáo dục nào. Như vậy, trường học là khách
thể của tất cả các cấp quản lí, đồng thời nó là một hệ thống độc lập tự quản
của xã hội. Do vậy, quản lí trường học vừa có tính chất nhà nước, vừa có tính
chất xã hội.
Hoạt động đặc trưng của nhà trường là hoạt động dạy học. Đó là hoạt
động có tổ chức, có nội dung, có phương pháp, có mục đích, có sự lãnh đạo
của nhà giáo dục. Bên cạnh đó là hoạt động tự giác, tích cực của người học.
Lịch sử phát triển giáo dục đã cho thấy: Dạy học là một trong những
loại hình hoạt động xã hội, nó gắn liền với hoạt động của con người và vì con
người. Đó là hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò. Hoạt động này
nhằm thực hiện mục đích, nhiệm vụ giáo dục và đào tạo của nhà trường. Thực
tiễn đã chứng minh dạy học là con đường cơ bản, thuận lợi, ngắn nhất giúp
người học có thể chiếm lĩnh được một khối lượng tri thức, kĩ năng và hiệu
quả nhất định. Do dạy học được tiến hành một cách có tổ chức, có kế hoạch,
có nội dung và phương pháp phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí, khả năng nhận
thức giúp người học tự giác, tích cực, chủ động trong việc lĩnh hội kiến thức

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

25
một cách dễ dàng, nhanh chóng hơn. Những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo được
người học nắm vững bắt nguồn từ hàng loạt các thao tác trí tuệ, đặc biệt là
thao tác tư duy độc lập, sáng tạo trong hoạt động nhận thức thông qua tài liệu

học tập. Qua đây nhân cách của người học dần dần được hình thành, phát
triển và hoàn thiện.
Theo Giáo sư Phạm Minh Hạc: "Quản lí nhà trường là thực hiện đường
lối giáo dục của Đảng trong phạm vi, trách nhiệm của mình, đưa nhà trường
vận hành theo nguyên lí giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào
tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh"[13].
Theo Nguyễn Ngọc Quang: "Quản lí nhà trường là quản lí hoạt động
dạy và học, tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái
khác để dần dần tiến tới mục tiêu giáo dục"[23].
Điều 54 - Luật Giáo dục năm 2005 quy định: "Hiệu trưởng là người chịu
trách nhiệm quản lý các hoạt động của nhà trường, do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền bổ nhiệm, công nhận Hiệu trưởng các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc
dân phải được đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lý trường học. Tiêu chuẩn,
nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trưởng; thủ tục bổ nhiệm, công nhận Hiệu
trưởng trường đại học do Thủ tướng Chính phủ quy định; đối với các trường ở
các cấp học khác do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định; đối với cơ sở
dạy nghề do Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề quy định".
Tóm lại, quản lí nhà trường thực chất là tác động có hướng đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lí lên đối tượng, khách thể quản lí nhằm đẩy mạnh
hoạt động của nhà trường theo nguyên lí giáo dục và tiến tới mục tiêu giáo
dục đã định.

×