Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Ngân hàng thương mại ( NHTM ) cổ phần trong thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.87 KB, 25 trang )

Mai Hoµng TiÕn Ng©n hµng 46C
A. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI .
Việt nam từ xuất phát điểm thấp đang trong quá trình đẩy nhanh sự phát triển
kinh tế, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mà một trong
những yêu cầu là cần phải đầu tư rất lớn xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng cũng như
những cơ sở công nghiệp then chốt của nền kinh tế. Để thực hiện được mục tiêu
chiến lược đó của nền kinh tế thì cần phải có vốn. Đối với các doanh nghiệp tư
nhân trong nước thì tiềm lực tài chính eo hẹp nên chưa thể tham gia vào các công
trình đầu tư các công trình lớn đó.. nguồn vốn ngân sách nhà nước thì có hạn và
luôn trong tình trạng cân đối rất khẩn trương, còn nguồn đầu tư từ nước ngoài thì
rất hạn chế. Chính vì thế các NH trong nước nói chung và các NHTMCP nói riêng
cần phải phát huy có hiệu quả việc huy động vốn để bổ sung vào nguồn ngân sách
của nhà nước nhằm đầu tư vào các công trình trọng điểm thực hiện tiến trình công
nghiệp hoá, hiên đại hoá đất nước.
B. NỘI DUNG CHÍNH.
1
Mai Hoµng TiÕn Ng©n hµng 46C
I. Một số vấn đề lý luận cơ bản về Ngân hàng thương mại ( NHTM ) cổ phần
trong thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta .
1. Khái quát về NHTM NN ở Việt nam
Hiện nay xu thế hội nhập và hợp tác trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế
ngày càng trở nên rõ nết và cần thiết. Cùng với các ngành kinh tế khác ngành ngân
hàng đang đứng trước những cơ hội mới của quá trình hội nhập, nhưng bên cạnh đó
cũng đứng trước nhiều thách thức gay gắt từ bên ngoài. Trong quá trình hội nhập
quốc tế, các NHTM của việt nam sẽ đối mặt với sự cạnh tranh rất lớn của các ngân
hàng nước ngoài với rất nhiều thế mạnh vượt trội so với hệ thống NHTM trong
nước. Cụ thể nhất là tiềm lực về tài chính với số vốn điều lệ lên tới hàng trăm triệu
$ thậm chí lên tới hàng tỉ $. Chúng ta sẽ phải cạnh tranh gay gắt với các ngân hàng
nước ngoài có kinh nghiệm hoạt động lâu năm, có trình độ quản lý rất chặt chẽ và
khoa học với nhiều dịch vụ ngân hàng đa dạng phong phú và hiện đại. Do vậy việc
nâng cao năng lực về tài chính và trình độ công nghệ quản lý .... là một công việc


cấp bách mang tính chất chất sống còn của các NHTM trong nước đặc biệt là hệ
thống NHTM nhà nước. Nếu các ngân hàng trong nước không kịp thời đổi mới để
phát triển thì chúng ta sẽ đánh mất khả năng cạnh tranh trên chính thị trường trong
nước.
Hiện nay, ở nước ta có 5 NHTM thuộc sở hữu nhà nước. Đó là: ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn ( agribank ) ngân hàng ngoại thương Việt nam
( VCB ), ngân hàng công thương Việt nam ( incombank ), ngân hàng đầu tư và phát
triển Việt nam ( BIDV ), ngân hàng phát triển nhà đông bằng sông cửu long
(MHB). Mặc dù đã được cấp bổ sung nhưng hiện nay vốn điều lệ của 5 NHTM NN
trên cũng chỉ đạt chưa tới 1 tỉ $, tỉ lệ vốn tự có trên tổng tài sản có khoang 4%, đây
thực sự là một con số hết sức khiêm tốn (tỉ lệ này là thấp hơn nhiều so với chuẩn
mức của ngân hàng thanh toán quốc tế – BIS ). Cũng do vốn tự có thấp nên khả
2
Mai Hoµng TiÕn Ng©n hµng 46C
năng huy động và đầu tư của các NHTM NN còn nhiều hạn chế. Theo tính toán của
các chuyên gia kinh tế, để đáp ứng được nhu cầu vốn cho sự phát triển của nền kinh
tế thì quy mô huy động vốn của các NHTM trong nước cần có tốc độ tăng trưởng
trung bình hàng năm khoảng 25%. Tốc độ tăng cho vay đối với nền kinh tế hàng
năm khoảng 20% ... Để đạt được điều này, ước tính vốn tự có của các NHTM NN
đến năm 2010 cần phải đạt trên 60 ngàn tỉ đồng... Thực tế, nếu chỉ dựa vào việc cấp
thêm vốn của Ngân hàng nhà nước (NHNN) thì sẽ rất khó khăn. Mức vốn tự có của
các NHTM NN rất nhỏ, mặt khác số nợ qúa hạn lại khá cao và chưa được sử lý dứt
điểm nên năng lực tài chính còn nhiều hạn chế. Trình độ qủan lý của các NHTM
NN còn nhiều bất cập chưa theo kịp trình độ quản lý hiện tại của các ngân hàng lớn
trên thế giới, công nghệ ngân hàng còn hạn chế do việc đầu tư chưa được quan tâm
một cách thoả đáng mà thiếu sự đồng bộ của hệ thống cơ sở hạ tầng hệ thống thanh
toán của các NHTM NN chưa theo kịp được với hệ thống thanh toán và công nghệ
của các ngân hàng quốc tế, sản phẩm ngân hàng còn hạn chế chủ yếu là các sản
phẩm truyền thống. Đây là những nhân tố khó khăn lớn và thực sự trở thành những
nhân tố làm trì trẹ quá trình hội nhập và phát triển của hệ thống NHTM NN Việt

nam đặc biệt là trong thời điểm hiện nay, khi các NHTM của việt nam đang chuẩn
bị cho tiến trình mở cửa hội nhập quốc tế theo các cam kết song phương và đa
phương như ASEAN, APEC, AFTA, hiệp định thương mại Việt – Mỹ... và tiến tới
là WTO. như vậy có thể thấy rằng các NHTM NN hiện nay vẫn chưa thực sự lớn
mạnh cả về tiềm lực tài chính, cơ sở vật chất và trình độ quản lý để làm đòn bẩy
giúp cho nền kinh tế phát triển một cánh bền vững và ổn định. Trước sự thách thức
một cách khốc liệt về cạnh tranh của quá trình hội nhập, để giải quyết vấn đề trên,
các NHTM NN không thể chỉ trông chờ vào sự bao cấp của nhà nước, cũng như
không thể chỉ ỉ lại vào nguồn lực sẵn có của mình mà cần phải huy động được sức
mạnh từ tất cả các nguồn lực trong xã hội, thậm chí cả các nguồn lực quốc tế. Cổ
phần hoá là bước đi tất yếu trong nền kinh tế thị trường.
3
Mai Hoµng TiÕn Ng©n hµng 46C
2. Tính tất yếu của quá trình cổ phần hoá các NHTMNN.
2.1 Về phía khách quan.
Yêu cầu và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế đã đặt NHTM NN trước
xu thế tất yếu của tiến trình cổ phần hoá ( CPH ). Hội nhập kinh tế là một xu hướng
tất yếu, do đó, cạnh tranh của một doanh nghiệp không còn bó hẹp trong phạm vi
giữa các doanh nghiệp hay phạm vi quốc gia mà nó còn đã mở rộng phạm vi toàn
thế giới. Nghị quyết đại hội toàn quốc lần thứ IX của đảng đã nêu rõ chủ trương
của Đảng và Nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế nhấn mạnh phương trâm chủ
động hội nhập với các nguyên tắc phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp, giữ
vững độc lập, tự chủ và định hướng XHCN. Riêng đối với ngành ngân hàng, việc
Việt nam ra nhập khu vực mậu dịch tự do Asean ( Afta ) và việc thực hiện hiệp
định thương mại Việt – Mỹ sẽ mang lại nhiều cơ hội cho các ngân hàng trong nước.
Song những thách thức từ quá trình này sẽ là rất lớn bởi các NHTM trong nước
hiện tại đang thể hiện khả năng cạnh tranh kém hơn so với các ngân hàng nước
ngoài trên tất cả các phương diện. Vì vậy các NHTM trong nước nói chung và các
NHTM NN nói riêng không còn cách nào khác là phải tăng cường năng lực tài
chính cũng như khả năng cạnh tranh để đối mặt với những thách thức từ hội nhập,

và cổ phần hoá là phương án được đưa ra để đạt tới mục tiêu đó.
2.2 Về phía chủ quan.
Xét về tổng thể trước yêu cầu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế các
NHTM NN vẫn còn một số hạn chế trong kinh doanh. Theo đánh gía của ngân
hàng thế giới ( WB ) tại báo cáo phân tích hệ thống ngân hàng việt nam tháng 6 /
2002, những hạn chế chủ yếu đó là:
Năng lực tài chính còn hạn chế do vốn tự có nhỏ bế nguyên nhân làm cho tỉ
lệ an toàn vốn thấp so với thông lệ quốc tế, chất lượng tài sản còn thấp do nợ xấu
4
Mai Hoµng TiÕn Ng©n hµng 46C
vẫn còn tồn tại trong khi viêc trích lập dự phòng rủi ro chưa đầy đủ, năng lực quản
lý điều hành còn hạn chế .
Điều này được thể hiện qua
Bảng 1 – Một số chỉ tiêu thể hiện năng lực tài chính của các NHTM NN
Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003
Tổng tài sản ( tỷVND ) 179629 239584 299352 378961 470315
Tốc độ tăng trưởng (%) 25,55 33,38 24,95 26,59 24,11
Vốn tự có (VĐL và quỹ
BSVĐL)
7473 6673 7117 12010 17018
Tỷ lệ tăng vốn tự có 16% -11% 7% 69% 42%
Hệ số CAR 5,2% 3,5% 3% 4% 4,5%
Tống số vốn tự có bị thiếu 4023 8660 12042 11244 13082
Bảng 2 – Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động của các NHTM NN
Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003
Nợ quá hạn /tổng dư nợ 14,74 11,19 8,74 7,58 5,01
Lợi nhuận ròng /vốn tự có( ROE ) 8,63 12,81 15,58 9,43 6,54
Lợi nhuận ròng /tổng tài sản có ( ROA ) 0,36 0,36 0,38 0,3 0,38
Nguồn: Báo cáo ngân hàng nhà nước
- Tiềm lực tài chính ( xem bảng 1 )

Một trong những vấn đề nan giải nhất của các NHTM NN hiện nay là vấn đề
thiếu vốn. Hiện tại, mức vốn tự có của các NHTM NN trong khoảng từ 1,2 nghìn tỉ
đến 2,3 nghìn tỉ VND. Nếu kể cả phần tăng vốn điều lệ qua bốn đợt là 11.000 nghìn
tỉ theo quyết định số 435/ QĐ – TTG ngày 14/6/2002 của Thủ tướng chính phủ thì
tổng số vốn tự có của các ngân hàng này mới đạt hơn 15 nghìn tỉ đồng ( tương
đương với 800 triệu $ ). Bảng 1 cho thấy vốn tự có của các NHTM NN tăng một
cách nhanh chóng và liên tục qua hai năm 2002- 2003, chủ yếu là do việc chính
phủ thức hiện cấp bổ sung vốn điều lệ. Mặc dù số vốn được cấp là tương đối lớn,
nhưng nên tính tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định tại quyết định số 297/
1999/QĐ - NHNN5 ngày 25/8/1999 thì các NHTM NN chỉ đạt được tỉ lệ an toàn
5
Mai Hoµng TiÕn Ng©n hµng 46C
vốn bình quân là 5% ( so với mức 2,8% vào năm 2000 ), thấp xa so với tiêu chuẩn
quốc tế ( 8% )
- Hiệu qủa hoạt động ( xem bảng 2 )
Theo thông lệ quốc tế các chỉ số của một ngân hàng được coi là hoạt động tốt
là: ROA 1%, ROE 15% so sánh các chỉ số này với NHTM NN, ta thấy:
Hiệu quả hoạt động thấp ( mức ROA bình quân 0,38% bằng 1/3 so với mức
trung bình ). ROE liên tục giảm qua các năm 2001 – 2003 do nợ xấu lớn và do việc
mở rộng hoạt động, chi phí quản lý tăng, trong khi chênh lệch lãi suất bình quân
giữa huy động và cho vay có xu hướng giảm. Chỉ tiêu nợ qúa hạn mặc dù liên tục
giảm qua các năm và hiện ở mức thấp, nhưng đây là nợ theo tiêu chuẩn VAS – tiêu
chuẩn kế toán Việt nam chứ chưa theo IAS – tiêu chuẩn kế toán quốc tế.
- Năng lức quản lý điều hành còn hạn chế.
Mặc dù trong thời gian qua, công tác nâng cao năng lực quản trị điều hành
của các NHTM NN đã được tăng cường nhưng hiện vẫn còn nhiều tồn tại, đặc biệt
là trong công tác quản trị rủi ro tín dụng, dẫn đến tỉ lệ nợ qua hạn có nhiều hướng
gia tăng, chất lượng tín dụng chưa đồng đều. Hệ thống cơ chế khuyến khích bao
gồm cơ chế lương thưởng và sử phạt hiện chưa thích hợp và chưa tạo được động
lực. Vì vậy CPH là giải pháp để các NHTM NN khắc phục tất cả những yếu kém

trên, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trong tiến trình hội nhập.
3. Những lợi ích từ cổ phần hoá.
3.1 Dưới góc độ quản lý vĩ mô:
Cổ phần hoá thúc đẩy thị sự phát triển của thị trường vốn và thị trường dịch
vụ tài chính theo con số thống kê mới nhất, tổng giá trị chứng khoán hoá trên thị
trường chứng khoán Việt nam chiếm khoảng 0.5% GDP ( trên dưới 2.000 tỉ đồng ).
Với sự tham dự của 28 công ty niêm yết trên thị trường và khoảng 19 nghìn cổ
đông. Việc CPH một NHTM NN chắc chắn sẽ thổi một luồng sinh khí mới vào
6
Mai Hoµng TiÕn Ng©n hµng 46C
hoạt động của thị trường chứng khoán. Sự sôi động của thị trường càng gia tăng khi
có các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính cũng được
niêm yết và giao dịch cổ phiếu. Niêm yết cổ phiếu của các ngân hàng thương mại
cổ phần ( NHTMCP ) và CPH một bộ phận NHTM NN sẽ được coi là cuộc cách
mạng lần hai trong quá trình tiếp tục đổi mới hoạt động ngân hàng ở Việt nam,
được thực hiện sau một thời gian chấn chỉnh và củng cố sắp xếp lại mỗi khối ngân
hàng này.
3.2 Dưới góc độ quản lý vi mô của ngân hàng
- CPH sẽ giúp ngân hàng nâng cao hiệu quả hoạt động. Hiệu quả ở đây thể
hiện qua các góc độ: (1) nâng cao hệ số an toàn vốn. (2) tăng cường năng lức quản
trị điều hành và hiện đại hóa ngân hàng nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và sử
dụng vốn. (3) tăng cường năng lực lượng kiểm soát nội bộ, hoạt động kinh doanh
an toàn, lành mạnh theo chuẩn mực quốc tế, làm giảm những khoản nợ xấu và tăng
khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong bối cảnh phát triển và hội nhập kinh tế
quốc tế, buộc ngân hàng phải ứng xử theo quy luật thị trường và cơ cấu lại nhằm
tối đa hoá lợi nhuận.
- CPH hoá sẽ thay đổi phương thức quản lý và nhận thức của người lao động.
NHTM NN khi CPH sẽ loại bỏ sự thiếu minh bạch, buộc lãnh đạo ngân hàng phải
làm việc vì lợi ích của cổ đông, và vì vậy buộc họ phải nỗ lực hết mình nếu không
muốn bị cổ đông phế truất điạ vị lãnh đạo. Đối với người lao động, khi quyền lợi

riêng đã được gắn két với quyền lợi chung, họ sẽ quan tâm đến hiệu quả hoạt động
kinh doanh .
- CPH sẽ thu hút được các nhà đầu tư chiến lược.
Hiện nay, DRAGON CAPITAL của Anh đã đầu tư vào 3 NHTMCP: ACB,
VPBank và Sacombank, DEUTSCH BANK của Đức sẽ mua cổ phần của
Eximbank, dự kiến khoảng 20 -30% vốn điều lệ. Việc thu hút các nhà đầu tư chiến
lược có ý nghiã quan trong như: (1) khai thác kinh nghiệm qủan lý, điều hành ngân
7
Mai Hoµng TiÕn Ng©n hµng 46C
hàng hiện đại. (2) khai thác các công nghệ ngân hàng tiên tiến.(3) tận dụng mạng
lưới chi nhánh, đại lý của các nhà đầu tư này để mở rộng hoạt động.
4. Khái quát về NHTMCP trong quá trình hội nhập và phát triển.
Sự ra đời và hoạt động của các NHTMCP Việt nam gắn liền với quá trình
đổi mới hoạt động hệ thống ngân hàng thông qua việc chuyển đổi từ hệ thống ngân
hàng một cấp thành hệ thống ngân hàng hai cấp ( ngân hàng nhà nước và các
NTHM), trong bối cảnh kinh tế nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung quan liêu bao cấp sang nền KTTT định hướng XHCN. Sau hơn 15 năm hoạt
động hệ thống NHTMCP đã trải qua những thăng trầm để tồn tại, ngày càng được
hoàn thiện và không ngừng phát triển, đồng thời khẳng định vai trò, vị trí của mình
trong hệ thống ngân hàng, góp phần tích cực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
cụ thể: xoá bỏ cơ bản tình trạng cho vay nặng lãi, thu hút được tiền nhàn rỗi của
mọi tầng lớp dân cư tạo nguồn đầu tư phát triển kinh tế thúc đẩy sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các hộ gia đình qua đó góp phần thực
hiện tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển các thành phần
kinh tế phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với vai trò là
huyết mạch của nền kinh tế, sự ổn định và phát triển của hệ thống ngân hàng có ý
nghiã hết sức quan trọng để thúc đẩy và duy trì sự phát triển của các ngành nghề,
lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Vì vậy công tác chấn chỉnh, củng cố đối với hệ thống
NHTM nói chung và NHTMCP nói riêng luôn được coi là nhiệm vụ thường xuyên
của NHNN nhằm kịp thời phát hiện, cảnh báo, ngăn ngừa những sai phạm, tổn thất

trong hoạt động ngân hàng có thể dẫn đến sự đổ vỡ dây chuyền của hệ thống ngân
hàng và phạm vi nền kinh tế, qua đó không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh
của các ngân hàng, đảm bảo hoạt động kinh doanh có hịêu quả tại thị trường trong
nước và tiến tới mở rộng phạm hoạt động trên thị trường thế giới và khu vực. Kết
8
Mai Hoµng TiÕn Ng©n hµng 46C
quả công tác chấn chỉnh, củng cố đối với NHTMCP thời gian qua đã đạt được
nhưng kết qủa khả quan
4.1 Tình hình phát triển của các NHTMCP ở Việt nam.
Các NHTMCP Việt nam ra đời từ năm 1990, sau khi pháp lệnh ngân hàng và
công ty tài chính được ban hành. Những năm đầu thập kỉ 90, số lượng các
NHTMCP là 30 ( trong đó có 21 NHCP đô thị và 9 NHCP nông thôn ). Hầu hết các
ngân hàng này đều được điều chỉnh từ những tổ chức tín dụng ( TCTD ) cũ, (có từ
trước khi ra đời pháp lệnh ngân hàng), với quy mô nhỏ, hoạt động trong phạm vi
các địa phương ( huyện, tỉnh , TP ). Đến cuối năm 1997 cả nước có 52 NHTMCP
( trong đó có 32 NHTMCP đô thị và 20 NHTMCP nông thôn) với vốn điều lệ bình
quân của một NHTMCP đô thị là 45 tỷ đồng và một NHTMCP nông thôn là 3 tỷ.
Từ năm 1998 thực hiện chủ trương của chính phủ về việc cơ cấu lại hệ thống NH
Việt nam nhằm từng bước lành mạnh hoá tình hình tài chính của các NHTM, đưa
hệ thống NHTM nước ta hội nhập với thị trường tài chính khu vực và thế giới,
NHNN bắt đàu triển khai “ đề án chấn chỉnh, củng cố, sắp xếp lại hệ thống các
NHTMCP” đã được Thủ tướng chỉnh phủ phê duyệt.
4.2 Vai trò của NHTMCP.
Với tính chất là loại hình TCTD được tổ chức hoạt động theo nguyên tắc tự
chiụ trách nhiệm theo trong cơ chế thị trường, không dựa vào sự bao cấp của nhà
nước, các NHTMCP đã khẳng định vị trí của mình là một bộ phận không thể thiếu
được trong hệ thống các NHTM nước ta. Trong những năm qua các NHTMCP đã
thể hiện vai trò tích cực trong việc huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của
các tổ chức và dân cư để cho vay, đầu tư phát triển, đặc biệt là đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ.

4.3 Tình hình hoạt động của các NHTMCP.
Theo só liệu thống kê ( đến ngày 31/5/2004 ):
9
Mai Hoµng TiÕn Ng©n hµng 46C
*. Tổng nguồn vốn huy động của khối các NHTMCP đạt khoảng gần 73.800 tỷ
đồng, tăng khoảng hơn 9.500 tỷ đồng so với cuối năm 2003 ( tỷ lệ tăng khoảng hơn
14% ), chiếm khoảng gần 12% thị phần của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng
*. Tổng dư nợ cho vay đối với khách hàng của khối các NHTMCP là khoảng hơn
42800 tỷ đồng, tăng khoảng gần 4000 tỷ đông so với cuối năm 2003( tỷ lệ tăng là
10% ), chiếm khoảng gần 11% thị phần của toàn hệ thống các TCTD.
*. Về chất lượng hoạt động: theo đánh giá của NHNN thì trong 6 tháng đầu năm
2004, các NHTMCP hoạt động tương đối ổn định và đã nâng cao được chất lượng
hoạt động. Tuy nhiên còn có 3 NHCP yếu kém đang chiụ sự quản lý giám sát đặc
biệt của NHNN.
*. Về kết qủa kinh doanh: chênh lệch thu chi ( lợi nhuận trước thuế ) của các
NHTMCP trong năm 2003 vào khoảng gần 800 tỷ đồng. Tỷ suất lợi nhuận ( lợi
nhuận trước thuế so với vốn tự có ) bình quân đạt khỏang gần 19% ( trong 22
NHCP đô thị, có 13 NH đạt tỷ suất lợi nhuận từ 20% trở lên, 5 NH đạt từ 22 - 38%,
trong 10 NHCP nông thôn, có 4 NH hoạt động hiệu qủa ).
4.4 Tình hình tăng vốn điều lệ và hiện đại hoá công nghệ của các NHTMCP.
Trước thách thức của yêu cầu hội nhập quốc tế, để đủ sức cạnh tranh, các
NHTMCP đang tích cực củng cố tăng cường năng lực tài chính, năng lực quản trị
điều hành của mình theo lộ trình quy định của NHNN. Tính tới cuối năm 2003,
tổng số vốn tự có của cả hệ thống NHTMCP là 4191 tỷ đồng, trong đó các
NHTMCP đô thị là 2060 tỷ đồng. Tổng số vốn điều lệ của hệ thống các NHTMCP
là 3957 tỷ đồng trong đó các NHTMCP đô thị là 3827 tỷ đồng. Các ngân hàng đều
đạt mức vốn điều lệ theo quy định của NHNN. Nhiều NHTMCP đã tích cực trong
việc hiện đại hoá hoạt động và phát triển các dịch vụ tiện ích trên cơ sở công nghệ
cao như: dịch vụ thể NH nội địa và quốc tế (visacard, mastercard ...) dịch vụ NH
điện tử ( internet banking, home banking), hệ thống giao dịch tự động ATM ... (như

NHCP Đông á, NHCP Á châu, NHCP Sài gòn thương tín, NHCP Kỹ thương... ).
10

×