Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

toàn câù hoá và hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.99 MB, 41 trang )

MỞ ĐẦU
Thập kỷ cuối của thế kỷ XX đã chứng kiến nhiều thay đổi lớn về mọi mặt
trong đời sống chính trị và kinh tế, đặc biệt là những thành tựu khoa học, công
nghệ. Hoà bình hợp tác vì sự phát triển ngày càng trở thành một đòi hỏi bức xúc
của nhiều quốc gia và các dân tộc trên thế giới nhằm tập trung mọi nỗ lực và ưu
tiên cho phát triển kinh tế. Những tiến bộ trên lĩnh vực khoa học công nghệ nhất là
công nghệ truyền thông và tin học, càng làm tăng thêm sự gắn kết giữa các quốc
gia và giữa các nền kinh tế. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quố tế
đã và đang trở thành yêu cầu bức thiết đối với mỗi quốc gia. Xu hướng này đã thể
hiện rõ qua sự gia tăng đáng kể trong những năm gần đay sự trao đổi hàng hoá,
dịch vụ, vốn và công nghệ…giữa các nước trên thế giới.
Là một trong những nước nghèo trên thế giới, sau mấy chục năm liên tiếp bị
chiến tranh tàn phá, Việt Nam bắt đầu bước vào thời kỳ thực hiện chuyển đổi nền
kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường, do đó nền
kinh tế của chúng ta còn kém phát triển và lạc hậu so với thế giới. Con đường để
Việt Nam thoát khỏi nghèo nàn đó là công nghiệp hóa theo mô hình phát triển rút
ngắn. Mà để làm được như vậy thì chúng ta phải ứng dụng những thành tựu khoa
học- công nghệ của thế giới bằng cách tham gia vào quá trình toàn cầu hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế. Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập giúp cho các nước có thể
tiếp cận được nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ bên ngoài, tiếp cận
với thị trường thế giới, tham gia vào phân công và hợp tác quốc tế. Vì vậy nếu có
đường lối đúng đắn, tranh thủ được nguồn lực bên ngoài và hội nhập quốc tế thì
các nước kém phát triển có thể tạo bước phát triển nhảy vọt, có thể rút ngắn
khoảng cách, đuổi kịp các nước có nền kinh tế phát triển.
Toàn cầu hoá góp phần đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế, tạo dựng môi
trường thuận lợi để phát triển, đạt được sự ổn định và phát triển khá cao. Bên cạnh
đó toàn câù hoá và hội nhập kinh tế quốc tế cũng gây ra không ít khó khăn và
thách thức. Đó là khoảng cách giầu nghèo ngày càng lớn, phải đương đầu với
những đối thủ cạnh tranh rất mạnh trên thị trường thế giới…Vì vậy cần phải có
1
những giải pháp thích hợp để có thể giải quyết những khó khăn đó và phát triển


kinh tế có hiệu quả nhất.
2
NỘI DUNG
I-Một số vấn đề khái quát về toàn cầu hoá và quốc tế hoá:
1- Khái niệm toàn cầu hoá và quốc tế hoá:
Nền kinh tế thế giới trong hai thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX được khắc hoạ bởi
rất nhiều những đặc điểm phát triển mới : chu kỳ kinh tế ngày càng không rạch ròi
với những chấn động ngắn và thời gian tăng trưởng kéo dài ; các nền kinh tế quốc
gia, lớn nhỏ ngày càng tương thuộc chặt chẽ với nhau và đang kết nối thành một
mạng thống nhất trên quy mô toàn cầu ; các nền kinh tế quốc gia và khu vực đang
xúc tiến tích cực các quá trình liên kết , hội nhập và mở cửa theo hướng tự do hoá
và theo đó làm xuất hiện hàng loạt các thể chế kinh tế khu vực và quốc tế dưới
nhiều cấp độ; làn sóng sát nhập của các tập đoàn xuyên quốc gia với quy mô khổng
lồ đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ …Tất cả là sự hiện thân của những xu hướng
phát triển của nền kinh tế thế giới trong những năm cuối cùng của thế kỷ XX, trong
đó toàn cầu hoá là đặc trưng bao trùm, phổ biến nhất. Theo đó, nền kinh tế thế giới
thế kỷ XXI sẽ mở ra nhiều cơ hội và thách thức cho mọi nền kinh tế , bất kể đó là
nền kinh tế phát triển hay nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi. Việc nhận
diện toàn cầu hoá để lựa chọn chiến lược phát trển quốc gia mang tính thích ứng
cao là một vấn đề cấp thiết của mọi nền kinh tế và điều này càng trở nên bức thiết
hơn đối với một nền kinh tế đi sau , mới chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và
hội nhập vào nền kinh tế thế giới như nền kinh tế Việt Nam.
Toàn cầu hoá là một danh từ lần đầu tiên được Webster đưa vào từ điển năm
1961 và nó được sử dụng khá phổ biến trong hai thập kỷ gần đây. Nhưng vào năm
1870 nhà triết học Jợemy Benthamđã sử dụng tính từ “quốc tế ” về khái niệm quan
hệ quốc tế đã được sử dụng rộng rãi từ thời đó . Toàn cầu hoá hay quốc tế hoá đều
là những khái niệm diễn tả những mối quan hệ vuợt ra ngoài biên giới quốc gia.
Tuy nhiên cấp độ giữa chúng là khác nhau. Toàn cầu hoá mà cốt lõi là toàn cầu hoá
kinh tế là bước phát triển mới và cao hơn của quốc tế hoá kinh tế.
3

Hiện nay tồn tại nhiều định nghĩa về toàn cầu hoá . Về mặt kinh tế phải chăng
toàn cầu hoá là quá trình lực lượng sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế vượt ra
ngoài biên giới quốc gia và phạm vi từng khu vực, lan toả ra phạm vi toàn cầu,
trong đó hàng hoá vốn tiền tệ thông tin lao động…vận động thông thoáng , sự phân
công lao lao động mang tính quốc tế , mối quan hệ kinh tế giữa quốc gia các khu
vực đan xen nhau ,hình thành mạng lưới quan hệ đa tuyến ,vận hành theo các “luật
chơi” chung được hình thành qua sự hợp tác và đấu tranh giữa các thành viên của
cộng đồng quốc tế . trong xu thế ấy, các nền kinh tế quan hệ ngày càng mật thiết
với nhau. Toàn cầu hoá là bước phát triển mới cao hơn của của quốc tế hoá kinh tế
Quá trình toàn cầu hoá đang phát triển cùng tồn tại trên thế giới hiện nay thực chất
là quá trình quốc tế hoá đã đạt đến độ nhuần nhuyễn, nó phản ánh một quá trình
phát triển đặc trưng bản chất là không có ranh giới quốc gia và khu vực trong mối
quan hệ kinh tế xã hội ngày càng phát triển.
2-Quá trình hình thành toàn cầu hoá:
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng xu thế toàn cầu hoá kinh tế đã hình thành và phát
triển qua một chặng đường khá dài .Tính đến nay lịch sử nhân loại đã từng chứng
kiến ba lần có “hiện tượng toàn cầu hoá” trước khi bước vào thời đại “toàn cầu hoá
mới” được bắt đầu từ những năm cuối thế kỷ XX.
Lần thứ nhất diễn ra vào cuối thế kỷ XV sau khi Colombo tìm ra Châu Mỹ. Từ
đó làm cho người châu Âu đổ đi các nơi để “khai hoá văn minh” thế giới. Lần
chinh phục thế giới này làm cho giá trị Châu Âu thay đổi và được truyền bá khắp
nơi . Kết quả là tạo ra cơ hội tích luỹ tư bản lớn và làm cho nước Anh trở thành bá
chủ thế giới.
Lần thứ hai vào giữa thế kỷ XIX và được đánh dấu bằng thời kỳ người Châu
Âu chinh phục người Châu á và Nhật Bản nắm lấy cơ hội tiến hành cuộc “duy
tân”, hưng thịnh đất nước.
Lần thứ ba diễn ra vào thời kỳ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai với sự ra đời
của một trật tự thế giới mới do các nước thắng trận dẫn dắt , các quốc gia thuộc
Châu á ,Châu phi ,Châu Mỹ la tinh giành được độc lập và hoà nhập vào cộng đồng
thế giới . Điểm chung của ba lần “toàn cầu hoá” này là ở chỗ chúng đều là hệ quả

4
của chiến tranh và chính sách thực dân, trình độ phát triển của các quốc gia còn
thấp , các vấn đề chung có tính chất toàn cầu chưa xuất hiện.
Khác với ba lần trước toàn cầu hoá lần thứ tư được xuất hiện bởi sự bùng nổ
của công nghệ thông tin, làn sóng dân chủ thứ ba của Bồ Đào Nha vào năm 1974
,sự sụp đổ của liên Xô và Đông Âu vào đầu thập kỷ 90. Toàn cầu hoá lần này nặng
về phương diện kinh tế và chính trị. Về kinh tế, toàn cầu hoá lấy toàn cầu hoá thị
trường làm mục tiêu, lấy toàn cầu hoá thông tin làm động lực, bởi vậy nó mang ý
nghĩa sâu rộng hơn nhiều so với những lần trước. Cũng vì cậy nó đụng chạm đến
nhiều nước, lôi cuốn đông đảo dân số các nước nhập cuộc.
Theo quan niệm của C.Mác và Ănghen thì xu hướng toàn cầu hoá kinh tế có từ
khi đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa hình thành và tuy không dùng khái niệm toàn
cầu hoá nhưng những nhận định của các ông thực chất là bàn về toàn cầu hoá
.Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” các ông đã viết “…Vì luôn
luôn bị thúc đẩy bởi nhu cầu về những nơi tiêu thụ sản phẩm ,giai cấp tư bản xâm
lấn khắp toàn cầu .Nó xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở khắp nơi và thiết lập những
mối liên hệ ở khắp nơi. Do bóp nặn thị trường thế giới, giai cấp tư bản đã làm cho
sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước mang tính chất thế giớ . Tuy nhiên theo
quan niệm của các nhà nghiên cứu hiện nay thì toàn cầu hoá kinh tế với đúng nghĩa
của nó chỉ hình thành từ khi chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đã thành chủ nghĩa
tư bản độc quyền, nhất là từ khi các cường quốc tư bản chủ nghĩa đã phân chia
xong thế giới về lãnh thổ chính trị .Về điều này V.I.Lênin khi nghiên cứu chủ
nghĩa đế quốc đã nhận định : “…Mạng lưới dày đặc những mạch máu ngân hàng
lan rộng nhanh chóng như thế nào , nó bao phủ cả nước, tập trung hết thảy tư bản
và các khoản thu nhập bằng tiền biến thành hàng nghìn hàng vạn doanh nghiệp tản
mạn thành một đơn vị kinh tế tư bản chủ nghĩa”.
Như vậy dù có sự khác nhau trong việc phân kỳ lịch sử hình thành quá trình
toàn cầu hoá, nhưng các nhà nghiên cứu về cơ bản đều có sự tương đồng nhất
định . Họ đều cho rằng toàn cầu hoá và quốc tế hoá kinh tế là kết qủa của sự phát
triển lực lượng sản xuất, đều là tất yếu lịch sử .Toàn cầu hoá kinh tế xét cho cùng

là hệ quả của những biến đổi trong lĩnh vực công nghệ truyền thông và thông tin,
5
và chính ba nhân tố : công nghệ –kỹ thuật, thông tin và tiền vốn lưu chuyển xuyên
quốc gia đã trở thành động lực thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá .Theo cách hiểu này
thì toàn cầu hóa ngày nay là sản phẩm của văn minh nhân loại và do đó là cơ hội
để các quốc gia đón nhận, tự nguyện hội nhập và góp sức mình thúc đẩy toàn cầu
hoá phát triển.
2-Đặc trưng toàn cầu hoá :
Toàn cầu hoá kinh tế được biểu hiện nổi bật ở sự lưu chuyển xuyên quốc gia
của các dòng tiền vốn .Hay nói cách khác toàn cầu hoá về tài chính là đặc trưng nổi
bật chi phối các tiến trình tự do hóa về thương maị dịch vụ và đầu tư dã kết nối với
nhau ythành một mạng tren quy mô toàn cầu. Cụ thể là : Quy mô lưu chuyển vốn
quốc tế sẽ tiếp tục mở rộng. Ngày nay, 95% nền kinh tế tài chính nằm trong một
thế giới “ảo” vận động trên các xa lộ thông tin. Tiến trình nhất thể hoá tiền tệ sẽ
tăng nhanh. Xu hướng hình thành các đồng tiền chung kiểu đồng EURO sẽ xuất
hiện ở nhiều khu vực. Nghiệp vụ ngân hàng sẽ hoạt động theo hướng tổng hợp
hoá , mạng hoá. Xu hướng sát nhập trong lĩnh vực ngân hàng sẽ trở nên phổ biến
để hình thành các tập đoàn đa năng, xuyên quốc gia và điều tiết vốn trên phạm vi
toàn cầu. Thứ tự các thể chế tài chính quốc gia, khu vực thường xuyên bất cậpvới
các thể chế tài chính quốc tế. Nền kinh tế toàn cầu gắn chặt với nhau, chi phối lẫn
nhau nhưng đồng thời cũng mang đầy rủi ro, dễ thương tổn, nhất là những khâu
yếu trong hệ thống tài chính của các chính phủ quốc gia phải hành động theo
hướng vừa giảm bớt sự can thiệp vào hoạt động của các dòng vốn, vừa phải phản
ánh kịp thời các sự kiện xuất hiện trên thị trường tài chính và vốn xuyên quốc gia,
nghĩa là có sự điều chỉnh kịp thời và có đối sách linh hoạt với mọi biến đổi của nền
tài chính quốc tế.
Trong nền hinh tế toàn cầu xuyên quốc gia, quản lý vĩ mô, dưới sự hỗ trợ của
công nghệ thông tin, trở thành yếu tố có tính chất quyết định tưong lai phát triển
của nó. Sự phát triển của kĩ thuật viễn thông và công nghệ thông tin đã cung cấp
những phương tiện hoàn thiện và được áp dụng phổ biến trong mọi lĩnh vực quản

lý và do vậy, đã trở thành phương tiện lưu chuyển vốn toàn cầu . Như vậy tính chất
6
xã hội sản xuất quy mô lớn trên phạm vi toàn cầu xác lập vai trò quyết định và
năng động của công tác quản lý.
Từ tính tương thuộc chặt chẽ giữa các nền kinh tế quốc gia, các hoạt động
thương mại, đầu tư ,tài chính đều được gia tăng mạnh mẽ và bắt buộc mọi nền kinh
tế phải tham gia vào một kiểu thị trường thế giới thống nhất một “ sân chơi chung”
bình đẳng cho mọi nền kinh tế, bất kể đó là nền kinh tế thuộc trình độ và xuất phát
điểm phát triển như thế nào. Nói cách khác, bước vào thế kỉ XXI thì toàn cầu hoá
trước hết là toàn cầu hoá thị trường, bắt nguồn từ toàn cầu hoá thông tin và cuối
cùng là các quá trình kinh tế. Thị trường toàn cầu hoá, do đó, được biểu hiện là thị
trường mở và các nền kinh tế quốc gia tự nguyện mở cửa nền kinh tế nước mình để
trên cơ sở các lợi thế so sánh vốn có, hội nhập hiệu quả vào thị trường khu vực và
thế giới. Tính bổ sung lẫn nhau giữa các thị trường thông qua hội nhập và cạnh
tranh đã khiến cho mục tiêu trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia là chạy theo
thị trường mở rộng nhất chứ không phải là lơị nhuận cao nhất ( mặc dù, bao giờ lợi
nhuận tối đa cũng là mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp). Bởi lẽ, thương mại
trong nền kinh tế toàn cầu đang trở thành điều kiện của đầu tư và đầu tư càng mở
rộng thì tất nhiên, thương mại sẽ càng phát triển.
Trong nền kinh tế toàn cầu, quốc gia dân tộc có chủ quyền không còn là chủ thể
duy nhất có vai trò chế định chính sách kinh tế mà là sự tồn tại đồng thời của 5 chủ
thể có thể đảm nhận vai trò này một cách hiệu quả. Đó là: 1) Quốc gia dân tộc có
chủ quyền; 2)các khối kinh tế khu vực ( ví dụ ASEAN, EU…);3) các thể chế kinh
tế quốc tế(IMF,WB…);4) các công ty xuyên quốc gia(TNCS) và 5)các tổ chức phi
chính phủ. ở đây cần đặc biệt chú trọng đến vai trò của các công ty xuyên quốc
gia .Với cấu trúc hoạt động theo hình mạng lưới, cắm nhánh , mở văn phòng đại
diện ở tất cả các quốc gia và khu vực, tự TNCs đã là một tế bào kết nối nền kinh tế
thế giới thành một hệ thống toàn cầu . Mặt khác, tự do hoá mậu dịch, đầu tư và
toàn cầu hoá thị trường, sự điều chỉnh cơ cấu kinh tế toàn cầu và cạnh tranh gay
gắt đã và đang thúc đẩy nhanh tốc độ sát nhập và tổ chức lại sản xuất kinh doanh

của các TNC. Đầu thế kỷ XXI sự phát triển của các TNC sẽ xuất hiện thêm trạng
thái mới như : liên minh xuyên quốc gia ; tập trung đầu tư vào những ngành có
7
tiềm năng tăng trưởng nhanh như thông tin, tài chính ; mở rộng FDI sang các nước
đang phát triển ; tăng cường các hoạt động nghiên cứu và triển khai tại các nước
đang phát triển …Theo đó, chúng đang trở thành các đế chế –công ty, những đạo
diễn và diễn viên chính trên vũ đài kinh tế thế giới .Do vậy, chúng không chỉ là
hiện thân của các quá trình tổ chức sản xuất ,phân phối ,trao đổi và tiêu dùng
xuyên quốc gia không chỉ biểu hiện ở cấp vĩ mô của những quá trình kinh doanh
quốc tế vì mục tiêu lợi nhuận thị phần, doanh số, ưu thế và ổn định mà cùng với tác
động của các xu thế khác, chúng đang ngày càng hưởng đến các luật chơi cũng
như các chính sách kinh tế của nhiều quốc gia. Điều đó cũng có nghĩa là năm chủ
thể trong nền kinh tế toàn cầu ảnh hưởng lẫn nhau ,ràng buộc và chi phối lẫn nhau.
Trong nền kinh tế toàn cầu hoá ,xu hướng liên kết kinh tế khu vực và quốc tế
hoá được đẩy mạnh hơn bao giờ hết . Kể từ đầu thập kỷ 90, hàng loạt các tổ chức
kinh tế khu vực và quốc tế dưới nhiều cấp độ và mang tính thể chế ngày càng cao,
đã ra đời. Chính tính đa dạng về cấp độ phát triển, sự khác biệt về các đặc điểm
địa-chính trị và địa-kinh tế cùng những đặc tính văn hoá đang làm cho các hình
thức kinh tế trở nên nhiều vẻ và rất phong phú về nội dung. Tuy vậy về bản chất
chúng, là hiện thân của xu hướng tự do hoá về thương mại và đầu tư quốc tế và
những trình độ khác nhau của tiến trình nhất thể hoá nền kinh tế thế giới. Đó là sự
liên kết kinh tế mang tính thể chế cao với phạm vi hoạt động rộng lớn trê quy mô
toàn cầu như WTO. Đó là khuynh hướng hình thành một liên minh kinh tế thống
nhất cho toàn khu vực như EU hoặc đó chỉ là một thoả thuận khu vực xuyên qua
nhiều lục địa không mang tính pháp lý nhằm thúc đẩy tiến trình tự do hoá như
APEC. Đó là dàn xếp khu vực ở quy mô nhỏ hơn với nhiều yếu tố đồng nhất nhằm
xây dựng khu vực mậu dịch tự do như NAFTA, AFTA MERCOSUR…Có thể nói,
liên kết kinh tế xét trên mọi góc độ, đang hướng tới hình thành một nền kinh tế
toàn cầu tự do hoá và nhất thể hoá, giúp cho các nền kinh tế quốc gia phát huy tối
đa các lợi thế so sánh của mình trong một nền kinh tế thế giới đã toàn cầu hoá.Rõ

ràng nói chính xác ra, đặc trưng này quy định sự tham gia tất yếu của mọi nền kinh
tế quốc gia vào các thể chế kinh tế khu vực và quốc tế ở nhiều cấp độ.
-Bản chất của toàn cầu hoá :
8
Cũng như bất kỳ hiện tượng chính trị kinh tế xã hội nào khác, toàn cầu hoá phản
ánh tương quan lực lượng giữa các nước các lực lượng tham gia quá trình đó.Trong
thời kỳ chủ nghĩa tư bản còn thống trị toàn thế giới thì điều đương nhiên là quá
trình quốc tế hoá chịu sự chi phối hoàn toàn của các tập đoàn tư bản. Trong thời kỳ
hệ thống XHCN thế giới tồn tại quan hệ kinh tế quốc tế bị chi phối bởi sự hợp tác
và đấu tranh giữa hai nền kinh tế: tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Từ sau khi
Liên Xô tan rã ,chủ nghĩa xã hội bị xoá bỏ ở các nước Đông Âu tương quan lực
lượng trên thế giới thay đổi không có lợi cho các lực lượng cách mạng. Về kinh tế,
các nước công nghiệp phát triển nhất là Mỹ chi phối nền kinh tế thế giới , từ sản
xuất tới vốn , công nghệ, xuất khẩu, dịch vụ, thông tin, giữ vai trò chủ chốt trong
nhiều tổ chức kinh tế quốc tế, từ đó tìm mọi cách áp đặt quyền thống trị các luật
chơi có lợi cho họ. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người nói tới tính chát đế
quốc của quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra hiện nay. Heinz Dietẻich chuyên gia
nghiên cứu chiến lược thuộc trung tâm nghiên cứu quốc tế Hoa Kỳ, khi phân tích
về toàn cầu hoá cho rằng, nhu cầu bành trướng của xã hội tư sản ở thế kỷ XVIII và
XIX được thể hiện thông qua chủ nghĩa thực dân, ở thế kỷ XX thông qua chủ
nghĩa đế quốc và hiện nay nó núp bóng dưới cái gọi là toàn cầu hoá.
4- Tư duy tiếp cận mới về toàn cầu hóa kinh tế:
Trong toàn cầu hoá kinh tế, các nước phát triển ,các nước đang phát triển và
chuyển đổi đều là những chủ thể tích cực của quá trình này. cơ hội và thách thức
của các quá trình toàn cầu hoá đã mở r a như nhau cho mọi nước và chính mức độ
hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu là nền tảng của để kiểm chứng một cách sâu sắc
nội lực và lợi thế so sánh của từng quốc gia dân tộc. Các tiến trình toàn cầu hoá tạo
ra kinh tế thị trường mở và việ hội nhập vào các thể chế khu vực và toàn cầu là
phương thức để kết hợp một cách hữu hiệu nhất nguồn lực bên trong và nguồn lực
bên ngoài cho sự phát triển của các quốc gia dân tộc. Những thách thức rủi ro của

mỗi nước không còn là vấn đề riêng của các nước đó; trái lại trong thế giới toàn
cầu hoá, sự tuỳ thuộc lẫn nhau và xoắn bện chặt chẽ giữa các nước đã đặt ra những
khả năng cảnh báo sớm cho nhau để tránh các rủi ro, thiệt hại cho từng nước và cả
cộng đồng quốc tế.
9
Toàn cầu hoá kinh tế đã thúc đẩy sự biến đổi cao và nhanh chóng của nền kinh
tế toàn cầu. Công nghệ kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin thay đổi chóng
mặt. Tài chính quốc tế vận hành phức tạp với yêu cầu phải thiết lập một cấu trúc
mới. Các phương thức tiếp cận thị trường đã đan xen chặt chẽ giữa những kiểu tiếp
cận thống nhất, phân biệt và tập trung, giữa trực tiếp và gián tiếp mà trong đó máy
tính và internet đã làm thay đổi hoàn toàn các thuật ngữ và tư duy kinh tế truyền
thống. Điều này đặt ra thách thức cho ngay các nền kinh tế phát triển khi mà để áp
dụng các công nghệ và kỹ thuật kinh doanh mơi, họ phải thay đổi cơ cấu kinh tế,
phải có chính sách mới về ván đề thất nghiệp –và việc làm, phải tạo dựng được
nguồn tài chính cho các quá trình cải cách…Do đó, sự biến đổi nhanh của các quá
trình toàn cầu luôn là thách thức to lớn cho các nền kinh tế đang phát triển và
chuyển đổi vốn còn yếu kém về nhiều phương diện, cả về nguồn lực và thể chế
điều tiết nền kinh tế.Tuy nhiên, trong trường hợp này, thách thức cũng đồng thời là
cơ hội. Bởi lẽ, các nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi sẽ có điều kiện để cải
cách toàn diện nền kinh tế của mình, tranh thu tối đa các nguồn lực và kinh nghiệm
nước ngoài để điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế.Đặc biệt, để thích ứng với
các tốc độ biến đổi nhanh của nền kinh tế toàn cầu, sự năng động của giới lãnh đạo
chính phủ các quốc gia giữ vai trò quyết định. Họ cần đoạn tuyệt dứt khoát với lối
tư duy kinh tế cũ, bảo thủ và còn mang nặng dấu ấn tập trung quan liêu bao câp để
thúc đẩy nền kinh tế nước mình chuyển đổi tích cực sang nền kinh tế thị trường mở
cửa.
Dưới sự tác động của toàn cầu hoá kinh tế, lợi thế so sánh của các quốc gia trong
nền kinh tế toàn cầu có sự thay đổi căn bản. Trên phạm vi toàn cầu, lợi thế phát
triển chủ yếu của thế giới ngày nay là trí tuệ và hàm lượng công nghệ cao chứ
không còn là lao động rẻ, tài nguyên rẻ và nguồn vốn.Điều này đặt ra sự phân chia

giữa các nhóm nướcvà khẳng định vai trò của từng nhóm nước với những lợi thế
so sánh khác nhau để bổ sung cho nhau trong sự hợp tác và phát triển. Các lợi thế
này cũng luôn biến đổi tuỳ theo trình độ phát triển của mỗi nước và đươmg nhiên
nền kinh tế nào càng kém phát triển, càng chịu nhiều thua thiệt và rủi ro do sự suy
giảm về lợi thế so sánh gây ra. Đó là thách thức cho các nước đi sau. Tuy vậy,
10
những cơ hội do toàn cầu hoá đem lại cho các nước đi sau cũng rất lớn . Các nước
này nếu tận dụng được những cơ hội đó chắc chắn sẽ có những cuộc rượt đuổi và
bứt phá ngoạn mục theo mô thức phát triển rút ngắn. Chẳng hạn, bằng các lợi thế
bên trong của mình về thị trường, lao động và tài nguyên các nước này có thể tham
gia vào các tầng nấc thấp hơn của sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế toàn cầu. Trong
khi các nước phát triển tập trung vốn và các nguồn lực của họ vào các ngành kỹ
thuật-công nghệ cao, có sức cạnh tranh lớn thì các đang phát triển sẽ có cơ hội phát
triển mạnh, các ngành công nghệ chế tạo truyền thống, sử dụng nhiều vốn và lao
động đồng thời, tận dụng kỹ thuật cao do bước chuyển sang nền kinh tế tri thức
đem lại, các nước này có thể hiện đại hoá các ngành sản xuất truyền thống. Về đại
thể họ có thể hướng tới một cơ cấu kinh tế với trình độ công nghệ không cao
nhưng tiên tiến, những ngành sử dụng nhiều lao động và là thành phần không thể
thiếu trong thị trường hoá- dịch vụ thế giới. Trong không gian phát triển đó,các
nước này sẽ có khả năng tiếp cận dễ dàng hơn với các dòng vốn quốc tế, các dòng
công nghệ kỹ thuật mới và kỹ năng quản lý hiện đại. Vấn đề là các nước đi sau cần
có mô thức thích ứng và tận dụng được các cơ hội này.
Để đạt được mô hình công nghiệp hoá theo kiểu rút ngắn thì cần phải có tư duy
mới về công nghiệp hoá cho các nước đi sau trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế.
Một là, sự phân công lao động mới trên phạm vi toàn cầu đã dành cơ hội cho các
nước này phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế so sánh về mặt lao động tài
nguyên. Hailà, kinh nghiệm thế giới đã chỉ cho thấy để đạt được tỷ trọng công
nghiệp chế biến từ 85-90%trong tổng kim ngạch xuất khẩu, các nước mới công
nghiệp hoá đã mất khoảng 20-25 năm và khoảng thời gian này đang có xu hướng
ngày càng ngắn lại. Ba la, chu kỳ sống của sản phẩm chế tạo ngày càng rút ngắn

rút ngắn còn khoảng 1-3 năm thay vì trên 10 năm, như nhiều dự báo đã khẳng
định. Theo đó, quá trình đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng mẫu mã , kiểu
dáng và năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá sẽ diễn ra với tốc độ nhanh.
Bốn là, điều kiện để được thụ hưởng các ưu đãi về thuế quan và phi thuế quan
trong các hiệp định thương mại đa phương mang tính khu vực và quốc tế chủ yếu
đều dành cho các sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo. Do đó bắt buộc tiến
11
trình công nghiệp hoá của các nước phải đẩy nhanh để ngay lập tức được hưởng lợi
từ các Hiệp định mà mình là thành viên. Năm là, sự bành trướng hoạt động của các
TNC sang các nước đang phát triển cũng như việc đẩy mạnh khuynh hướng sát
nhập đang trở thành một nhân tố tích cực trong việc tăng tổng đầu tư xã hội cho
các nước tiếp nhận, trong việc bổ sung công nghệ kỹ thuật, kỹ năng quản lý và văn
minh kinh doanh mới cho các nước đối tác. Mă3tj khác, sự hiện diện của các TNC
về đầu tư thương mại đã bắt buộc các nhà sản xuất trong nước, kể cả việc sản xuất
phục vụ nhu cầu bên trong theo hướng nhập khẩu đã đến lúc cũng phải coi thị
trường nội địa như là một bộ phận của chỉnh thể thị trường thế giới, Họ phải nâng
cao năng lực cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế để phát triển. Theo đó
tiến trình công nghiệp hoá sẽ có điều kiện phát triển hiệu quả với tốc độ nhanh
hơn .Liên kết và hợp tác với các quốc gia, các khu vực, giữa các tập đoàn kinh
doanh lớn nhỏ là xu hướng chủ đạo song sự cạnh tranh giữa chúng vẫn tồn tại và
càng quyết liệt. Lợi thế cạnh tranh trong nền kinh tế mới –nền kinh tế tri thức toàn
cầu hoá- tuỳ thuộc vào sức mạnh công nghệ, sức mạnh về quy mô tài chính và
năng lực kiểm soát nền kinh tế của các quốc gia. Sức cạnh tranh của các quốc gia,
ngoài việc dựa vào sức cạnh tranh của các tập đoàn kinh tế, còn tuỳ thuộc vào vị
thế, lợi thế so sánh và mức độ tham gia của các quốc gia đó vào thể chế khu vực và
quốc tế. Thực tế đã chứng minh rất sinh động là những nước nào thích ứng nhanh
với xu hướng tự do hoá và có năng lực cạnh tranh ngày càng cao, sẽ luôn là những
quốc gia chịu sự tác động ít nhất của những chấn động kinh tế khu vực và quốc tế.
Hơn nữa, thế thương lượng cạnh tranh của các quốc gia thành viên được nâng cao
trong quan hệ hợp tác kinh tế song phương. Rõ ràng, cạnh tranh và hợp tác lạ hai

động lực của sự phát, trong đó theo yêu cầu của các tiến trình toàn cầu hoá, hợp tác
sẽ là nhân tố chủ đạo của nền kinh tế toàn cầu hoá đã xoắn bện chặt chẽ các nền
kinh tế quốc gia và khu vực.
Những phân tích trên cho thấy là toàn cầu hoá kinh tế rõ ràng là được khởi
nguồn và thúc đẩy bởi các nước tư bản phát triển do chỗ các nước có nền tảng
khoa học công nghệ cao , có tiềm lực và trình độ phát triển và trình độ phát triển
cao, có phạm vi ảnh hưởng rộng lớn trong nền kinh tế thế giới. Tuy vậy cùng với
12
tiến trình phát triển, những mục tiêu chủ quan ban đầu của họ đã dần dần trở thành
những động lực khách quan và đằng sau những quá trình trên quy mô toàn cầu, các
nước tư bản phát triển cũng không hoàn toàn kiểm soát những lợi ích, những
chương trình kinh tế của họ đã ngày càng bị phụ thuộc rất lớn vào nhiều tập đoàn
khác, vào nhiều nước và nhiều khu vực khác, thậm chí họ không thể vượt qua được
những định chế quốc tế, trái lại họ chỉ đóng vai trò là một trong nhiều thành viên
tham gia soạn thảo các chương trình phát triển toàn cầu. Do vậy, toàn cầu hoá đã
không còn là của riêng các nước công nghiệp phát triển và tự do trong nội hàm cuả
nó, toàn cầu hoá đã thể hiện là đặc tính chung, văn minh chung của sự phát triển
toàn cầu. Để có đựơc nền kinh tế thực sự phát triển và bền vững thì các quốc gia
nên đi theo cách tiếp cận này để tham gia vào các tiến trình hội nhập quốc tế tích
cực, tự tin và có trách nhiệm cao hơn.
II- Nước ta cần phải chủ động tham gia vào toàn cầu hoá và
quốc tế hoá kinh tế:
1-Bối cảnh quốc tế và khu vực:
Trong tác phẩm”những giới hạn của sự tăng trưởng”. Câu lạc bộ Ronma xuất
bản 1972, cho rằng sự sụp đổ kinh tế toàn cầu sẽ xảy ra sau một thập kỷ nữa. Đó là
một dự báo bi quan về kinh tế thế giới. Tuy nhiên, trên thực tế, kinh tế thế giới
chẳng những không sụp đổ mà còn phát triển mạnh mẽ hơn, mặc dù không phải
không có trục trặc. Sự bùng nổ kinh tế thế giới trong những năm 90 bắt nguồn từ
sự gia tăng buôn bán giữa hơn 160 nước. Sự buôn bán này đang biến kinh tế thế
giới từ những mảng thị trường riêng lẻ thành một thị trường, một nền kinh tế duy

nhất. Một xu hướng mới đã hình thành, xu hướng toàn cầu hoá kinh tế.
Năm 1998 Mỹ và Canada đã ký hiệp ước tháo dỡ mọi rào cản trong việc buôn
bán giữa hai nước. Sau đó Mexico tham gia vào đã biến Bắc Mỹ thành một thị
trường rộng lớn. Năm 1992, 12 nước cộng đồng Châu Âu cũng bãi bỏ mọi chướng
ngại trong việc buôn bán giữa các nước trong khối cộng đồng, làm cho Tây Âu trở
thành một khu vực kinh tế thống nhất rộng lớn. Vòng đàm phán U-ru-goay kết
thúc, hiệp định Ma-ra-ket được ký kết. Tổ chức thương mại thế giới (WTO) ra đời
13
từ 01-01-1995 thu hút tới 136 và ngày nay là 144 quốc gia và lãnh thổ, chiếm gần
100% kim ngạch buôn bán quốc tế, theo hướng giảm mạnh hàng rào quan thuế và
phi quan thuế, mở cửa thị trườnghàng hoá, đầu tư, dịch vụ…Bên cạnh đó sự ra đời
của WTO xuất hiện rất nhiều tổ chức tiểu vùng, khu vực, liên khu vực như các tam
giác, tứ giác phát triển, các khu vực mậu dịch tự do(AFTA, NAFTA), những tổ
chức liên kết toàn châu lục (EU) hoặc giữa các châu lục (APEC). Các nước lớn
nhỏ đều dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, theo đuổi chính sách kinh tế mở. Ngay
cả những nước có tiềm năng thị trường rộng lớn như Trung Quốc, Nga, ấn Độ,Mỹ
… và cả một số nước vốn khép kín theo mô hình tự cung tự cấp cũng dần mở cửa,
từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới
Mặt khác, cộng đồng thế giới đứng trước nhiều vấn đề suy thoái toàn cầu : môi
trường suy thoái, bùng nổ dân số, nghèo đói, các bệnh tật hiểm nghèo, các vấn đề
xã hội “xuyên quốc gia”…, không một quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết được
mà cần có sự hợp tác đa phương. Tình hình trên làm nảy sinh và thúc đẩy xu thế
hội nhập để cùng nhau phát triển. Trong xu thế chung đó, các nước công nghiệp
phát triển, trước hết là Mỹ, do có ưu thế về thị trường, nắm được tiến bộ khoa học
công nghệ, có nền kinh tế phát triển cao đã ra sức thao túng, chi phối thị trường thế
giới, áp đặt điều kiện đối với các nước chậm phát triển hơn, thậm chí dùng những
biện pháp thô bạo như bao vây, cấm vận trừng phạt, làm thiệt hại lợi ích của các
nước đang phát triển và chậm phát triển. Trước tình hình đó, các nước đang phát
triển từng bước tập hợp nhau lại, đấu tranh chống chính sách cường quyền áp đặt
của Mỹ để bảo vệ lợi ích của mình vì một trật tự kinh tế quốc tế bình đẳng, công

bằng. Điều đó chứng tỏ xu thế hội nhập phản ánh cục diện vừa đẩy mạnh hợp tác,
vừa đấu tranh khốc liệt.
ở khu vực Đông Nam á đã diễn ra nhiều biến đổi sâu sắc. Sau nhiều thập kỷ
chiến tranh, đối đầu, Đông Nam á đã có hoà bình, xu thế hợp tác không ngừng gia
tăng. Nhất là cuối thiên niên kỷ thứ hai đầu thiên niên kỷ thứ ba hàng loạt biến cố
chính trị, xã hội xảy ra càng làm cho thế giới xích lại gần nhau hơn, mà trước hết là
về mặt kinh tế. Đó là sự mở rộng của ASEAN, sự liên kết ASEAN với ba nước đối
thoại EU.
14
Cũng cần phải nói thêm rằng sự phát triển đột biến của các phương tiện vô tuyến
viễn thông càng đẩy nhanh quá trình buôn bán giữa các nước, các khu vực khác
nhau trên thế giới. Cùng với sự phát triển của vô tuyến viễn thông, là sự nối mạng
máy tính, mạng internet xuất hiện, đã làm cho trái đất rộng lớn hôm qua, trở thành
ngôi nhà bé nhỏ hôm nay. Tình hình thế giới trong những năm gần đây đã đem lại
nhiều thuận lợi to lớn, đồng thời đặt ra nhiều thách thức gay gắt đối với nước ta
trong quá trình phát triển đất nước nói chung và quá trình hội nhập nói riêng.
2-Thời cơ và thách thức của toàn cầu hoá và quốc tế hoá:
Ngày nay chủ nghĩa tư bản đóng vai trò chi phối quá trình toàn cầu hoá. Với
cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, công nghệ thông tin và viễn thông, quá
trình này ngày càng phát triển mạnh mẽ về chiều rộng cũng như chiều sâu với tốc
độ rất nhanh. Hiện tại toàn cầu hoá đã bộc lộ những mặt tích cực và tiêu cực, điều
này thể hiện rất rõ qua sự tác động của nó đối với các nước đang phát triển:
A-Thời cơ:
a-Toàn cầu hoá và quốc tế kinh tế hoá giúp các nước đang phát triển mở rộng
thị trường ra nước ngoài, sự giao lưu hàng hoá thông thoáng hơn, hàng rào thuế
quan và phi thuế quan thuyên giảm, nhờ đó sự trao đổi hàng hoá tăng mạnh có lợi
cho sự phát triển các nước. Nếu Việt Nam gia nhập WTO sẽ được hưởng những
ưu đãi dành cho nước đang phát triển theo quy chế tối huệ quốc trong quan hệ với
132 nước thành viên của tổ chức này do vậy hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu vào
các nước đó dễ dàng hơn. Từ năm 2002 hàng rào thuế quan của các nước APEC sẽ

được dỡ bỏ. Đây cũng là cơ hội để nước ta xuất khẩu hàng hoá vào các nước thành
viên APEC. Toàn cầu hoá đã tạo ra khả năng để mỗi quốc gia phát huy lợi thế so
sánh. Lợi thế so sánh đã từng bước “cuốn trôi” hàng rào thuế quan và phi quan
thuế. Nếu tính từ đầu thế kỷ 20 đến nay (khi GATT ra đời) kim ngạch buôn bán
của thế giới đã tăng 2 lần. Song từ đầu thập niên 90 của thế kỷ 20 kim ngạch buôn
bán đã tăng 50 lần. Khi thị trường thế giới thống nhất và phát triển thì các rào cản
thương mại từng bước bị loại bỏ, một trong những thành công của phương diện
này là sự ra đời của tổ chức thương mại thế giới WTO ngày 1-1-1995 và tiếp theo
là việc giảm thuế quan giữa các thành viên của WTO xuống mức bình quân là 3%
15
đối với các nước phát triển và dưới 15% đối với các nước đang phát triển. Đồng
thời do giá thành vận tải thương mại quốc tế liên tục hạ, hiện nay chỉ còn 2% giá
trị hàng hoá, trong khi tỷ lệ xuất khẩu vẫn vẫn không ngừng tăng, năm 1998 là
24,3%, dự tính đến năm 2005 sẽ đạt 28%. Thương mại phát triển khiến cho thị
trường thống nhất hơn, xu thế thống nhất lại đòi hỏi loại bỏ các hàng rào thương
mại.
b-Khi tham gia toàn cầu hoá, nước ta có cơ hội mở rộng thu hút nguồn vốn đầu
tư nước ngoài. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để thị trường của nước
nước ta được mở rộng, điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Họ sẽ mang vốn và
công nghệ vào nước ta, sử dụng lao động và tài nguyên vốn có của nước ta, làm ra
các sản phẩm tiêu thụ trên thị trường khu vực và thế giới với các ưu đãi mà nước ta
có.Cơ hội hội mở rộng thị trường kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Đây là cơ hội để thúc đẩy nguồn vốn trong nước và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả
hơn. Góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước theo hướng công nghiệp
hoá, phát triển lực lượng sản xuất và tạo thêm công ăn việc làm cho người lao
động.Chẳng hạn, tính theo tỷ lệ GDP, luồng vốn thâm nhập vào các nước đang
phát triển trong vòng 10 năm từ 1986 đến 1996 đã tảng khoảng 2 lần… Riêng
Trung Quốc, trong vòng 3 năm 1993- 1995 đã nhận được 110 tỷ USD, vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm khoảng 20% tổng đầu tư của cả nước. FDI cung
cấp 34,7% đầu tư cho hàng xuất khẩu và 28,7% đầu tư cho công nghiệp của Trung

Quốc năm 1994…Thực tế này cho thấy, những nước đang phát triển bứt lên được
về kinh tế là những nước đã tận dụng được các cơ hội và thu hút được những
khoản FDI lớn nhất.
Để sử dụng nguồn vốn có hiệu quả, bắt buộc những nước đang phát triển phải
nâng cao trình độ về mọi mặt, phải đổi mới công nghệ, cải tiến phương thức quản
lý, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động. Tất cả những
điều đó đưa đến một kết quả là: các nước phát triển thì ngày càng giàu có, còn các
nước đang phát triển cũng phát triển mạnh mẽ về lực lượng sản xuất. Sự phát triển
của các nước NICs, đặc biệt là những “con rồng” Châu á trong mấy thập kỷ qua đã
chứng minh điều đó.
16

×