Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Xây dựng điều lệ công ty những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.55 KB, 39 trang )

MỤC LỤC
Tiểu luận tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với dòng chảy phát triển của nền kinh tế toàn cầu, kinh tế Viêt Nam cũng đang
không ngừng phát triển, đặc biệt từ khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO,
thực hiện chính sách mở cửa, tăng cường giao lưu, mở rộng các mối quan hệ về mọi mặt
từ kinh tế, văn hóa, giáo dục.
Để đáp ứng được sự vận động chung đó, đòi hỏi mỗi chủ thể kinh tế mà mũi nhọn là
các doanh nghiệp trong nước cần có những bước đột phá không ngừng nhằm tạo nên
động lực chung cho nền kinh tế quốc gia. Và một trong những phương tiện để giúp các
pháp nhân có cơ sở vững chắc để phát triên đó là Điều lệ Công ty.
Vai trò của Điều lệ đối với một công ty có thể ví như Luật riêng của một quốc gia. Nó
là công cụ để những “người cầm quyền” quản lý được hoạt động của công ty nói chung
và củng cố sự ổn định về quyền lực của những người nắm giữ nói riêng. Xuất phát từ vai
trò mang tính nội bộ đó, Điều lệ còn thể hiện một cách gián tiếp vai trò mang tính vĩ mô
khi tác động đến các chủ thể thứ ba, cũng như cả môi trường kinh doanh của nền kinh tế
nói chung.
Với đề tài “Xây dựng Điều lệ Công ty – những vấn đề lý luận và thực tiễn”, trong
phạm vi của một bài tiểu luận tác giả xin được trình bày một cách khái quát nhất về lý
luận và thực tiễn của việc xây dựng và thực hiện Điều lệ của các công ty, từ đó xác định
nguyên nhân và đề ra giải pháp nhằm hoàn thiện, khắc phục những hạn chế còn tồn tại.
Với mong muốn có thể hướng đến những khía cạnh mới, mở ra những vẫn đề lý luận
cho những công trình nghiên cứu ở quy mô rộng hơn.
Tiểu luận tốt nghiệp 2
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
I.1 Khái niệm
Pháp luật Việt Nam đã quy định xây dựng Điều lệ là một trong những điều kiện bắt
buộc cho sự tồn tại hợp pháp của một số loại hình công ty nhất định. Đây không chỉ là
điều kiện mang tính pháp lý mà còn là điều kiện mang tính kinh tế, bởi lẽ nó có vai trò
quan trong trong việc quản lý hoạt động cũng như góp phần thúc đẩy sự phát triển chung
của công ty. Vậy điều lệ công ty là gì?


Theo quy định Luật Doanh nghiệp của Việt Nam, thì không định nghĩa điều lệ là gì
mà chỉ liệt kê các nội dung chính phải có của một bản điều lệ quy định cụ thể tại điều 22
Luật sửa đổi bổ sung Luật Doanh nghiệp 2009.
Luật công ty mẫu của Mỹ cũng không định nghĩa. Còn từ điển về luật của họ thì giải
nghĩa đó là những điều khoản hành chính do một tổ chức lập nên để quy định công việc
quản trị bên trong và giao dịch với bên ngoài của tổ chức ấy. Có thể hiểu thì đó là bản
thỏa thuận giữa những người sáng lập công ty với các cổ đông và giữa các cổ đông với
nhau cùng được soạn căn cứ trên những khuôn mẫu chung của luật pháp (luật doanh
nghiệp, luật thuế, luật lao động ) để ấn định cách tạo lập, hoạt động và giải thể của một
doanh nghiệp. Trong ý nghĩa đó điều lệ giống như một bản hợp đồng có “tính chất quy
định”. Tuy nhiên, vì công ty là “con người do luật pháp đặt ra” nên - khác với các bản
hợp đồng thông thường – điều lệ có thể trưng ra được cho những người thứ ba và buộc họ
phải chấp nhận (“tính chất đối kháng”) khi giao dịch với công ty.
Dựa trên mối quan hệ giữa các chủ thể cùng tồn tại trong công ty, điều lệ công ty có
thể hiểu là một cam kết được đồng ý bởi các chủ sở hữu công ty, giữa những người sáng
lập với nhau cũng như giữa những người sáng lập với những người góp vốn (thành viên
hợp danh, thành viên góp vốn vào công ty hợp danh, thành viên công ty trách nhiệm hữu
Tiểu luận tốt nghiệp 3
hạn, cổ đông) nhằm xác lập các nội dung về danh tính công ty, cách thức thành lập, góp
vốn, bộ máy tổ chức, quản lý, hoạt động của công ty, cách thức công ty chấm dứt tồn tại
và những nội dung khác.
Xét về mặt điều hành, điều lệ công ty được hiểu như là “pháp luật của doanh nghiệp”
trong đó doanh nghiệp có thể tự điều chỉnh hoạt động của mình một cách có ý chí riêng
mà lại không trái pháp luật. Xét về mặt kinh doanh, điều lệ đóng một vai trò quan trọng
không kém vì nó cho biết cơ cấu, nội dung doanh nghiệp, cách thức kinh doanh, hoạt
động mà doanh nghiệp đề ra cho người mong muốn góp vốn hay giao dịch với công ty.
Cũng bởi lẽ đó mà những đối tác đầu tư, những khách hàng luôn quan tâm, tìm hiểu kĩ về
điều lệ trước khi cam kết điều gì. Bên cạnh đó, khách hàng cũng cần biết ai sẽ là người kí
kết hợp đồng với họ, bởi thông qua Điều lệ Công ty, pháp luật có quy định ai là người đại
diện.

Như vây, xét ở các khía cạnh khác nhau thì Điều lệ có thể được định nghĩa theo những
cách khác nhau, tuy nhiên trước hết ta nên hiểu một cách cơ bản Điều lệ Công ty được
xem như một bản hợp đồng được đồng ý bởi các bên trong công ty mang tính chất quy
định. Nó được xây dựng dựa trên các khuôn khổ, hành lang pháp lý mà pháp luật đề ra
mặt khác lại cho doanh nghiệp được phép tự do chỉnh sửa, miễn là không trái với quy
định của pháp luật.
I.2 Vai trò
Điều lệ Công ty là một trong những văn bản quan trọng nhất trong việc quản trị, quản
lý và điều hành Công ty.
Cùng với các quy định của Pháp luật mà Công ty phải tuân thủ, chấp hành thì Điều lệ
Công ty là một trong những văn bản quan trọng nhất trong việc điều hành và quản lý,
thậm chí có thể coi là bản "Điều luật riêng" của một Công ty. Điều lệ quy định những vấn
đề cốt lõi và nền tảng cho sự vận hành của Công ty như cơ cấu tổ chức quản lý, thẩm
quyền và thể thức thông qua các quyết định của bộ máy điều hành, nguyên tắc phân chia
Tiểu luận tốt nghiệp 4
lợi nhuận, xử lý lỗ và giải quyết tranh chấp nội bộ. Luật sửa đổi và bổ sung Luật Doanh
nghiệp 2009 đã dành Điều 22 nêu về Nội dung Điều lệ công ty.
Bản Điều lệ thực sự có vai trò không thể thay thế trong quá trình hoạt động của Công
ty. Thành viên, cổ đông sẽ nhìn vào Bản Điều lệ để biết được quyền lợi và nghĩa vụ của
mình. Người ngoài có thể đọc Bản Điều lệ để biết được công ty làm gì, đại diện theo
pháp luật của nó là ai? thẩm quyền của Công ty được ấn định ra sao để có thể ký hợp
đồng với Công ty mà không sợ ký kết sai người có thẩm quyền Nếu muốn trở thành
thành viên, cổ đông của Công ty, hoặc chuyển nhượng, nhận chuyển nhượng phần vốn
góp, cổ phần thì tiến hành theo các bước nào? Việc tổ chức, cơ cấu lại Công ty, thậm chí
cả việc giải thể doanh nghiệp được tiến hành như thế nào? Bản Điều lệ chính là nơi các
đối tượng liên quan với Công ty tìm thấy quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
Trong toàn bộ các văn kiện cấu thành Công ty thì Điều lệ đóng một vai trò thực sự
quan trọng khi Công ty hoạt động, bởi lẽ:
Thứ nhất, về thứ tự ưu tiên áp dụng.
Trong Luật sửa đổi, bổ sung Luật doanh nghiệp 2009, rất nhiều nội dung quy định

được bắt đầu bởi “Trừ trường hợp điều lệ công ty có quy định khác”, như vậy về thứ tự
áp dụng trong một số nội dung thì Điều lệ Công ty thậm chí sẽ được ưu tiên áp dụng
trước. Như vậy, có thể coi Điều lệ là một hành lang các quy tắc mà các bên liên quan cần
tuân thủ đầu tiên, nếu điều lệ được quy định chặt chẽ, phù hợp với tình hình hoạt động
của công ty sẽ góp phần cho việc giải quyết được nhanh chóng, đảm bảo các quy định
của pháp luật cũng như đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên. Ngược lại, nếu Điều lệ
được quy định một cách hình thức hoặc sao chép không phù hợp với điều kiện thực tế của
công ty thì rất có thể nó sẽ trở thành một con dao hai lưỡi gây thiệt hai cho chính công ty
đó.
Thứ hai, Điều lệ được xem như một bản hợp đồng giữa Công ty với các cổ đông và giữa
các cổ đông.
Tiểu luận tốt nghiệp 5
Điều lệ do các cổ đông sáng lập công ty lập ra. Điều lệ có mục đích là ấn định quyền
hạn và bổn phận của các cổ đông, của các thành viên hội đồng quản trị và mối tương
quan giữa các loại cổ đông với nhau. Bản Điều lệ chính là văn bản điều chỉnh hoạt động
nội bộ của Công ty. Trên thế giới, thực tế những quy định trong Điều lệ khá quan trọng
trong giải quyết những tranh chấp giữa các cổ đông Công ty. Thực tế tại Anh năm 1915
đã xảy ra tranh chấp giữa các thành viên của Công ty. Một thành viên đã đưa ra toà án để
kiện về một số sai sót mà các thành viên khác đã phạm phải. Các thành viên bị kiên phản
tố ở Toà rằng theo Điều lệ, tranh chấp này do trọng tài xem xét. Toà chấp nhận phản tố và
bác đơn. Dó đó việc quy định những điều khoản một cách cụ thể không những giúp cho
các cổ đông lựa chọn con đường giải quyết đúng đắn mà còn góp phần làm tối giản hóa
quá trình giải quyết bởi dựa trên giá trị hiệu lực của Điều lệ công ty đã được thừa nhận
trước đó.
Thứ ba, Điều lệ được xem như một văn kiện cơ bản trong hoạt động của Công ty.
Có thể thấy Điều lệ thực sự quan trọng trong quá trình hoạt động của Công ty. Cổ
đông sẽ nhìn vào Điều lệ để biết được quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Người ngoài có
thể đọc Điều lệ để biết được Công ty làm gì, đại diện theo pháp luật của nó là ai, thẩm
quyền của công ty được ấn định ra sao để có thể ký hợp đồng với công ty mà không sợ ký
kết sai người có thẩm quyền Nếu muốn trở thành cổ đông của công ty thì phải làm sao?

Nếu muốn chuyển nhượng cổ phần thì tiến hành theo các bước nào? Bản Điều lệ chính là
nơi các đối tượng liên quan với Công ty tìm thấy quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Thông
qua đó, ta thấy Điều lệ có thể được xem như một kênh thông tin cung cấp những thông
tin cụ thể mang tính pháp lý của Công ty, cung cấp cho chính các thành viên của Công ty
trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, cũng như các đối tác trong quá trình
hợp tác kinh doanh, các cơ quan chức năng trong quá trình quản lý.
Thứ tư, Điều lệ và ý tưởng của người sáng lập.
Bản Điều lệ quy định quyền lợi nghĩa vụ của các thành viên trong công ty, nhưng thực
sự, nó lại chính là sự sắp đặt mà người sáng lập Công ty đưa ra nhằm cân bằng quyền lợi
Tiểu luận tốt nghiệp 6
trong Công ty cũng như tạo cơ chế vận hành để công ty phát triển. Đồng thời, Bản Điều
lệ thường nhằm thu hút được nhiều người khác bỏ vốn mà vẫn giữ được quyền kiểm soát
cho cổ đông sáng lập. Bản Điều lệ do vậy, thực chất là thể hiện ý đồ của những người
sáng lập trong tương quan của họ với những cổ đông khác. Và theo ý nghĩa này, thực
chất, Bản Điều lệ là một nghệ thuật sắp xếp trong hành lang luật pháp của người sáng lập
hay người nắm số vốn lớn nhất để thực hiện ý đồ kinh doanh của mình. Do đó, ta có thể
hiểu, Điều lệ chính là hiện thân cho ý chí của người sáng lập, là công cụ để quản lý đảm
bảo sự vận hành công ty luôn nằm trong sự kiểm soát, cũng như bảo vệ quyền lực của họ
trong chính công ty đó. Nhưng không vì thế mà việc xây dựng Điều lệ là chuyện riêng
của những người sáng lập, xuất phát từ Điều lệ là sự thể hiện ý chí của người sáng lập
nên các thành viên mới tuy không tạo ra Điều lệ nhưng khi gia nhập Công ty luôn phải
thông qua hoặc cam kết tuân thủ Điều lệ – ấn định những nguyên tắc về tổ chức nội bộ,
hoạt động, giải thể của Công ty, từ đó điều chỉnh các quyền, nghĩa vụ của các thành viên
trong Công ty. Tránh việc để những người sáng lập lạm dụng quyền hạn của mình.
Tóm lại, Cùng với quy định của pháp luật, Điều lệ là một trong những văn bản quan
trọng nhất trong việc điều hành, quản lý, giải quyết các vấn đề phát sinh, tranh chấp trong
một Công ty. Điều lệ quy định những vấn đề cốt lõi và nền tảng như cơ cấu tổ chức quản
lý, thẩm quyền và thể thức thông qua các quyết định của bộ máy điều hành, nguyên tắc
phân chia lợi nhuận, xử lý lỗ và giải quyết tranh chấp nội bộ Điều lệ chính là bản hợp
đồng giữa các thành viên, cổ đông Công ty với nhau và giữa Công ty với các thành viên,

cổ đông. Vì vậy, các cá nhân, tổ chức khi cùng nhau góp vốn thành lập công ty, cần phải
nghiêm túc trong việc nghiên cứu, bàn thảo để đi đến thống nhất một bản điều lệ phản
ánh đúng tinh thần của pháp luật và của thành viên, cổ đông Công ty. Đối với các Công ty
đang trong giai đoạn phát triển ổn định cũng nên rà soát lại điều lệ nhằm phát hiện những
thiếu sót để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp hơn, giảm thiểu khả năng tranh chấp xảy ra và
trong trường hợp có tranh chấp cũng dễ dàng giải quyết.
Tiểu luận tốt nghiệp 7
I.3 Quy định của pháp luật về xây dựng Điều lệ trong công ty.
I.3.1Những loại hình công ty pháp luật yêu cầu xây dựng Điều lệ.
Do sự phức tạp về tổ chức, hoạt động cũng sự tác động đến nhiều mối quan hệ, nên
Pháp luật hiên nay đưa ra những quy định mang tính bắt buộc đối với các pháp nhân
trong việc xây dựng Điều lệ. Đây được xem như một điều kiện nền tảng cho sự thành lập,
tồn tại hợp pháp cua các pháp nhân trong đời sống kinh tế. Góp phần tạo nên tính ổn định
cũng như lành mạnh trong môi trường kinh doanh.
Như đã đề cập, những đối tượng yêu cầu phải xây dựng Điều lệ sẽ là các pháp nhân,
bao gồm: Công ty cổ phần, Công ty TNHH, Công ty Hợp danh. Điều đó đồng nghĩa với
việc Công ty tư nhân không cần có Điều lệ vì nó không phái pháp nhân.
Luật Doanh nghiệp đã dành ba Điều luật để quy định về việc xây dựng Điều lệ bao
gồm từ Điều 17 đến Điều 19, quy định chi tiết, cụ thể về hồ sơ đăng ký kinh doanh đối
với từng loại doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân cũng như cơ quan
đăng ký kinh doanh tiến hành việc Đăng ký kinh doanh được nhanh chóng thuận lợi hơn .
Luật Doanh nghiệp bảo đảm nguyên tắc chung phổ biến là việc áp dụng mô hình tổ
chức quản lý, phương thức điều hành doanh nghiệp theo hướng coi đó là công việc nội bộ
cua chủ sở hữu Doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Luật chỉ đưa ra “khung cơ bản” để các nhà
đầu tư lựa chọn quyết định. Do đó, phần lớn những quy định về tổ chức quản lý Doanh
nghiệp là quy định có tính chất hướng dẫn để Điều lệ công ty quy định cụ thể.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực quản lý điều hành doanh nghiệp có một số nguyên tắc bắt
buộc tuân thủ nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư nhỏ, hạn chế tối đa kha năng
cho nhà đầu tư lớn và người quản lý điều hành doanh nghiệp có thể lạm dụng vị trí, lợi
thế của mình để tư lợi hoặc có các quyết định ảnh hưởng đến lợi ích các cổ đông khác,

đặc biệt là cổ đông nhỏ.
Tiểu luận tốt nghiệp 8
Như vậy, việc bắt buộc xây dựng Điều lệ trong các pháp nhân đã thể hiện Pháp luật
không chỉ tạo điều kiện cho các chủ thể chủ động tự do trong kinh doanh mà còn mang
tính định hướng chung cho các Công ty vận động và phát triển để tạo nên tính đồng bộ
cho toàn bộ nền kinh tế nói chung.
I.3.2 Nguyên tắc xây dựng Điều lệ
Điều lệ Công ty trước hết có thể xem là một bản hợp đồng được đồng ý bởi các bên
trong công ty mang tính chất quy định. Nó được xây dựng dựa trên các khuôn khổ, hành
lang pháp lý mà pháp luật đề ra mặt khác lại doanh nghiệp được phép tự do chỉnh sửa,
miễn là không trái pháp luật.
Xét về mặt điều hành, Điều lệ Công ty được hiểu như là “pháp luật của doanh nghiệp”
trong đó Doanh nghiệp có thể tự điều chỉnh hoạt động của mình một cách có ý chí riêng
mà lại không trái pháp luật. Xét về mặt kinh doanh, Điều lệ đóng một vai trò quan trọng
không kém vì nó cho biết cơ cấu, nội dung Doanh nghiệp, cách thức kinh doanh, hoạt
động mà Doanh nghiệp đề ra cho người mong muốn góp vốn hay giao dịch với Công ty.
Cũng bởi lẽ đó mà những đối tác đầu tư, những khách hàng luôn quan tâm, tìm hiểu kĩ về
Điều lệ trước khi cam kết điều gì. Bên cạnh đó, khách hàng cũng cần biết ai sẽ là người
kí kết hợp đồng với họ, bởi thông qua Điều lệ Công ty, pháp luật có quy định ai là người
đại diện.
Để hoạt động suôn sẻ, tránh được những tranh chấp phát sinh và rắc rối với pháp luật,
doanh nghiệp cần quan tâm một số điểm cơ bản trong cách soạn thảo thành lập điều lệ
công ty như sau:
Điều lệ không được trái với các quy định của pháp luật và không xâm phạm quyền lợi
của bên thứ ba;
Điều lệ Công ty là một hợp đồng nhiều bên dựa trên nguyên tắc tự nguyện, thỏa thuận
để quy định quyền và nghĩa vụ của các bên, tổ chức quản lý, hoạt động của Công ty;
Tiểu luận tốt nghiệp 9
Điều lệ phải có đủ các nội dung chủ yếu quy định tại Điều 22 Luật sửa đổi, bổ sung
Luật Doanh nghiệp 2009

Thứ nhất, Điều lệ Công ty không được làm trái lại với những quy định của pháp luật
hay xâm phạm quyền lợi bên thứ 3. Đây là nguyên tắc đầu tiên và rất cơ bản khi soạn
thảo điều lệ công ty.
Ví dụ: Trong Điều lệ Công ty T không thể quy định điều khoản: Công ty T hoạt động
trong lĩnh vực tài chính tư vấn trốn thuế cho doanh nghiệp;
Hay các chủ công ty gồm ông A, B, C, D là các cổ đông sáng lập, khi sáng lập họ muốn
con trai ông A làm giám đốc công ty, điều này sẽ không thể quy định trực tiếp trong điều
lệ bởi lẽ chưa có cơ sở nào cho thấy con trai ông A sẽ đồng ý làm giám đốc, và như vậy
đã là xâm phạm quyền tự do của con trai ông A.
Thứ hai, Điều lệ Công ty là một hợp đồng nhiều bên dựa trên nguyên tắc tự nguyện,
thỏa thuận để quy định quyền và nghĩa vụ của các bên, tổ chức quản lý, hoạt động của
Công ty. Như vậy, điều lệ Công ty trước khi được xác lập phải trải qua các bước họp và
đàm phán, thảo luận những vấn đề cần được nêu ra trong Điều lệ. Các bên trong Công ty
phải xác định rõ quyền và nghĩa vụ của mình cũng như cách thức thực hiện nó để chuyển
hóa vào trong Điều lệ.
Ví dụ: Về nghĩa vụ góp vốn của cổ đông sáng lập, cổ đông cần góp bao nhiêu vốn, góp
vốn dưới hình thức nào : tài sản, tiền mặt hay quyền sử dụng đất… cổ đông góp nhiều lần
hay một lần qua phương tiện nào: trực tiếp hay chuyển khoản ngân hàng, thời hạn cho
việc góp vốn là bao lâu. Đối với các hình thức góp vốn đặc biệt như góp bằng quyền sử
dụng đất cần quy định thêm thời hạn tiến hành làm thủ tục chuyển giao quyền sử dụng
cho Công ty.
Về tổ chức quản lý Công ty, khi soạn thảo cũng cần lưu ý, thảo luận đề ra rõ ràng về
cơ cấu quản lý công ty để tránh xảy ra tình trạng lạm quyền, đối với công ty cổ phần,
Tiểu luận tốt nghiệp 10
phần quy định này càng trở nên quan trọng hơn. Hội đồng quản trị, ban giám đốc, ban
kiểm soát cần phải được ghi nhận trong điều lệ, kèm theo là nội dung hoạt động, quyền
hạn, nghĩa vụ của các ban đó đồng thời chỉ rõ ai là người đại diện theo pháp luật của công
ty. Xác định đúng và quy định rõ các vấn đề trong điều lệ công ty góp phần giảm thiểu
tranh chấp nội bộ công ty.
Thứ ba, điều lệ phải có đủ các nội dung chủ yếu theo quy định pháp luật như sau:

1. Tên, địa chỉ trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện.
2. Ngành, nghề kinh doanh.
3. Vốn điều lệ; cách thức tăng và giảm vốn điều lệ.
4. Họ, tên, địa chỉ, quốc tịch và các đặc điểm cơ bản khác của các thành viên hợp danh
đối với công ty hợp danh; của chủ sở hữu công ty, thành viên đối với công ty trách nhiệm
hữu hạn; của cổ đông sáng lập đối với công ty cổ phần.
5. Phần vốn góp và giá trị vốn góp của mỗi thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu
hạn và công ty hợp danh; số cổ phần của cổ đông sáng lập, loại cổ phần, mệnh giá cổ
phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại đối với công ty cổ phần.
6. Quyền và nghĩa vụ của thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp
danh; của cổ đông đối với công ty cổ phần.
7. Cơ cấu tổ chức quản lý.
8. Người đại diện theo pháp luật đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.
9. Thể thức thông qua quyết định của công ty; nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội bộ.
10. Căn cứ và phương pháp xác định thù lao, tiền lương và thưởng cho người quản lý và
thành viên Ban kiểm soát hoặc Kiểm soát viên.
Tiểu luận tốt nghiệp 11
11. Những trường hợp thành viên có thể yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp đối với
công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc cổ phần đối với công ty cổ phần.
12. Nguyên tắc phân chia lợi nhuận sau thuế và xử lý lỗ trong kinh doanh.
13. Các trường hợp giải thể, trình tự giải thể và thủ tục thanh lý tài sản công ty.
14. Thể thức sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty.
15. Họ, tên, chữ ký của các thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh; của người đại
diện theo pháp luật, của chủ sở hữu công ty, của các thành viên hoặc người đại diện theo
uỷ quyền đối với công ty trách nhiệm hữu hạn; của người đại diện theo pháp luật, của các
cổ đông sáng lập, người đại diện theo uỷ quyền của cổ đông sáng lập đối với công ty cổ
phần.
16. Các nội dung khác do thành viên, cổ đông thoả thuận nhưng không được trái với quy
định của pháp luật.
Lưu ý thêm rằng: xuyên suốt Luật sửa đổi, bổ sung Luật Doanh nghiệp 2009 có để

ngõ nhiều điều luật nhường phần cho ý chí của chủ công ty quy định theo điều lệ cũng
như quy định các tỷ lệ phần tối đa hoặc tối thiểu về số vốn để ra quyết định nào đó.
Ví dụ: Quy định quyền của thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn “Thành viên hoặc
nhóm thành viên sở hữu trên 25% vốn điều lệ hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn do Điều lệ
công ty quy định, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, có quyền yêu cầu triệu
tập họp Hội đồng thành viên để giải quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền”
1
. Ta có thể
thấy Luật doanh nghiệp 2005 đã tạo sẵn các hành lang cho sự quy định của điều lệ,
nhưng điều lệ công ty nếu có quy định cũng không được phá vỡ những mức tối đa hay tối
thiểu do luật định.
Một số nội dung quan tâm khi tiến hành việc soạn thảo nội dung Điều lệ doanh nghiệp
1 khoản 2 điều 41 Luật Doanh nghiệp 2005.
Tiểu luận tốt nghiệp 12
Một trong những nội dung quan trọng trong quá trình tiến hành thủ tục đăng ký thành
lập doanh nghiệp mà bất kỳ nhà đầu tư cũng như tổ chức tư vấn pháp lý không thể bỏ qua
đó là việc tư vấn xây dựng điều lệ doanh nghiệp cho phù hợp. Trên thực tế, pháp luật
doanh nghiệp đã quy định khá cụ thể về nội dung chính của một bản điều lệ doanh nghiệp
và ai cũng có thể dễ dàng tiếp cận những quy định này trong các văn bản pháp luật. Cụ
thể nội dung các điều khoản của Điều lệ Doanh nghiệp theo quy định tại Điều 22 Luật
Doanh nghiệp 2005.
Đó là những điều khoản “cứng” phải có trong nội dung của một bản điều lệ. Tuy
nhiên, đối với những loại hình doanh nghiệp khác nhau thì nội dung chi tiết của từng điều
khoản sẽ được dự liệu theo các hướng khác nhau cho phù hợp với điều kiện của từng
công ty, trong đó có những điều khoản tùy nghi và có những điều khoản bắt buộc. Ở đây
người viết phân tích thành hai nhóm: nhóm thứ nhất, các điều khoản bắt buộc gồm các
khoản 1, 2, 3, 4, 5, 7, 8, 13 và các điều khoản tùy nghi 6, 9, 10, 11, 12, 14, 15, 16.
Trong phạm vi bài viết này, người viết chỉ đi sâu phân tích nội dung một số điều
khoản tùy nghi đã liệt kê.
Thứ nhất, đối với quy định về quyền và nghĩa vụ của thành viên công ty đối với Công

ty hợp danh, Công ty TNHH, của cổ đông Công ty cổ phần (khoản 6 điều 22). Trường
hợp này trên cơ sở tại các điều luật về quyền và nghĩa vụ của các thành viên Công ty mà
chủ đầu tư tiến hành xây dựng các quyền và nghĩa vụ cụ thể cho các thành viên công ty
mình. Tuy nhiên, nội dung các quyền này bắt buộc phải tuân thủ đầy đủ các quy định tại
Điều 41, 42 đối với thành viên Công ty TNHH; Điều 79, 80 đối với cổ đông Công ty cổ
phần; Điều 134, 140 đối với thành viên Công ty hợp danh. Chủ đầu tư có thể thỏa thuận
với nhau để quyết định các quyền và nghĩa vụ cụ thể cho phù hợp với điều kiện của các
chủ đầu tư và loại hình doanh nghiệp mình dự định thành lập theo hướng mở rộng hoặc
thu hẹp phạm vi quyền và nghĩa vụ của thành viên công ty, miễn sao phải tuân thủ đầy đủ
các quy định của pháp luật.
Tiểu luận tốt nghiệp 13
Thứ hai, về thể thức thông qua quyết định của công ty; nguyên tắc giải quyết tranh
chấp nội bộ (khoản 9, điều 22). Trừ loại hình doanh nghiệp tư nhân và công ty TNHH
một thành viên cá nhân làm chủ sở hữu thì các loại hình doanh nghiệp khác đều phải có
quy định này trong điều lệ của doanh nghiệp. Tỷ lệ số phiếu thông qua các vấn đề quan
trọng của doanh nghiệp sẽ tuân thủ quy định của Luật Doanh nghiệp. Ví dụ như quy định
tại Điều 52 Luật sửa đổi, bổ sung Luật Doanh nghiệp 2009 tại khoản 2, 3 quy định:
“2. Quyết định của Hội đồng thành viên được thông qua tại cuộc họp trong các trường
hơp sau đây:
a. Được số phiếu đại diện ít nhất 65% tổng số vốn góp của các thành viên dự họp chấp
thuận; tỷ lệ cụ thể do điều lệ công ty quy định.
b. Được số phiếu đại diện ít nhất 75% tổng số vốn góp của các thành viên dự họp chấp
thuận đối với quyết định bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài
sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn
quy định tại Điều lệ công ty, sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty, tổ chức lại, giải thể công
ty; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định.
3. Quyết định của Hội đồng thành viên được thông qua dưới hình thức lấy ý kiến bằng
văn bản khi được số thành viên đại diện ít nhất 75% vốn điều lệ chấp thuận; tỷ lệ cụ thể
do Điều lệ công ty quy định”.
Theo như quy định này thì Pháp luật đã dành quyền rất lớn cho các sáng lập viên của

Doanh nghiệp được tự do thỏa thuận một tỷ lệ cụ thể để thông qua các quyết định liên
quan đến vấn đề quản trị doanh nghiệp và sự thỏa thuận này bắt buộc phải cao hơn tỷ lệ
mà pháp luật đã dự liệu bên trên. Tuy nhiên, cũng có trường hợp ngoại lệ tỷ lệ thông qua
có thể thấp hơn con số Luật đã dự liệu đó là trường hợp Công ty TNHH hai thành viên
trở lên hoặc công ty hợp danh chỉ có hai thành viên tham gia thành lập Công ty thì tỷ lệ
thông qua có thể do các nhà đầu tư thỏa thuận và ghi vào Điều lệ của Công ty.
Tiểu luận tốt nghiệp 14
Thứ ba, quy định về căn cứ xác định thù lao, tiền lương và thưởng cho các thành viên
và nhân viên Công ty. Vấn đề này cũng được luật quy định khá chi tiết. Ví dụ như đối với
công ty cổ phần pháp luật cho phép các doanh nghiệp thỏa thuận về thù lao, tiền lương và
lợi ích khác của thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Chỉ khi
các thành viên không tự thỏa thuận được và không ghi được vào Điều lệ Công ty thì bắt
buộc mới phải tuân thủ quy định tại Điều 117 Luật sửa đổi, bổ sung Luật Doanh nghiệp
2009.
Trên đây là một số quy định liên quan đến vấn đề xây dựng nội dung chi tiết của một
bản Điều lệ Doanh nghiệp khi tiến hành thủ tục đăng ký kinh doanh tại cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Và để xây dựng được một bản Điều lệ Doanh nghiệp hoàn chỉnh và đúng
luật, thì bên cạnh những yếu tố về mặt nội dung nhà đầu tư cũng cần chú ý tới một số
nguyên tắc cơ bản khác như: Không trái pháp luật, không được xâm phạm đến lợi ích của
bên thứ ba, tự nguyện và thỏa thuận trong giới hạn pháp luật quy định Tuân thủ chặt
chẽ quy định của Pháp luật và tôn trọng thỏa thuận của các thành viên sẽ là giúp cho
doanh nghiệp xây dựng được Bản Điều lệ thống nhất không trái luật và có tính ổn định
lâu dài trên thực tế - điều này sẽ vô cùng có lợi cho doanh nghiệp khi đi vào hoạt động
sản xuất kinh doanh.
I.3.3 Quy định của pháp luật Doanh ghiệp về Điều lệ qua các lần sửa đổi
Trên cơ sở kế thừa các quy định của Luật Doanh nghiệp 1999, đồng thời ghi nhận bổ
sung các thủ tục cần thiết đã phát sinh và thực hiện trên thực tế. Luật Doanh nghiệp 2005
đã dành bốn Điều từ 16 đến 19 quy định chi tiết, cụ thể về hồ sơ đăng ký kinh doanh đối
với từng loại doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân cũng như cơ quan
đăng ký kinh doanh tiến hành việc Đăng ký kinh doanh được nhanh chóng thuận lợi hơn

2
.
2 Những nội dung cơ bản của Luật Doanh nghiệp 2005, Nhà xuất bản Tư pháp.
Tiểu luận tốt nghiệp 15
Với những đòi hỏi thực tế của công cuộc đổi mới, những quy định của Luật Công ty
và Luật Doanh nghiệp tư nhân ban hành trước đây đã bộc lộ những điểm không phù hợp
với những nói dung tương ứng của một số Luật khác có lien quan như Luật Dân sự, Luật
Thương mại. Sự sửa đổi hai đạo luật này và xây dựng một Luật thống nhất điều chỉnh
các loại hình công ty và doanh nghiệp tư nhân theo hướng mở rộng thêm các loại hình
doanh nghiệp khác, phù hợp với thực tiễn, nhằm tang cường tính linh hoạt cho các nhà
đầu tư phù hợp với khả năng của họ đồng thời tang cường vai trò quản lý nhà nước, giám
sát bằng pháp luật đối với doanh nghiệp.
Luật Doanh nghiệp chủ yếu điều chỉnh các mối quan hệ giữa các bên có liên quan
trong quá trình thành lập, tổ chức quản lý doanh nghiệp, sáp nhập, hợp nhất, chia tách,
giải thể đối với các loại hình doanh nghiệp.
Trước khi có Luật Doanh nghiệp các doanh nghiệp của các tổ chức chịnh trị, chính trị
xã hội, tổ chức xã hội chưa rõ hoạt động theo luật nào. Và việc ban hành Luật Doanh
nghiệp, đặc biệt là quy định về công ty TNHH là căn cứ pháp lý để các doanh nghiệp
thuộc các tổ chức nói trên đăng ký và hoạt động theo Luật này.
Do tính chất và địa vị pháp lý của từng loại hình doanh nghiệp là khác nhau nên cơ
cấu tổ chức pháp lý cũng không giống nhau. Mục tiêu của Luật Doanh nghiệp là:
Thứ nhất, thiết lập các nguyên tắc tổ chức, quản lý thông tin rõ ràng, minh bạch thông
qua việc xây dựng cơ cấu cơ bản trong tổ chức quản lý nội bộ công ty.
Thứ hai, bảo đảm sự giám sát nội bộ đối với hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, quy định rõ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ thể lien quan đến
quản lý, điều hành doanh nghiệp, thể thức làm việc và thông qua quyết định của các cơ
quan.
Luật Doanh nghiệp bảo đảm nguyên tắc chung phổ biến trên đó là việc áp dụng mô
hình tổ chức quản lý, phương thức điều hành doanh nghiệp theo hướng coi đó là công
việc nội bộ cua chủ sở hữu doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Luật chỉ đưa ra “khung cơ bản”

Tiểu luận tốt nghiệp 16
để các nhà đầu tư lựa chọn quyết định. Do đó, phần lớn những quy định về tổ chức quản
lý doanh nghiệp là quy định có tính chất hướng dẫn để Điều lệ công ty quy định cụ thể.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực quản lý điều hành Doanh nghiệp có một số nguyên tắc bắt
buộc tuân thủ nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư nhỏ, hạn chế tối đa khả năng
cho nhà đầu tư lớn và người quản lý điều hành Doanh nghiệp có thể lạm dụng vị trí, lợi
thế của mình để tư lợi hoặc có các quyết định ảnh hưởng đến lợi ích các cổ đông khác,
đặc biệt là cổ đông nhỏ. Luật Công ty 1990 chưa quy định củ thể thể thức, trình tự thủ tục
cần thiết để triệ tập họp và thông qua quyết định của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng
thành viên, thiếu các quy định về kiểm soát các giao dịch lớn của người quản lý Công ty.
trên thực tế trong môi trường cạnh tranh của cơ chế thị trường các cổ đông lớn luôn chi
phối được quá trình ra quyết định quản lý về điều hành Công ty, loại trừ ảnh hưởng của
đông đảo các cổ đông nhỏ - là những người chỉ có quyền góp vốn và chia lợi nhuận mà
không có cơ hội tham gia quản lý, điều hành Công ty.
Luật Doanh nghiệp quy định rõ theo hướng tăng thêm quyền cho những nhà đầu tư,
chủ sở hữu đối với các vấn đề lớn, quan trọng của doanh nghiệp, mặt khác đưa ra các quy
định cụ thể về thẩm quyền triệu tập, cũng như điều kiện và thể thức tiến hành họp Hội
đồng thành viên, Hội đồng cổ đông, nguyên tắc thông qua của cơ quan này. Lần đầu tiên,
Luật Doanh nghiệp đưa ra chế định kiểm soát các giao dịch lớn thông qua quy định: các
quyết định và giao dịch lớn có giá trị trên 50% tổng giá trị tài sản Công ty phải được sự
chấp thuận của chủ sở hữu doanh nghiệp và đó cũng là căn cứ pháp lý để các cổ đông
thiểu số giám sát và thực hiện các quyền nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của họ.
Mặc dù có rất nhiều nguyên nhân lý giải tại sao các doanh nghiệp nhỏ hay đổ vỡ,
song một trong những sai lầm chung nhất lại diễn ra ngay từ lúc mới đầu khi doanh
nghiệp lựa chọn lý tương kinh doanh. trong rất nhiều trường hợp đổ vỡ, lý do xuất phát từ
việc xem nhẹ quy định thủ tục, hành lang ban đầu.
Một trong những nguyên nhân chung nhất được rút ra đó là: Không xác định được
nhu cầu của thì trường; Tiến hành kinh doanh mà không có kế hoạch phù hợp; Không
Tiểu luận tốt nghiệp 17
chịu học hỏi và không tìm kiếm sự giúp đỡ . Và việc xây dựng, áp dụng Điều lệ cũng

cũng là một trong những công cụ để các công ty khắc phục được các lý do đổ vỡ trên
3
.
Quy định về Điều lệ đóng một vai trò quan trọng đối với các nhà đầu tư lựa chọn loại
hình doanh nghiệp là Công ty. theo quy định của Luật Doanh nghiệp: Điều lệ Công ty là
bản cam kết của tất cả các thành viên về thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của công
ty. Điều lệ đầu tiên của Công ty TNHH phải được tất cả thành viên sáng lập chấp thuận.
Điều lệ đầu tiên của Công ty cổ phần phải được tất cả cổ đông sáng lập chấp thuận. Như
vây, Điều lệ công ty đóng vài trò quan trọng trong quá trình thành lập - một điều kiện để
nộp hồ sơ Đăng ký kinh doanh; quản lý và hoạt động, vì các quy định của Điều lệ là căn
cứ quan trọng trong việc tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp và đây thuộc về trách
nhiệm của thành viên sáng lập. Luật doanh nghiệp quy định: Nội dung Điều lệ Công ty
không được trái với quy định của Luật Doanh nghiệp và các văn bản Pháp luật khác có
liên quan.
Theo Điều 123 Luật Doanh nghiệp 2002, các công ty TNHH và công ty cổ phần được
thành lập và hoạt động trước ngày 1/1/2000 sẽ phải sửa đổi lại Điều lệ. Thời hạn cuối
cùng phải sửa đổi là 31/12/2001. Trong trường hợp công ty TNHH và công ty cổ phần
này không sửa đổi lại Điều lệ của mình thì Điều lệ đó được coi là không có giá trị pháp
luật từ ngày 1/1/2002, hồ sơ đăng ký kinh doanh được coi là không hợp lệ, mọi tranh
chấp phát sinh sau đó sẽ được xử lý theo Luật Doanh nghiệ. Các Công ty không sửa đổi
Điều lệ thì Điều lệ đó được coi là không hợp lệ và bị vô hiệu đối với những nội dung trái
với Luật Doanh nghiệp. Các cơ quan Đăng ký kinh doanh có quyền yêu cầu Công ty sửa
đổi Điều lệ, nếu Công ty không chấp hành thì có thể bị xử phạt vi phạm hành chính và
hậu quả pháp lý khác theo quy định tại Điều 16, NĐ 02/2000/NĐCP.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp riêng đối với Điều lệ của công ty TNHH và
CTCP đã được thành lập trước ngày 1/1/2000 thì phải sửa đổi lại theo Luật Doanh
nghiệp; kể từ ngày 1/1/2002 tất cả Điều lệ thuộc diện phải sửa đổi nói trên mà chưa được
3 Tiếng nói doanh nghiệp, NXB Tư pháp.
Tiểu luận tốt nghiệp 18
thay đổi thì Điều lệ không còn giá trị pháp lý. Trong trường hợp công ty chưa sửa đổi

Điều lệ theo Luật Doanh nghiệp nếu có tranh chấp phát sinh trong thời gian 1/1/2002 thì
phải áp dung các quy định tại Điều lệ cũ và Luật Công ty 1990 bởi vì Luật Doanh nghiệp
vẫn cho phép Điều lệ còn hiệu lực đến hết ngày 31/12/2001 nếu công ty chưa sửa đổi
Điều lệ theo Luật Doanh nghiệp. Các tranh chấp về vấn đề mà Điều lệ cũ và Luật không
quy định thì có thể vận dụng Luật Doanh nghiệp để giải thích nhưng không được hồi tố
4
.
Sau quá trình sửa đổi bổ sung Luật Doanh nghiệp, ta thấy nội dung quy định về Điều
lệ tại Luật Doanh nghiệp 2005 đã mang tính ổn định, việc cho ra đời Luật sửa đổi và bổ
sung Luật Doanh nghiệp 2009 nội dung này gần như không có thay đổi. Ngoài việc quy
định một số nguyên tắc bắt buộc phải tuân thủ, thì Luật Doanh nghiệp đã trao một quyền
tự chủ nhất định cho các Doanh nghiệp trong việc quy định Điều lệ cho công ty mình, và
các quy định mang tính “nhân văn” hơn khi nó ngày càng thể hiện sự bảo vệ của pháp
luật đối với các thành viên, các cổ đông nhỏ yếu thế hơn. Nhằm góp phần tạo một môi
trường kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh.
I.4 Mối quan hệ giữa Điều lệ và Luật Doanh nghiệp.
Như ta đã biết, Điều lệ được coi như “Điều luật riêng” của một Công ty, nó điều
chỉnh sự hình thành, phát triển, kể cả sự phá sản của chính công ty đó. Tuy nhiên, ở một
khía cạnh khác thì Điều lệ lại nằm trong sự Điều chỉnh của Pháp luật. Mặc dù, những quy
định luôn có những hướng mở cho các công ty quy định sao cho phù hợp với hoàn cảnh
cụ thể tại công ty mình, nhưng về cơ bản nó vẫn nằm trong một khuôn khổ nhất định. Và
ngược lại, Pháp luật cũng chịu sự tác động trở lại từ chính thực tế hiệu quả xây dựng và
áp dụng Điều lệ ở các Công ty. Luật điều chỉnh nhiều nhất trong phạm vi này chính là
Luật Doanh nghiệp.
Thứ nhất, từ phía Luật Doanh nghiệp, đây được coi là Luật quan trọng nhất điều chỉnh
việc xây dựng, áp dụng Điều lệ. Nó đặt ra khung pháp lý nhất định vừa có ý nghĩa như
4 Những điều cần biết về Luật Doanh nghiệp, NXB Chính trị Quốc gia.
Tiểu luận tốt nghiệp 19
một “hàng rào” để các Công ty biết được giới hạn nào được cho phép thực hiện, đâu là
quyền, đâu là nghĩa vụ và việc xây dựng Điều lệ phải dựa trên những nguyên tác luật

định nào? Bên cạnh đó, nó còn có ý nghĩa định hướng cho các Công ty trong việc xây
dựng Điều lệ cho mình. Bởi lẽ, xét cho cùng Luật pháp cũng được xây dựng từ thực tế xã
hội, việc tuân thủ nó cũng chính là đang hướng theo một sự vận động chung. Còn có thể
phát triển đến đâu lại phụ thuộc vào bản thân của các Công ty trong việc nắm bắt linh
hoạt vào tình hình của Công ty mình.
Trên thực tế, khi soạn thảo Điều lệ những người sáng lập Công ty sắp xếp ý muốn của
họ đi theo các khuôn khổ luật định mà đã được “cắt đẽo”, thêm bớt theo nguyên tắc
“không trái pháp luật” để thực hiện việc đầu tư của mình. Về cơ bản, họ không muốn chia
sẻ quyền quản lý và điều hành Công ty của mình với ai; nhưng vì cần tiền của người khác
nên họ phải làm trái đi một cách bất đắc dĩ. Vậy vấn đề là chia sẻ thế nào, nhượng bớt
những gì để mình không mất nhiều mà những người mình muốn họ hùn hạp chấp nhận và
nằm trong khuôn khổ của luật pháp đã được vận dụng. Ngoài ra còn phải tính đến chủ
trương của luật; nó đứng về phe nào trong số các đối tượng được điều chỉnh. Chẳng hạn,
Luật Doanh Nghiệp năm 2005 chủ trương bảo vệ cổ đông ít vốn hơn Luật Doang nghiệp
năm 2000. Khả năng xoay trở trong khuôn khổ “không trái pháp luật” mà những người
sáng lập có thể làm được nằm ở cách thức và thời gian góp vốn, cơ cấu tổ chức của Công
ty, thủ tục họp hành, thể thức quyết định, để làm sao đạt được mục đích của mình.
Vì lẽ trên, Điều lệ phải du nhập vào nó những điều khoản của Luật Doanh nghiệp đã
“được cắt gọt” để những người sáng lập vận hành được công ty. Nó là sự cụ thể hóa Luật
doanh nghiệp vào hoàn cảnh cụ thể của một công ty. Công việc ấy đòi hỏi người sáng lập
không chỉ phải thực tế, mà còn cần hiểu biết tâm lý để đừng dại dột trói tay mình chặt
hơn luật đòi hỏi.
Ví dụ, luật quy định “Cuộc họp Hội đồng quản trị được tiến hành khi có từ ba phần tư
tổng số thành viên trở lên dự họp.Thành viên không trực tiếp dự họp có quyền biểu quyết
thông qua bỏ phiếu bằng văn bản. Phiếu biểu quyết phải đựng trong phong bì kín và phải
Tiểu luận tốt nghiệp 20
được chuyển đến Chủ tịch Hội đồng quản trị chậm nhất một giờ trước giờ khai mạc.
Phiếu biểu quyết chỉ được mở trước sự chứng kiến của tất cả những người dự họp. Quyết
định của Hội đồng quản trị được thông qua nếu được đa số thành viên dự họp chấp
thuận; trường hợp số phiếu ngang nhau thì quyết định cuối cùng thuộc về phía có ý kiến

của Chủ tịch Hội đồng quản trị”
5
, thì Điều lệ không nên quy định nâng lên thành “của
toàn thể thành viên hiện diện”. Còn trong trường hợp Điều lệ sao chép nguyên văn các
quy định của Luật Doanh nghiệp thì về cơ bản bản Điều lệ đó không phát huy được hiệu
quả của mình. Vì xét cho cùng Luật Doanh nghiệp chỉ đưa ra một “khung chung” cho tất
cả các Công ty, nên không thể phù hợp với điều kiện cụ thể của từng Công ty đươc. Luật
Doang nghiệp vẫn cho phép Điều lệ quy định khác đi, đó cũng là cơ hội để những người
sáng lập quan tâm, làm cho Bản Điều lệ đi sâu hơn, chi tiết hơn Luật Doanh nghiệp, giúp
dễ dàng hơn trong việc áp dụng. Cũng chính vì việc “đi sâu hơn” này mà cũng xuất hiện
tình trạng các cổ đông sáng lập ký kết với nhau hợp đồng góp vốn trước khi ký Điều lệ,
bởi vì có những điều họ muốn nhưng không thể ghi vào Điều lệ.
Ví dụ: A,B,C góp vốn, họ đồng ý là A sẽ luôn luôn là chủ tịch. Theo Luật doanh nghiệp,
trong Điều lệ họ chỉ có thể ghi “hội đồng thành viên bầu một thành viên làm chủ tịch”
chứ không thể ghi một trực tiếp là A được.
Ngoài ra, còn nhiều vấn đề nữa mà các cổ đông sáng lập phải làm nhưng không thể
ghi vào Điều lệ.Ví dụ: một số việc phải làm trước khi công ty thành hình nhưng sau này
công ty không thành lập được.
Có nhiều thực tế phức tạp mà Luật Doanh nghiệp không thể tiên liệu được nên một
Điều lệ muốn đạt mục đích “quy định” và “đối kháng” của nó thường phải mở rộng luật
bằng cách vận dụng luật. Do vậy, một Điều lệ làm theo mẫu do cơ quan đăng ký kinh
doanh đề nghị thì không bao giờ đủ, chưa kể đến việc trong đó có những điều khoản phục
vụ lợi ích của cơ quan quản lý nhiều hơn là cho lợi ích của công ty. Một môi trường đầu
5 Khoản 8, Điều 112 Luật Doanh nghiệp 2005.
Tiểu luận tốt nghiệp 21
tư thuận lợi hơn nằm nhiều ở chỗ tôn trọng quyền lợi của người đầu tư khi luật pháp được
áp dụng chứ không phải ở chỗ luật thông thoáng.
Thứ hai, từ phía Điều lệ, nó chính là sự cụ thể hóa Luật doanh nghiệp vào từng
Công ty nhất định. Tính chất này cũng giống như khi hai thương gia ký hợp đồng mua
bán giao dịch dựa trên luật thương mại hay dân sự. Trong mua bán, khi có tranh chấp thì

nguyên đơn sẽ chỉ ra bị đơn vi phạm một điều nào đó trong bản hợp đồng - luật cụ thể,
chứ không phải theo điều số mấy của luật thương mại - luật tổng quát. Khi xét xử, chỉ khi
nào luật cụ thể thiếu hay không rõ tòa mới chiếu vào luật tổng quát, và nếu luật ấy thiếu
tòa sẽ chiếu vào tập tục. Trong tương quan giữa Điều lệ và Luật Doang nghiệp thì nó
cũng giống như hợp đồng mua bán đối với luật thương mại. Vậy khi các cổ đông cãi nhau
thì họ tranh chấp về một điều khoản nhất định nằm trong Điều lệ chứ không phải trong
Luật Doanh nghiệp. Đối với Luật Doanh nghiệp, họ bị buộc phải tuân thủ. Họ tranh chấp
với nhau về một điều khoản trong Điều lệ mà họ đã đồng ý với nhau là sẽ tuân thủ và đã
ký tên vào đó. Họ không hề ký để nói rằng chúng ta cùng tuân thủ Luật Doanh nghiệp.
Bởi thế, khi các cổ đông của một Công ty tranh chấp thì phải căn cứ vào Điều lệ trước hết
để xem xét ai đúng ai sai, nếu Điều lệ thiếu thì mới xem đến Luật Doanh nghiệp.
Như vây, chính từ sự cụ thể hóa đó của Điều lệ nên có thế xem nó cũng như một
mảnh ghép phản chiếu thực tế, cho việc đánh giá hiệu quả, tính phù hợp của các quy định
trong Luật Doanh nghiệp. Điều lệ Công ty chính là sự cụ thể hóa Luật Doanh nghiệp vào
hoàn cảnh cụ thể của một công ty. Từ những thuận lợi, vướng mắc của việc áp dụng có
thể thấy được điểm hay, điểm dở của Pháp luật, để có hướng điều chỉnh sao cho phù hợp
với điều kiện chung.
Tóm lại, xét về bản chất, cả Luật Doanh nghiệp và Điều lệ công ty đều là những “quy
tắc” yêu cầu các công ty cần phải tuân thủ, chúng có mối quan hệ tác động qua lại, bổ
sung cho nhau. Và để thật sự phát huy được hiệu quả áp dụng của cả hai “luât” này thì
trước hết phải đảm bào được sự đồng bộ thống nhất, từ đó giúp các Công ty có thể hiểu,
áp dụng pháp luật một cách chính xác, đi đúng hướng theo tinh thần của pháp luật, đồng
Tiểu luận tốt nghiệp 22
thời cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các cơ quan chức năng trong việc kiểm soát và
quản lý.
CHƯƠNG II. NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN VỀ PHÁP LUẬT VÀ QUÁ
TRÌNH ÁP DỤNG.
II.1 Thực trạng quy định pháp luật về việc xây dựng và áp dụng Điều lệ Công ty.
Đã 7 năm kể từ khi Luật Doanh nghiệp 2005 có hiệu lực, không thể phủ nhận những
giá trị to lớn kể từ khi văn bản này ra đời, tuy nhiên, cùng với sự thay đổi, phát triển của

nền kinh tế, xã hội trong nước, cũng như những biến chuyển của quy định pháp lý trong
và ngoài nước thời gian qua thì dường như, có không ít các quy định của văn bản này đã
không còn phù hợp hoặc nội dung quy định không rõ ràng gây khó khăn trong quá trình
áp dụng Luật nói chung và trong việc xây dựng áp dụng Điều lệ trong các Công ty nói
riêng.
Việc xây dựng Điều lệ công ty mang tính ổn định, gắn liền trong suốt quá trình hoạt
động của Công ty, tuy nhiên chính sự thay đổi mang tính thường xuyên của pháp luật Việt
Nam đã ảnh hưởng không nhỏ đối với việc áp dụng Điều lệ của các Công ty, cũng như
khó khăn cho chính các cơ quan chức năng trong việc kiểm soát quản lý. Nhiều Công ty
soạn thảo Điều lệ theo các quy định cũ, như Luật Doanh nghiệp năm 1999 không quy
định việc bầu dồn phiếu mà việc này chỉ được quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2005
nhưng các Công ty này đã không sửa đổi bổ sung cho phù hợp,như dẫn đến không thực
hiện bầu dồn phiếu, lấy lý do là điều lệ của Công ty chúng tôi quy định như thế. Điều lưu
ý hết sức quan trọng ở đây là khi áp dụng các điều khoản của Điều lệ Công ty, trong
trường hợp pháp luật có quy định khác với nội dung các điều, khoản của điều lệ đó thì
các điều khoản đó của Điều lệ Công ty đương nhiên vô hiệu và Công ty luôn phải thực
hiện theo các qui định của Pháp luật hiện hành. Xuất phát từ việc, Điều lệ được xây dựng
không chỉ dựa trên điều kiện thực tế của Công ty trong hoàn cảnh cụ thể mà còn phải
Tiểu luận tốt nghiệp 23
đảm bảo tuân thủ các quy định của Pháp luật. Từ đó có thể làm phát sinh trường hợp
những nội dung trong Điều lệ là phù hợp với sự phát triển của Công ty hiện tại nhưng lại
không phù hợp với các quy định của pháp luật. Hoặc các Công ty không nắm bắt được sự
thay đổi của pháp luật để kịp thời thay đổi Điều lệ của Công ty sao cho phù hợp dẫn đến
những sai phạm không đáng có. Một ví dụ thực tế về tình trạng này của Công ty TNHH
Lân sản Toàn thịnh:
Công ty TNHH Lâm sản Toàn Thịnh được thành lập ngày 1-2-1992 theo Quyết định số
38/GP-UB của UBND TPHCM có tám thành viên sáng lập. Điều lệ được xây dựng dựa
trên Luật Công ty năm 1990.
Từ khi được thành lập đến ngày 8-10-1997 công ty đã bốn lần thay đổi các thành viên
công ty, giảm số lượng thành viên xuống còn hai (bà Nguyễn Thị Bích Đào và ông Lê

Quang Chiêu), mỗi thành viên góp 50% vốn điều lệ nhưng điều lệ, vốn điều lệ của công
ty vẫn không thay đổi.
Trong quá trình hoạt động đến năm 2003, giữa các thành viên với công ty phát sinh mâu
thuẫn về việc phân chia lợi nhuận, sau đó các bên không tự giải quyết được, phát sinh
tranh chấp và bà Nguyễn Thị Bích Đào đã khởi kiện công ty ra TAND TPHCM để yêu
cầu được rút phần vốn góp hoặc chuyển nhượng cho thành viên khác theo giá thỏa thuận,
nếu không chuyển nhượng được thì giải thể công ty.
Ông Lê Quang Chiêu – thành viên còn lại của công ty không đồng ý cho bà Nguyễn Thị
Bích Đào chuyển nhượng cho người ngoài công ty, cũng không mua và không giới thiệu
ai mua.
Tại bản án kinh tế sơ thẩm số 243/XX-KTST ngày 28-9-2004, TAND TPHCM chấp nhận
yêu cầu của nguyên đơn và yêu cầu Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố có trách nhiệm
thực hiện việc thay đổi đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp theo quyết định của Tòa án.
Ông Lê Quang Chiêu có đơn kháng cáo. Bản án kinh tế phúc thẩm số 72/KTPT ngày 24-
12-2004, Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TPHCM quyết định bác đơn yêu cầu của bà
Tiểu luận tốt nghiệp 24
Nguyễn Thị Bích Đào do căn cứ vào điều lệ công ty (điểm b, điều 7, quy định: “Việc
chuyển nhượng phần hùn vốn được ưu tiên thực hiện giữa các thành viên, nếu chuyển
nhượng cho người ngoài công ty thì phải được đa số thành viên tiêu biểu ít nhất là 80%
vốn công ty ưng thuận”).
Ngày 12-9-2005, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ra Quyết định kháng nghị
số 04/KN-AKT kháng nghị bản án phúc thẩm.
Ngày 4-4-2006, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao ra Quyết định giám đốc thẩm số
01/2006/KDTM-GĐT tuyên điều 7 điều lệ Công ty Toàn Thịnh vô hiệu do: (i) không còn
phù hợp với Luật Doanh nghiệp 1999 về quy định việc chuyển nhượng phần vốn góp kể
từ ngày 12-6-2001 và (ii) quy định này không còn khả thi. Quyết định giám đốc thẩm
cũng tuyên phần phán quyết của bản án sơ thẩm về việc thay đổi danh sách thành viên
góp vốn và yêu cầu Sở Kế hoạch và Đầu tư TPHCM có trách nhiệm thực hiện việc thay
đổi đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp theo quyết định của tòa án là không có căn cứ
vì tòa án chỉ giải quyết việc được hay không được chuyển nhượng vốn ra ngoài công ty,

còn chuyển nhượng cho ai, thủ tục chuyển nhượng, thay đổi thành viên là việc của các
thành viên với nhau và thuộc thẩm quyền của Sở Kế hoạch và Đầu tư.
Dùng luật để phân tích: Xét về tính hợp pháp của điều 7 điều lệ Công ty Toàn Thịnh:
Theo khoản 2, điều 25 Luật Công ty năm 1990 quy định: “Việc chuyển nhượng phần vốn
góp giữa các thành viên được thực hiện tự do. Việc chuyển nhượng phần vốn góp cho
người khác không phải là thành viên phải được sự nhất trí của nhóm thành viên đại diện
cho ít nhất ba phần tư số vốn điều lệ của công ty”. Vào thời điểm được thông qua, điều 7
điều lệ của Công ty Toàn Thịnh là phù hợp với Luật Công ty.
Tuy nhiên, năm 1999 Luật Doanh nghiệp đã thay thế Luật Công ty, việc chuyển nhượng
phần vốn góp của thành viên được thực hiện theo các điều 26, 32 của Luật Doanh nghiệp
1999. Theo đó, Luật Doanh nghiệp 1999 không còn hạn chế việc chuyển nhượng vốn ra
ngoài công ty phải có sự đồng ý của nhóm thành viên công ty đại diện cho ba phần tư số
vốn điều lệ nữa.
Tiểu luận tốt nghiệp 25

×