Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Luận văn :T HỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN NGÀNH NÔNG LÂM NGHIỆP THUỶ SẢN TỈNH VĨNH PHÚC part 5 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.97 KB, 15 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
52
thành và ổn định tập quán sản xuất 3 vụ/năm trên diện tích canh tác cây hàng
năm; bước đầu xuất hiện vùng sản xuất hàng hoá với một số cây trồng có thị
trường tiêu thụ như rau, hoa, cây ăn quả, cây dược liệu, cây thức ăn gia súc
Nhiều mô hình trang trại chuyên canh và sản xuất kinh doanh tổng hợp được
hình thành và phát triển. Kết quả trồng trọt cụ thể đạt được như sau:
a - Nhóm cây lương thực có hạt (lúa, ngô)
Là nhóm cây trồng chủ lực trên diện tích gieo trồng cây hàng năm của
tỉnh. Từ năm 2002 đến nay, diện tích gieo trồng cây lương thực của tỉnh có xu
hướng giảm dần, nguyên nhân do một phần diện tích đất nông nghiệp chuyển
mục đích sử dụng để phát triển các ngành kinh tế khác; Một phần do chuyển
dịch cơ cấu cây trồng sang các cây trồng khác có hiệu quả kinh tế cao hơn.
Nhờ áp dụng có hiệu quả các biện pháp kỹ thuật trong thâm canh nên mặc dù
diện tích gieo trồng giảm nhưng năng suất, sản lượng cây lương thực của tỉnh
không ngừng tăng năm sau cao hơn năm trước. Tổng sản lượng lương thực có
hạt tăng từ 39,7 vạn tấn năm 2002 lên 43,67 vạn tấn năm 2004; năm 2005 đạt
41,3 vạn tấn. Sản lượng lương thực tăng, vừa đảm bảo an ninh lương thực
trên địa bàn, dành một phần phục vụ phát triển chăn nuôi và bước đầu có hàng
hoá phục vụ nhu cầu của các tỉnh, thành phố lân cận như Hà Nội, Việt Trì,
Sơn Tây,
Kết quả đạt được như sau :
- Cây lúa: diện tích gieo cấy bình quân đạt 68-70 ngàn ha/năm; Do tích
cực áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới về giống, kỹ thuật canh tác và đặc biệt
do chuyển đổi cơ cấu mùa vụ từ chính vụ sang gieo cấy trà xuân muộn, mùa
sớm nên năng suất lúa đã tăng từ 46,7 tạ/ha năm 2002 lên 50,53 tạ/ha năm
2005, năm 2007 đạt 45,77 tạ/ha. Nhờ vậy, sản lượng lúa không ngừng tăng
qua các năm, năm 2004 đạt cao nhất là 36,45 vạn tấn[3].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


53
Bảng 2.8: DIỆN TÍCH, NĂNG SUẤT SẢN LƢỢNG CÂY LƢƠNG THỰC
TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2003-2007







STT
Chỉ tiêu
Đơn vị
Thực hiện
Bình quân


tính

Năm
2003
Năm
2005
Năm
2007
2003-2007
(%)
I
Tổng diện tích gieo trồng cây
hàng năm

Ngàn
ha
122,81
118,85
111,06
-1,44
II
Sản lƣợng lƣơng thực có hạt
ngàn
tấn
421,2
412,8
367,8
-1,56
III
Giá trị sản xuất/1 ha đất cây
hàng năm (Giá thực tế)
Triệu
đồng
25,76
29,17
35,44
8,77
IV
Cây lƣơng thực
ngàn ha
101,3
86,0
84,2
-3,00

1
Cây lúa






+ Diện tích
Ngàn
ha
74,19
69,5
69,0
-1,34

+ Năng suất
tạ/ha
48,2
50,52
45,82
-0,39

+ Sản lượng
Ngàn
tấn
357,7
351,2
316,2
-1,73

2
Cây ngô






+ Diện tích
Ngàn
ha
18,72
16,49
15,24
-0,64

+ Năng suất
tạ/ha
34,0
37,38
33,86
0,20

+ Sản lượng
Ngàn
tấn
63,6
61,6
51,6
-0,44


Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc

- Cây ngô: Sản xuất thâm canh ngô là thế mạnh của Vĩnh phúc, nhất là
trồng ngô vụ đông. Đến nay, 100% diện tích ngô của tỉnh được gieo trồng
bằng các giống ngô lai, chủ yếu là lai đơn, lai 3 cho năng suất cao. Tuy nhiên
những năm qua, do hiệu quả từ trồng ngô thấp hơn các cây trồng khác nên
diện tích ngô đông có xu hướng giảm dần. Nông dân chuyển sang trồng các
loại cây có giá trị kinh tế cao hơn như rau, đậu tương, Năm 2007 diện tích
ngô chỉ đạt 15,24 ngàn ha, xấp xỉ bằng năm 2002 nhưng thấp hơn các năm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
54
2003-2006. Năng suất ngô tăng từ 33,5 tạ/ha năm 2002 lên 38,54 tạ/ha năm
2004 [3].
b - Nhóm cây thực phẩm (rau, đậu các loại):
Trong những năm gần đây Vĩnh Phúc là một trong những địa phương
sản xuất rau với khối lượng sản phẩm lớn, cung cấp cho thị trường Hà Nội và
các tỉnh miền núi phía bắc như Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang, với sản lượng
rau cung cấp ra tỉnh ngoài lên tới 80-90 ngàn tấn/năm. Do thị trường tiêu thụ
lớn, mặt khác cây rau là loại cây trồng đem thu nhập khá cao và thường xuyên
so với các loại cây khác nên được nông dân chú trọng phát triển. Năm 2007,
diện tích gieo trồng cây thực phẩm đạt 9,1 ngàn ha, trong đó rau các loại 8,47
ngàn ha, đậu 437 ha, chiếm 8,2% tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm của
tỉnh, được phân bố khá đều trên tất cả các huyện, thị.
Về rau xanh: diện tích cây rau đạt trung bình 8,58 ngàn ha/năm, năm
2004 đạt cao nhất là 8,83 ngàn ha. Năng suất rau từ 153,8 tạ/ha năm 2002
tăng lên 170,38 tạ/ha năm 2007, bình quân tăng 2,1%/năm. Các loại rau chủ
yếu được trồng là: rau muống sản lượng đạt khoảng 20 ngàn tấn/năm; rau cải
các loại sản lượng đạt khoảng 25-26 ngàn tấn/năm; bầu bí các loại đạt 23-24

ngàn tấn/năm; hành tỏi 13-14 ngàn tấn/năm, dưa chuột 10-11 ngàn tấn/năm,
cải bắp 9-10 ngàn tấn/năm, xu hào 8-9 ngàn tấn/năm, cà chua 10-11 ngàn
tấn/năm, Từ năm 2003, tỉnh Vĩnh Phúc đã quan tâm đầu tư xây dựng vùng
rau sạch, rau an toàn, đẩy mạnh việc ứng dụng và chuyển giao các tiến bộ kỹ
thuật trong sản xuất rau, nhất là quản lý dịch hại tổng hợp trên rau (IPM), nên
năng suất, chất lượng rau ngày càng được nâng cao. Bước đầu tỉnh đã xây
dựng được vùng rau an toàn với quy mô trên 600 ha ở Vĩnh Yên, Vĩnh Tường
và Yên Lạc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
55
Đối với đậu các loại, diện tích trung bình đạt 600-700 ha/năm, năng
suất tăng nhờ đầu tư thâm canh, nhưng diện tích gieo trồng có xu hướng giảm
do nhu cầu thị trường giảm.

Bảng 2.9: DIỆN TÍCH, NĂNG SUẤT SẢN LƢỢNG CÂY THỰC PHẨM
TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2003-2007








STT
Chỉ tiêu
Đơn vị
Thực hiện
Bình quân



tính

Năm
2003
Năm
2003
Năm
2007
2003-2007
(%)

Diện tích cây thực
phẩm
ngàn ha
9405,9
9454
9106,5
-0,58
1
Rau các loại






+ Diện tích
Ha

8496,20
8626
8469,5
0,14

+ Năng suất
tạ/ha
162,3
171,96
170,38
2,07

+ Sản lượng
Ngàn tấn
137,9
148,3
144,3
2,21
2
Đậu các loại






+ Diện tích
Ha
909,7
827,8

637
-7,94

+ Năng suất
tạ/ha
4,40
3,78
8,61
13,86

+ Sản lượng
Tấn
400,3
312,9
548,5
4,82

Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc
c - Nhóm cây công nghiệp hàng năm (lạc, đậu tương):
Là nhóm cây trồng có khối lượng và giá trị sản phẩm hàng hoá lớn, có
thị trường tiêu thụ. Năm 2007, toàn tỉnh có 8.549 ha cây công nghiệp hàng
năm. Đây là nhóm cây có giá trị kinh tế khá cao, có thị trường tiêu thụ và có
khả năng phát triển theo hướng thâm canh tăng năng suất, kết quả cụ thể từng
loại cây như sau:
+ Cây lạc: diện tích lạc hàng năm khá ổn định ở mức 3,7 – 4,0 ngàn ha.
Nhờ tăng cường đưa giống mới vào sản xuất như SĐ1, LD2, sen lai, L14,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
56
L15… và thực hiện tốt các biện pháp kỹ thuật trong thâm canh nên năng suất,

sản lượng lạc tăng khá, đặc biệt là lạc gieo trồng vụ đông. Năm 2007, diện
tích đạt 4,11 ngàn ha, năng suất 15,99 tạ/ha (tăng 7,3% so năm 2002), sản
lượng 6,21 ngàn tấn (tăng 53% so năm 2002).
+ Cây đậu tương: Là cây công nghiệp được phát triển khá và được
trồng chủ yếu trong vụ đông. Nhờ thâm canh và tăng cường sử dụng giống tốt
nên năng suất, sản lượng đậu tương tăng nhanh. Năm 2005, diện tích cao nhất
đạt 8,47 ngàn ha, năng suất 15,56 tạ/ha (tăng 17,5% so năm 2002); sản lượng
đạt 13,2 ngàn tấn. Vụ đông năm 2006-2007 do mưa đá và lốc xoáy làm thiệt
hại gần 3 ngàn ha đậu tương nên diện tích đậu tương giảm còn 4,3 ngàn ha,
sản lượng đạt 6,35 ngàn ha.
d - Hoa, cây cảnh và cây hàng năm khác
+ Hoa, cây cảnh: Là những cây trồng mới phát triển mạnh trong những
năm gần đây; Từ năm 2003-2007, diện tích gieo trồng hàng năm đạt trên 1
ngàn ha, năm 2007 đạt 1.241 ha, trong đó có gần 400 ha đất chuyên canh hoa
hồng; giá trị thu nhập từ trồng hoa khá cao (Năm 2006-2007 đạt 70 – 80 triệu
đồng/ha/năm, cá biệt đạt trên 300 triệu/ha- giá thực tế). Tuy nhiên, sản xuất
hoa ở Vĩnh Phúc còn chủ yếu theo phương pháp truyền thống, chưa có sự đầu
tư theo công nghệ sản xuất hiện đại nên chất lượng hoa của Vĩnh Phúc chưa
cao, chưa đủ khả năng cạnh tranh với hoa Đà Lạt và hoa nhập ngoại.
+ Cây dược liệu: chủ yếu là thanh hao hoa vàng cung cấp nguyên liệu
cho các cơ sở chế biến Artermisin trên địa bàn. Năm 2002 diện tích cây dược
liệu mới chỉ đạt 257,3 ha, năm 2006 do giá thu mua cao, người nông dân thấy
hiệu quả từ trồng thanh hao cao hơn các loại cây trồng khác nên đã chuyển
sang trồng thanh hao, đưa diện tích cây thanh hao tăng lên 4.144 ha. Tuy
nhiên sau đó sản phẩm dư thừa, giá thu mua giảm mạnh, diện tích cây thanh
hao hoa vàng hiện nay giảm, năm 2007 chỉ còn 430,7 ha.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
57
Bảng 2.10: DIỆN TÍCH, NĂNG SUẤT, SẢN LƢỢNG CÂY CÔNG NGHIỆP HÀNG NĂM

TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2003-2007









Đơn vị
Thực hiện
Bình quân
STT

Chỉ tiêu

tính

Năm
2003
Năm
2005
Năm
2007
2003-2007
(%)
1
Cây đậu tƣơng







+ Diện tích
Ha
5659,0
8478,6
4343,5
-5,94

+ Năng suất
tạ/ha
13,36
15,56
14,63
2,97

+ Sản lượng
tấn
7560,4
13192
6354,5
-3,15
2
Cây lạc







+ Diện tích
Ha
3858,8
4114,5
4109,9
1,43

+ Năng suất
tạ/ha
12,20
15,14
16,03
7,38

+ Sản lượng
Tấn
4708
6229
6588,2
8,91
3
Cây hàng năm khác
ha
2209,0
3500
3302
11,65


+ Cây làm thuốc
ha
209,2
300
430,7
10,85

+ Cây thức ăn gia súc
ha
662,2
800
1545,9
37,71

+ Hoa, cây cảnh
ha
1106,1
1400
1241
3,81

+ Cây hàng năm khác
ha
231,5
1000
84
-22,67

Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc

+ Cỏ làm thức ăn gia súc:
Cùng với phát triển chăn nuôi bò, nhất là bò sữa, diện tích trồng cỏ
đang tăng nhanh, tập trung chủ yếu tại các xã Vĩnh Thịnh, Cao Đại, Phú
Thịnh (huyện Vĩnh Tường), Nông trường Tam Đảo… Năm 2002, diện tích
trồng cỏ trên toàn tỉnh mới chỉ đạt 312,1 ha, đến năm 2007 đã tăng lên
1.545,9 ha cỏ các loại, tăng bình quân 37,7%/năm. Trồng cỏ làm thức ăn gia
súc có hiệu quả kinh tế cao, ngoài phục vụ nuôi bò, hộ nông dân còn bán
giống cỏ cho các địa phương khác. Bình quân 1 ha cỏ voi cho năng suất
khoảng 350 tấn/năm, giá trị tương đương 50-60 triệu đồng /ha/năm. Ngoài cỏ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
58
voi, hộ chăn nuôi còn trồng các loại cỏ Ghinê, Rugi, Pangola, Stylo, cỏ hỗn
hợp Úc… Những năm tới, cùng với việc phát triển chăn nuôi bò, việc mở
rộng diện tích trồng cỏ cũng là một hướng sản xuất có hiệu quả.
Nhìn chung, cơ cấu cây trồng của tỉnh những năm qua có sự chuyển
dịch theo hướng mở rộng diện tích cây có giá trị kinh tế cao, có tỷ trọng hàng
hoá lớn, đáp ứng nhu cầu thị trường. Tuy nhiên, do sản xuất vẫn chủ yếu ở
quy mô hộ gia đình nhỏ lẻ, phần lớn nông dân vẫn canh tác theo tập quán cũ,
đáp ứng nhu cầu lương thực cho gia đình, chưa năng động theo cơ chế thị
trường nên cơ cấu cây trồng chuyển dịch chưa mạnh, khối lượng nông sản
hàng hoá chưa nhiều.
e - Cây lâu năm
- Cây ăn quả: Cây ăn quả trên địa bàn tỉnh được trồng chủ yếu ở các
huyện Lập Thạch, Tam Đảo và Tam Dương, là những huyện có diện tích đất
đồi rừng lớn. Do cây ăn quả phù hợp với đất đồi và đem lại thu nhập khá cao
cho các trang trại và hộ gia đình nên từ năm 1997 đến nay, diện tích cây ăn
quả của tỉnh tăng khá nhanh, trong đó tăng nhanh nhất là diện tích trồng nhãn,
vải và xoài; Năm 1997 diện tích cây ăn quả toàn tỉnh mới chỉ đạt trên 3 ngàn
ha, đến năm 2007 đã đạt 8.889,3 ha, diện tích cho sản phẩm là 7.022,9 ha; sản

lượng quả đạt 75 ngàn tấn, trong đó chủ yếu là chuối 34,82 ngàn tấn, nhãn vải
20,877 ngàn tấn, dứa 2,41 ngàn tấn và cam, chanh quýt 1,06 ngàn tấn, xoài
1,8 ngàn tấn, Hiện nay một số loại cây ăn quả đem lại thu nhập khá là chuối
18,8 triệu đồng/ha, nhãn 31,6 triệu đồng/ha, vải 10-15 triệu đồng/ha, dứa 10,3
triệu đồng/ha (tính toán chi tiết tại phụ lục số 2). Sản phẩm cây ăn quả trên địa
bàn tỉnh bước đầu đã đáp ứng được nhu cầu thị trường trong tỉnh và cung cấp
cho các tỉnh lân cận.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
59
Bảng 2.11: DIỆN TÍCH, SẢN LƢỢNG MỘT SỐ CÂY ĂN QUẢ
TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2003-2007
Năm
Diện tích cho
sản phẩm (ha)
Sản lƣợng (tấn)
Tổng số
Chuối
Cây có
múi
Dứa
Nhãn,
vải
2003
4.804,9
63.503
31.715
2.492
1.882
10.112

2004
5.744,8
66.950
28.422
1.190
2.240
14.357
2005
6.232,0
71.179
32.578
1.161
2.604
14.003
2006
6490,1
72.435
32.962
1.176
2.985
14.106
2007
7.022,9
75.486
34.820
1.064
2.414
20.877

Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc


Tuy nhiên, nhìn chung cây ăn quả của Vĩnh Phúc không có tính đặc
trưng, chất lượng không cao. Việc triển khai các dự án trồng cây ăn quả trước
đây ở các địa phương có tính phong trào, chủng loại và chất lượng giống
không được kiểm soát chặt chẽ, nên nhiều diện tích cây sinh trưởng kém. Bên
cạnh đó, cây ăn quả chủ yếu được trồng trên đất vườn tạp, diện tích nhỏ lẻ,
phân tán, không được chú trọng đầu tư thâm canh nên năng suất, chất lượng
quả thấp, chưa tạo ra khối lượng hàng hoá lớn. Từ năm 2002 đến nay, diện
tích trồng mới cây ăn quả giảm dần do đã trồng hết diện tích, mặt khác hiệu
quả từ trồng cây ăn quả có năm giảm rất thấp do tình trạng “được mùa, rớt
giá”, nhất là đối với quả vải. Vì vậy, để duy trì ổn định diện tích và sản lượng
các loại cây ăn quả trên thì việc nâng cao chất lượng sản phẩm, đầu tư công
nghệ bảo quản, chế biến sản phẩm đồng thời làm tốt công tác dự báo thị
trường là rất quan trọng.
- Cây dâu:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
60
Trồng dâu nuôi tằm là nghề truyền thống ở Vĩnh Phúc. Tuy nhiên từ
năm 2002 đến nay, diện tích cây dâu ngày càng giảm, bình quân giảm
24,9%/năm. Nguyên nhân do dịch bệnh trên cây dâu và tằm, đồng thời giá kén
xuống thấp, sản xuất dâu tằm tơ chịu thiệt hại lớn, thu nhập của người trồng
dâu nuôi tằm sa sút, nhiều hộ nông dân đã phá bỏ diện tích dâu đã trồng. Năm
2007, diện tích dâu toàn tỉnh còn 528 ha, năng suất 270 tạ/ha, sản lượng lá dâu
14,25 ngàn tấn, sản lượng kén tằm 431,3 tấn.
Thời gian tới, đối với vùng đất bãi ven sông khó nước, dâu tằm vẫn là
cây trồng có hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, để phát triển bền vững, cần tập trung
tháo gỡ những tồn tại trong trồng dâu, nuôi tằm hiện nay bằng cách tăng
cường công tác chuyển giao tiến bộ kỹ thuật sản xuất; Đưa các giống dâu mới
chất lượng tốt trồng thay thế các giống dâu cũ để tăng năng suất và chất lượng

lá dâu; Tổ chức tốt dịch vụ đầu ra, khuyến khích xây dựng các cơ sở ươm tơ,
thực hiện hợp đồng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; Tăng cường đầu tư chiều
sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm.
2.4.1.2.Kết quả ngành chăn nuôi
Những năm gần đây, chăn nuôi trên địa bàn tỉnh phát triển khá mạnh cả
về số lượng và chất lượng, đây là một trong những hướng mũi nhọn mà tỉnh
Vĩnh Phúc đã xác định phát triển nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông
nghiệp. Từ năm 2003 đến năm 2007, tỉnh đã triển khai nhiều dự án về cải tạo
và phát triển đàn lợn, bò thịt và bò sữa, thực hiện hỗ trợ giá giống lợn ngoại,
hỗ trợ 100% chi phí thụ tinh nhân tạo bò thịt, bò sữa, hỗ trợ lãi suất cho nông
dân mua bò sữa, Kết quả giai đoạn 2003-2007, giá trị sản xuất ngành chăn
nuôi tăng bình quân 14%/năm. Số lượng gia súc, gia cầm tăng khá, đàn lợn
tăng bình quân 3,4%/năm, đàn gia cầm tăng 6,3%/năm, đàn bò tăng 9%/năm,
trong đó tỷ lệ bò lai tăng từ 28,2% năm 2002 lên 61,4% năm 2007. Riêng đàn
trâu giảm 4,4%/năm do việc áp dụng cơ giới hoá trong khâu làm đất tăng lên,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
61
nhu cầu về sức kéo giảm. Tỷ trọng chăn nuôi trong cơ cấu nội bộ ngành ngày
càng tăng, năm 2002 chiếm 28,9% trong cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông
nghiệp; năm 2007 tăng lên 45,1%. Nhiều tiến bộ kỹ thuật mới về giống, thức
ăn, thú y và các phương thức chăn nuôi mới được ứng dụng vào sản xuất.
Chất lượng đàn gia súc, gia cầm đã được nâng lên; Nhiều giống gia súc, gia
cầm mới có năng suất, chất lượng cao được đưa vào sản xuất trên địa bàn
tỉnh. Đã hình thành nhiều trang trại chăn nuôi bò sữa, bò thịt, lợn hướng nạc,
gia cầm, thuỷ cầm…với qui mô khá lớn; Phương thức nuôi công nghiệp và
bán công nghiệp đang được mở rộng, vừa giải quyết việc làm cho lao động
nông nghiệp vừa đem lại hiệu quả cao cho người sản xuất. Theo kết quả điều
tra nông nghiệp nông thôn năm 2006, toàn tỉnh có 245 trang trại chăn nuôi,
trong đó có 200 trang trại nuôi lợn, 4 trang trại chăn nuôi bò thịt, bò sữa với

quy mô từ 20 – 40 con, 41 trang trại chăn nuôi gia cầm có quy mô trên 1000
con. Hiệu quả chăn nuôi theo hình thức này bước đầu đạt khá, đã tạo được
khối lượng hàng hoá lớn, tập trung, hiện đang được hộ nông dân quan tâm
đầu tư mở rộng sản xuất gắn với áp dụng kỹ thuật - công nghệ tiên tiến như
chuồng lồng, hệ thống làm mát, xây dựng bể Biogas vừa tạo khí đốt, vừa làm
sạch môi trường. Kết quả cụ thể như sau:
a - Chăn nuôi lợn
Chăn nuôi lợn là thế mạnh truyền thống của Vĩnh Phúc. Từ năm 2002,
trên địa bàn tỉnh đã triển khai một số dự án cải tạo giống và phát triển chăn
nuôi lợn hướng nạc, sản xuất giống và chăn nuôi lợn ngoại bước đầu thu được
kết quả tốt, đã xuất hiện nhiều mô hình chăn nuôi công nghiệp với quy mô
hàng trăm nái có thu nhập cao. Tổng đàn lợn năm 2007 đã đạt 551,6 ngàn con
(tăng 18,1% so với năm 2002). Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng tăng mạnh,
giai đoạn 2003 – 2007 có tốc độ tăng bình quân 15,9%/năm; năm 2007 đạt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
62
61,8 ngàn tấn, gấp 2,1 lần so với năm 2002. Mỗi năm Vĩnh Phúc đã cung cấp
từ 30-35 ngàn tấn thịt lợn hơi cho các thị trường lân cận[2],[3].

Bảng 2.12: KẾT QUẢ NGÀNH CHĂN NUÔI TỈNH VĨNH PHÚC
GIAI ĐOẠN (2003-2007)
STT

Chỉ tiêu

Đơn vị
tính
Năm
2003

Năm
2005
Năm
2007
Tốc độ tăng
bình quân
2003-2007
(%)
I
Số lƣợng gia súc, gia
cầm





1
Tổng đàn trâu
Ngàn con
33,23
31,618
26,708
-4,37
2
Tổng đàn bò
"
121,4
149,6
166,206
8,96


trong đó : bò lai
"
34,27
80,1
102,126
30,17

Tỷ lệ
%
28,2%
53,5%
61,4%
19,46

+ Bò sữa

908
994
718
3,15
3
Tổng đàn lợn
ngàn con
496,2
549
551,57
3,39
4
Tổng đàn gia cầm

"
6028,8
5178,3
7106,7
6,32
II
Sản phẩm chăn nuôi
chủ yếu:
Tấn
55498,3
69226,4
81621,1
16,03
1
Thịt trâu hơi
"
687
791
1079,4
10,82
2
Thịt bò hơi
"
1370
2242
4210
27,25
3
Thịt lợn hơi
"

42290
52900,5
61808
15,92
4
Thịt gia cầm
"
11151
13292
14523,7
14,52

Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc
b - Chăn nuôi trâu, bò
Những năm gần đây, đàn trâu trên địa bàn tỉnh có xu hướng giảm dần
do tỷ lệ cơ giới hoá trong khâu làm đất tăng, nhu cầu sức kéo giảm và hiệu
quả chăn nuôi trâu không cao. Năm 2007 toàn tỉnh có 26,7 ngàn con trâu,
giảm 20% so năm 2002; trong đó, trâu trưởng thành chiếm 70,6% tổng đàn,
trọng lượng bình quân đạt 250 kg/con, sản lượng thịt trâu xuất chuồng năm
2007 đạt 1.079 tấn, tăng bình quân 10,8%/năm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
63
Đàn bò: được xác định là một trong các con vật nuôi chủ lực trong quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đàn bò đã phát triển mạnh ở
hầu hết các huyện, thành, thị trong tỉnh. Giai đoạn 2003–2007, tổng đàn bò
tăng bình quân 9%/năm, năm 2007 đạt 166,2 ngàn con, tăng 53,6% (=58 ngàn
con) so với năm 2002; Sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng tăng 27,25%/năm,
năm 2007 đạt 4,21 ngàn tấn, tăng 3,3 lần so năm 2002. Thời gian qua, cùng
với việc gia tăng về số lượng, chất lượng đàn không ngừng được nâng cao về

tầm vóc và thể trọng. Việc sử dụng các giống bò đực ngoại phối cho đàn bò
cái địa phương đã tạo đàn lai có năng suất, chất lượng cao và có nhiều đặc
tính tốt, phù hợp với điều kiện chăn nuôi của tỉnh. Năm 2002, đàn bò lai theo
hướng Zebu của tỉnh mới chỉ chiếm 25,3% tổng đàn, năm 2007 đã tăng lên
61,4% tổng đàn. Chăn nuôi bò lai trong giai đoạn này đã đem lại hiệu quả cao
cho các hộ nông dân, góp phần xoá đói giảm nghèo, thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trong nông nghiệp.
Đối với bò sữa, đây là một đối tượng nuôi mới ở Vĩnh Phúc, bước đầu
cho hiệu quả kinh tế khá cao. Chăn nuôi bò sữa chủ yếu tập trung ở huyện Vĩnh
Tường, Lập Thạch, Vĩnh Yên và Yên Lạc. Năm 2004, đàn bò sữa của tỉnh đạt
mức cao nhất là 1.157 con, sản lượng sữa đạt trên 1,5 ngàn tấn, tuy nhiên do
giá thu mua sữa thấp (chỉ 3,5 ngàn đồng/kg) nên năm 2006 -2007 đàn bò sữa
trên địa bàn giảm dần, năm 2007 còn 718 con, trong đó bò cái sữa trên 600 con.
Từ cuối năm 2007 đến nay, do giá thu mua sữa tăng lên (trên 6,0 ngàn
đồng/kg) nên đàn bò sữa có xu hướng tăng lên, đến 1/4/2008 đạt 1.006 con.
c - Chăn nuôi gia cầm
Chăn nuôi gia cầm của tỉnh nhìn chung phát triển khá. Thời gian qua,
nhiều giống gia cầm mới cho năng suất và chất lượng cao, phù hợp với điều
kiện chăn thả đã được nuôi thích nghi, chọn lọc, khảo nghiệm đưa vào sản xuất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
64
như vịt SuperM, CV2000, ngan Pháp, vịt trứng Triết Giang; các giống gà thả
vườn như Tam Hoàng, Lương Phượng, Kabir Năm 2003 tổng đàn gia cầm
đạt trên 6 triệu con. Năm 2004, do ảnh hưởng của dịch cúm, chăn nuôi gia cầm
của tỉnh chịu thiệt hại lớn, số bị chết và tiêu huỷ 1,66 triệu con. Nhờ thực hiện
tốt các biện pháp phòng chống và khắc phục nên đến năm 2007 tổng đàn đạt
7,1 triệu con. Đàn gia cầm giống cấp ông bà, bố mẹ có khoảng trên 100 ngàn
con đảm bảo cho việc sản xuất, cung ứng giống cho hộ chăn nuôi.
2.4.1.3. Dịch vụ nông nghiệp

Cùng với sự phát triển các lĩnh vực sản xuất, hoạt động dịch vụ cũng
có sự tăng trưởng khá. Giai đoạn 2003 – 2007, giá trị sản xuất dịch vụ nông
nghiệp tăng bình quân 7,3%/năm; Kết quả một số hoạt động dịch vụ cụ thể
như sau:
- Dịch vụ làm đất: Do tình trạng ruộng đất manh mún còn phổ biến nên
việc áp dụng cơ giới hoá trong khâu làm đất còn rất thấp. Năm 2007, mới chỉ
có 48,7 ngàn ha gieo trồng được thực hiện dịch vụ làm đất, chiếm 43,4% tổng
diện tích gieo trồng, còn 62,3 ngàn ha gieo trồng vẫn được bà con nông dân tự
làm. Giá trị sản xuất của dịch vụ làm đất mới chỉ chiếm 23% trong giá trị sản
xuất ngành dịch vụ sản xuất nông nghiệp [4].
- Sản xuất, kinh doanh giống cây trồng, vật nuôi được thực hiện tốt
trong thời gian qua. Các đơn vị được giao đã cung ứng đủ giống tốt phục vụ
sản xuất. Công tác quản lý nhà nước về giống cây trồng, vật nuôi được tăng
cường nên chất lượng các loại giống cây, con trên địa bàn tỉnh được đảm bảo.
- Dịch vụ tiêu thụ nông sản hàng hoá: Do hoạt động của HTX dịch vụ
nông nghiệp còn yếu, vốn ít, mới chỉ thực hiện được một số khâu dịch vụ như
thuỷ lợi, điện, bảo vệ sản xuất… chưa tổ chức được dịch vụ tiêu thụ sản phẩm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
65
cho nông dân, nên việc tiêu thụ nông sản hàng hoá trên địa bàn tỉnh chủ yếu
thông qua các doanh nghiệp, hộ kinh doanh trong tỉnh.
- Công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư trên địa bàn luôn được
các cấp, các ngành chú trọng, coi đây là lĩnh vực quan trọng thúc đẩy sản xuất
phát triển. Toàn bộ các xã trên địa bàn tỉnh đều thành lập các tổ khuyến nông
cơ sở, mỗi tổ 3 người, phụ cấp do ngân sách tỉnh chi trả (200 ngàn
đồng/người/tháng). Hoạt động của khuyến nông cơ sở những năm qua đã đi
vào nề nếp và hoạt động có hiệu quả, góp phần tích cực trong thực hiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển nông nghiệp - nông thôn. Tuy nhiên,
trong quá trình hoạt động, khuyến nông cơ sở đã bộc lộ một số khó khăn như:

khối lượng công việc quá nhiều, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động
quá thiếu, mức phụ cấp không còn phù hợp đã ảnh hưởng nhất định đến hiệu
quả của hoạt động khuyến nông.
- Công tác bảo vệ thực vật được duy trì thường xuyên, kịp thời, nhất là
công tác dự tính dự báo, hướng dẫn phòng trừ sâu bệnh, chuột hại, mở rộng
áp dụng biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) … nên tỷ lệ thiệt hại do
sâu bệnh, chuột hàng năm đều ở mức thấp dưới 1%, thấp nhất trong các tỉnh
miền bắc hiện nay.
- Công tác thú y: Trong thời gian qua, công tác thú y luôn được các
cấp, các ngành, hộ nông dân quan tâm, nhất là công tác tiêm phòng, vệ sinh
thú y, kiểm dịch, kiểm soát vận chuyển và giết mổ gia súc, gia cầm. Việc xây
dựng vùng an toàn dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm bước đầu đã có hiệu
quả. Nhìn chung, công tác thú y trong những năm vừa qua được thực hiện khá
tốt, do vậy không có dịch bệnh lớn xảy ra, chỉ xuất hiện cục bộ ở một số thôn,
xã và đã được dập tắt kịp thời.
Đánh giá chung: Sản xuất nông nghiệp của Vĩnh Phúc những năm gần
đây đã đạt được những kết quả quan trọng và đang dần từng bước chuyển sang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
66
sản xuất hàng hoá; tỷ trọng chăn nuôi tăng nhanh so với bình quân chung cả
nước. Nhiều giống cây trồng, vật nuôi mới có năng suất cao, chất lượng tốt
được đưa vào sản xuất. Bước đầu hình thành vùng sản xuất hàng hoá tập trung;
nhiều mô hình sản xuất có hiệu quả. Năng suất, sản lượng các loại cây trồng,
vật nuôi không ngừng tăng, góp phần nâng cao thu nhập trên một đơn vị diện
tích đất canh tác.
Tuy nhiên, nông nghiệp Vĩnh Phúc chưa thực sự phát triển theo chiều
sâu, chưa có sản phẩm chủ lực; khối lượng sản phẩm còn ít; sản phẩm chưa có
thương hiệu riêng, chất lượng và sức cạnh tranh không cao. Ruộng đất manh
mún, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, đó là những hạn chế lớn cần khắc phục trong

quá trình phát triển nông nghiệp những năm tới.
2.4.2. Kết quả sản xuất ngành lâm nghiệp
Sản xuất lâm nghiệp trong những năm gần đây có xu hướng giảm sút,
bình quân giai đoạn 2003–2007 giá trị sản xuất giảm 2,9%/năm, trong đó
giảm mạnh nhất là giá trị sản xuất trồng và nuôi rừng (-7,1%/năm), khai thác
gỗ và lâm sản giảm 4,4%/năm. Năm 2007, giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt
37,4 tỷ đồng, trong đó, trồng và nuôi rừng 4,13 tỷ đồng, khai thác lâm sản
26,27đồng, dịch vụ lâm nghiệp 7 tỷ đồng. Tỷ trọng lâm nghiệp trong cơ cấu
giá trị sản xuất ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản giảm từ 2,2% năm 2002
xuống còn 1% năm 2007(giá thực tế)[3].
Nguyên nhân do những năm trước đây, công tác trồng và nuôi trừng
được Nhà nước đầu tư qua chương trình 327 và chương trình 5 triệu ha rừng,
diện tích trồng mới và chăm sóc, bảo vệ rừng đạt kết quả khá. Đến nay, diện
tích đất lâm nghiệp chưa có rừng do tỉnh quản lý chỉ còn 2.216 ha ở những
nơi không thuận lợi, do vậy, việc trồng mới rừng gần đây giảm.

×