Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Thuốc trị rối loạn lipid máu ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.46 KB, 7 trang )

Thuốc trị rối loạn lipid máu


Các loại apoprotein và lipoprotein đều có thể định lượng được
trong máu. Tuy nhiên, trong thực hành lâm sàng, chỉ có 4 thành phần
thường xuyên được định lượng và đánh giá trong chẩn đoán và điều trị:
cholesterol toàn phần (CT), triglycerid, HDL và LDL. Khi có rối loạn 1
trong 4 thành phần nói trên, hoặc kết hợp nhiều loại thì được gọi là rối
loạn lipid máu.
Các chất lipid không hòa tan được trong nước, chỉ hòa tan trong các
dung môi hữu cơ. Vì lipid không tan được trong nước nên khi vận chuyển
trong máu nó phải kết hợp với một loại protein (gọi là apoprotein) mang tên
lipoprotein. Bằng điện di và siêu ly tâm, người ta đã tách lipoprotein ra
nhiều thành phần:
- VLDL (very low density lipoprotein) là lipoprotein có tỷ trọng rất
thấp chủ yếu do gan, một phần nhỏ do ruột tổng hợp, mang nhiều triglycerid
nội sinh.
- IDL (intermediary density lipoprotein) là lipoprotein có tỷ trọng
trung gian là các chất dư còn lại (remnant) sau chuyển hóa VLDL.
- LDL (low density lipoprotein) là lipoprotein có tỷ trọng thấp, do
chuyển hóa từ VLDL và IDL, có nhiệm vụ vận chuyển cholesterol đến các
tổ chức. LDL là thành phần có liên quan trực tiếp đến cơ chế hình thành
mảng vữa xơ động mạch (mà người ta vẫn thường gọi là “chất mỡ có hại”).
- HDL (high density lipoprotein) là lipoprotein có tỷ trọng cao, có
nhiệm vụ vận chuyển cholesterol dư thừa từ các tổ chức về gan. Người ta
vẫn gọi đây là “chất dọn dẹp vữa xơ động mạch”, hay “chất mỡ có ích”.
Điều trị
Điều trị nguyên nhân: chứng rối loạn lipid máu có thể là nguyên phát
hay thứ phát. Đối với thể thứ phát, phải điều trị bệnh chính gây nên chứng
đó (ví dụ bệnh đái tháo đường, cường giáp ) hoặc phải ngừng một số thuốc
gây rối loạn lipid máu như hypothiazid, cyclosporin


Mục tiêu điều trị chứng tăng lipid máu là đưa các thông số lipid về
giới hạn bình thường hoặc gần bình thường: Việc chọn mục tiêu điều trị
thích hợp phải dựa vào việc phát hiện và đánh giá tính chất của các yếu tố
nguy cơ trên bệnh nhân như tiền sử suy mạch vành, nhồi máu cơ tim, tai
biến mạch máu não, tăng huyết áp, đái tháo đường, tăng fibrinogen máu, hút
thuốc lá, tình trạng béo (chỉ số khối lượng cơ thể [BMI] >25), tuổi >50
Các biện pháp can thiệp vào chứng rối loạn lipid máu:
- Biện pháp đầu tiên là điều chỉnh chế độ ăn trong thời gian từ 2-3
tháng. Không quá vội vã dùng ngay thuốc. Trong nhiều trường hợp, chỉ bằng
chế độ ăn hợp lý nhất là với các rối loạn ở mức độ nhẹ và vừa, kết hợp với
giảm cân (nếu béo) thì các trị số CT, TG, LDL-C đều giảm rõ rệt.
- Chỉ khi chế độ ăn không đủ hiệu lực thì mới dùng thuốc. Trong khi
dùng thuốc, vẫn phải duy trì chế độ ăn bệnh lý, định kỳ phải xét nghiệm lại
các thông số.
- Tăng cường hoạt động thể lực: thể dục vừa sức, đi bộ. Hoạt động thể
lực làm tăng HDL-C, phải tập ít nhất 40 phút mỗi ngày, tập đều hằng ngày
hoặc ít nhất 3 lần mỗi tuần, nếu ngừng tập thì những kết quả tốt sẽ mất ngay.
Một số thuốc điều trị chủ yếu
Nhiều thuốc đã được dùng trong điều trị chứng rối loạn lipid máu và
đã được khẳng định tính hiệu lực qua các công trình nghiên cứu, ví dụ như:
- Acid nicotinic (dilexpal, novacyl): có tác dụng làm giảm VLDL,
giảm TG do ức chế quá trình tiêu lipid ở tổ chức mỡ, làm giảm lượng acid
béo cần thiết cho gan tổng hợp VLDL, làm tăng chuyển hóa VLDL qua đó
giảm LDL. Thuốc còn làm giảm lipoprotein (a), làm tăng nhẹ HDL.
+ Tác dụng phụ: dễ gây rối loạn tiêu hóa, nóng rát dạ dày, buồn nôn,
chán ăn, bừng nóng mặt, đỏ da, nhịp tim nhanh, có thể làm tăng men gan.
+ Không dùng cho bệnh nhân đái tháo đường, suy gan, suy thận, tăng
nhãn áp, loét dạ dày tá tràng đang tiến triển.
+ Liều thường dùng dilexpal 1,5 - 3g/ngày, bắt đầu từ liều thấp rồi
tăng từ từ để tránh tác dụng phụ.

- Các acid béo không no omega-3 (Maxepa).
+ Các acid béo không no họ omega-3 được chiết xuất từ cá biển, có
tác dụng làm giảm TG và VLDL máu là chính, giảm nhẹ CT, LDL, tăng nhẹ
HDL (tuy hiệu lực chưa bằng fibrat), còn làm giảm nguy cơ huyết khối do
tác động đến chuyển hóa của prostaglandin.
+ Thuốc ít có tác dụng phụ.
- Các thuốc họ fibrat: clofibrat (miscleron, lipavlon), bezafibrat
(bezalip), fenofibrat (lipanthyl), gemfibrozil (lopid)
+ Các thuốc nhóm này làm giảm dòng acid béo về gan, làm giảm tổng
hợp VLDL, làm tăng độ thanh thải VLDL, giảm hình thành LDL nhỏ và đặc
dễ gây vữa xơ động mạch, giảm ôxy hóa LDL: kết quả là giảm cả TG và CT
(giảm TG nhiều hơn), giảm VLDL và LDL, tăng HDL.
+ Tác dụng phụ: đầy bụng, buồn nôn, tiêu chảy, mẩn ngứa, có thể có
tăng men gan, yếu cơ Đáng lưu ý là sỏi mật, gặp với clofibrat nhiều hơn
các fibrat khác.
+ Chống chỉ định: suy gan, suy thận, bệnh lý túi mật.
Không dùng cho phụ nữ có thai, cho con bú.
- Các statin: đây là nhóm thuốc hiện nay được dùng phổ biến nhất
trong điều trị rối loạn lipid máu. Rất nhiều các nghiên cứu đã chứng minh
tác dụng của các loại statin trong dự phòng tiên phát và thứ phát các biến
chứng của bệnh VXĐM (bệnh mạch vành và tai biến mạch máu não). Các
thuốc được sử dụng phổ biến là fluvastatin (lescol), atovastatin (lipitor),
pravastatin (elisor), simvastatin (zocor) và rosuvastatin (biệt dược crestor).
Nhiều nghiên cứu gần đây về các statin cho thấy, ngay cả ở những người
không có rối loạn lipid máu, có các yếu tố nguy cơ tim mạch, dùng statin
vẫn có tác dụng dự phòng các tai biến tim mạch. Trong số các statin, thuốc
rosuvastatin còn được chứng minh là có tác dụng làm giảm kích thước của
mảng vữa xơ động mạch.
+ Các statin ức chế men HMGCoA reductase làm cản trở quá trình nội
sinh CT trong tế bào, làm tăng tổng hợp các cảm thụ cho LDL để tăng thoái

giáng LDL theo con đường các cảm thụ. Các statin làm giảm CT là chính,
làm giảm nhẹ TG và tăng nhẹ HDL.
+ Tác dụng phụ: rối loạn tiêu hóa, đau đầu, nổi mẩn, đôi khi tăng các
men gan, yếu cơ, tăng CPK.
+ Chống chỉ định: suy gan, suy thận.
Không dùng cho phụ nữ có thai, cho con bú. Giảm liều khi dùng cùng
với các chất kháng vitamin K (trừ với pravastatin).
+ Liều dùng: simvastatin và pravastatin 5-30 mg/ngày, atovastatin 10-
80 mg/ngày, crestor 10 mg/ngày – ít phải điều chỉnh liều
- Một số thuốc từ nguồn dược liệu trong nước đã được một số tác giả
nghiên cứu và đã hoặc mới được dùng trên lâm sàng như: nghệ curcuma
longa (cholestan); ngưu tất (didentin); các acid béo không no chiết xuất từ
dầu đậu nành và dầu mầm hạt ngô. Chế phẩm từ dầu đậu nành mang tên
hypochol có hiệu lực tương tự như maxepa - là các acid béo không no chiết
xuất từ cá biển.
Các nghiên cứu với các dược liệu trên cho thấy các thuốc đều có hiệu
lực thấp hơn so với fibrat và statin, chỉ định khi có rối loạn lipid nhẹ và vừa.

×