Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.51 KB, 22 trang )

Tiểu luận tốt nghiệp TCLLCT-HC Trang 1/22
CHƯƠNG 1
TỔ CHỨC CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH, HUYỆN, XÃ
Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, Hội đồng nhân dân là cơ
quan có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo hiệu lực, hiệu quả hoạt động
quản lý nhà nước, trật tự pháp luật, pháp chế và quyền làm chủ của nhân dân ở địa
phương cơ sở.
I. TỔ CHỨC CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH
Tại Điều 5 của Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
(HĐND và UBND) năm 2003 quy định “HĐND các cấp có Thường trực HĐND.
HĐND cấp tỉnh, cấp huyện có các Ban của HĐND” và tại các Điều 52, Điều 54
quy định “Thường trực HĐND do HĐND cùng cấp bầu ra”, “HĐND cấp tỉnh lập
ra 3 Ban; Ban Kinh tế và Ngân sách, Ban Văn hoá - Xã hội, Ban Pháp chế; nơi nào
có nhiều dân tộc thì có thể thành lập Ban Dân tộc”.
Như vậy, theo quy định trên thì HĐND cấp tỉnh có Thường trực HĐND và
các Ban của HĐND.
Khi so sánh quy định tại Điều 5 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm
2003 với quy định tại Điều 5 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1994 thì
chúng ta thấy rằng tổ chức của HĐND cấp tỉnh không có sự thay đổi.
*Mô hình cơ cấu tổ chức của hội đồng nhân dân cấp tỉnh xem Phụ lục 1
1. Cơ cấu, tổ chức của Thường trực HĐND cấp tỉnh
Theo quy định hiện hành thì Thường trực HĐND cấp tỉnh gồm có Chủ tịch,
Phó Chủ tịch và Ủy viên Thường trực (Điều 52 của Luật Tổ chức HĐND và
UBND năm 2003). Các chức danh này do HĐND cùng cấp bầu ra trong số đại biểu
HĐND theo sự giới thiệu của Chủ tịch HĐND khoá trước.
Các thành viên của Thường trực HĐND cấp tỉnh không thể đồng thời là
thành viên của Uỷ ban nhân dân cùng cấp.
Chủ tịch HĐND có thể làm nhiệm vụ kiêm nhiệm, Phó Chủ tịch HĐND và
Ủy viên Thường trực phải làm việc chuyên trách (điểm 5 Điều 18 Quy chế Hoạt
động của HĐND năm 2005).
Khi nghiên cứu các quy định trước khi Luật Tổ chức HĐND và UBND năm


2003 ra đời, chúng ta thấy rằng khái niệm Thường trực HĐND chỉ ra đời từ năm
1989 (ghi nhận lần đầu tiện tại Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1989). Đây là
một sự thay đổi rất cơ bản về tổ chức của HĐND so với trước đó nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của HĐND.
Ngoài ra, cũng cần nói thêm rằng, trước khi Luật Tổ chức HĐND và UBND
năm 2003 có hiệu lực, Thường trực HĐND cấp tỉnh cũng chỉ có 02 chức danh Chủ
tịch và Phó Chủ tịch HĐND nhưng Chủ tịch thường là kiêm chức danh Bí thư hoặc
Phó Bí thư thường trực của Cấp ủy. Do vậy, hoạt động của Thường trực HĐND
Đề tài: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã thực trạng và giải pháp
Tiểu luận tốt nghiệp TCLLCT-HC Trang 2/22
không đảm bảo tính tập thể trong hoạt động. Từ chính thực tế này, Luật Tổ chức
HĐND và UBND năm 2003 đã quy định thêm chức danh Ủy viên thường trực
HĐND để đảm bảo có 02 người hoạt động chuyên trách (Xem bảng tóm lược các
điểm mới của Thường trực HĐND tỉnh theo Luật Tổ chức HĐND và UBND năm
2003 so với các quy định trước đó).
Tiêu chí
so sánh
Các luật trước
Luật Tổ chức
HĐND và UBND
năm 1989 (luật
1962, 1983)
Cơ cấu tổ chức
của HĐND cấp xã
theo Luật Tổ chức
HĐND và UBND
năm 1989
Cơ cấu tổ chức của
HĐND cấp xã theo
Luật Tổ chức

HĐND và UBND
năm 1994
Cơ cấu tổ chức của
HĐND cấp xã theo
Luật Tổ chức HĐND
và UBND năm 2003
Về tổ
chức
Không tổ chức ra
Thường trực
HĐND cấp tỉnh
Tổ chức ra Thường
trực HĐND cấp
tỉnh
Tổ chức Thường
trực HĐND cấp
tỉnh
Tổ chức Thường trực
HĐND cấp tỉnh
Về cơ
cấu
Không có các chức
danh:
- Chủ tịch HĐND
- Phó Chủ tịch
HĐND
(kỳ họp do UBND
cùng cấp triệu tập)
Thường trực
HĐND gồm:

- Chủ tịch HĐND
- Phó Chủ tịch
HĐND
- Thư ký HĐND
Các chức danh trên
làm việc kiêm
nhiệm
- Cơ cấu gồm Chủ
tịch và Phó Chủ tịch
HĐND
- Chủ tịch, Phó Chủ
tịch làm việc kiêm
nhiệm
- Cơ cấu gồm Chủ tịch,
Phó Chủ tịch HĐND và
Ủy viên thường trực
- Chủ tịch làm việc kiêm
nhiệm, Phó Chủ tịch và
Ủy viên thường trực làm
việc chuyên trách
Quy
định
Xem thêm Luật Tổ
chức HĐND và
UBND năm 1962,
1983
Tại 24 Luật Tổ
chức HĐND và
UBND năm 1989
Tại Điều 35 của

Luật Tổ chức
HĐND và UBND
năm 1994
Tại Điều 5, Điều 52 của
Luật Tổ chức HĐND và
UBND năm 2003
2. Cơ cấu, tổ chức của các Ban của HĐND cấp tỉnh
Theo quy định hiện nay thì HĐND cấp tỉnh có các Ban như sau: Ban Pháp
chế, Ban Kinh tế - Ngân sách, Ban Văn hoá - Xã hội. Ngoài ra, tuỳ theo đặc thù
của từng địa phương mà thành lập thêm Ban Dân tộc (đối với tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương có nhiều dân tộc).
Ví dụ: Căn cứ vào đặc thù của tỉnh Ninh Thuận có nhiều dân tộc, HĐND
tỉnh Ninh Thuận lập 4 Ban gồm: Ban Kinh tế và Ngân sách, Ban Văn hoá - Xã hội,
Ban Pháp chế, Ban Dân tộc (theo quy định tại Điều 54).
Về cơ cấu tổ chức của các Ban của HĐND cấp tỉnh:
Theo quy định của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì số lượng
thành viên của các Ban của HĐND cấp tỉnh sẽ do HĐND cùng cấp quyết định.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu các quy định của Quy chế Hoạt động của HĐND năm
2005 thì chúng ta có thể thấy rằng mỗi Ban sẽ gồm Trưởng ban, Phó Trưởng ban,
các thành viên khác và bộ phận giúp việc cho Ban. Trong đó Trưởng ban hoặc Phó
Đề tài: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã thực trạng và giải pháp
Tiểu luận tốt nghiệp TCLLCT-HC Trang 3/22
Trưởng ban phải làm việc chuyên trách, người còn lại có thể làm việc kiêm nhiệm.
HĐND cùng cấp sẽ quy định thời gian mà Trưởng Ban hoặc Phó Trưởng Ban làm
việc kiêm nhiệm phải dành cho hoạt động của Ban (Điều 26 của Quy chế Hoạt
động của HĐND năm 2005).
Các thành viên của các ban của HĐND cấp tỉnh không thể đồng thời là
thành viên của UBND cùng cấp; Trưởng các Ban không thể đồng thời là thủ
trưởng các cơ quan chuyên môn của UBND cùng cấp, Chánh án Toà án nhân dân,
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp (Điều 54).

Các Ban của HĐND đã được quy định từ rất sớm (Điều 28 Luật Tổ chức
HĐND và UBND năm 1962; Điều 27 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm
1983; Điều 27 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1989). Tuy nhiên, đây chỉ
là những quy định mang tính tuy nghi, việc thành lập tuỳ thuộc vào yêu cầu thực tế
của từng cấp, từng địa phương và không mang tính bắt buộc, không quy định cụ
thể số Ban. Đồng thời các Luật Tổ chức HĐND và UBND trước Luật Tổ chức
HĐND và UBND năm 2003 không quy định cụ thể về việc thành lập các Ban (số
Ban, tên gọi, số lượng thành viên các Ban) nên mỗi nơi thành lập mỗi kiểu và gây
khó khăn cho công tác hướng dẫn hoạt động của các Ban dẫn đến hiệu quả hoạt
động không cao. Ngoài ra, các Ban cũng không có người hoạt động chuyên trách
mà đều là kiêm nhiệm (các Ban gồm: Trưởng ban, Phó trưởng ban và các thành
viên khác). Đến Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1994 thì nhà làm luật đã quy
định cụ thể về số ban của HĐND từng cấp (cấp tỉnh: 03 Ban; cấp huyện: 02 Ban)
và Trưởng ban của HĐND tỉnh có thể làm việc chuyên trách. Chính vì vậy, việc
Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định mang tính bắt buộc Trưởng
Ban hoặc Phó trưởng Ban phải hoạt động chuyên trách nhằm từng bước chuyển
một bộ phận hoạt động kiêm nhiệm sang chế độ chuyên trách để tập trung thời
gian chuyên môn cho Ban. Qua đó, nâng cao hiệu quả hoạt động của các Ban
(Điều 26 của Quy chế Hoạt động của Hội đồng nhân dân năm 2005).
Bên cạnh các Ban chuyên môn, HĐND cấp tỉnh còn thành lập các Ban lâm thời
để thực hiện 1 công việc nhất định và tự giải tán khi công việc đã hoàn thành. Ví dụ:
Ban Kiểm tra tư cách đại biểu HĐND được bầu ra tại kỳ họp đầu tiên của mỗi khoá
để kiểm tra kết quả bầu cử đại biểu HĐND và các vấn đề khác có liên quan.
3. Các Tổ đại biểu HĐND cấp tỉnh
Các tổ đại biểu HĐND cấp tỉnh được thành lập ở các địa phương để phối
hợp công tác giữa 2 kỳ họp HĐND. Thường trực HĐND giữ vai trò điều hoà, phối
hợp hoạt động của các Tổ đại biểu HĐND. Ví du: Tổ đại biểu HĐND tỉnh ứng cử
tại huyện huyện Ninh Hải, huyện Ninh Phước…
II. TỔ CHỨC CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
Theo quy định tại Điều 5, Điều 54 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm

2003 thì HĐND cấp huyện có Thường trực HĐND và 02 Ban: Ban Kinh tế - xã hội
và Ban Pháp chế.
Đề tài: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã thực trạng và giải pháp
Tiểu luận tốt nghiệp TCLLCT-HC Trang 4/22
Khi so sánh đối chiếu quy định tại Điều 5 của Luật Tổ chức HĐND và
UBND năm 2003 và quy định tại Điều 5 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm
1994 thì chúng ta thấy rằng tổ chức của HĐND cấp huyện không thay đổi.
Cũng giống như quy định đối với các thành viên Thường trực HĐND cấp
tỉnh, Trưởng các ban của HĐND cấp tỉnh, các thành viên của Thường trực HĐND
cấp huyện không thể đồng thời là thành viên của UBND cùng cấp; Trưởng các Ban
không thể đồng thời là thủ trưởng các cơ quan chuyên môn của UBND, Chánh án
Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp (Điều 52, Điều 54
của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003).
Về tổ chức HĐND cấp huyện, theo Hiến pháp năm 1959 không quy định về
tổ chức HĐND cấp huyện nhưng kể từ Hiến pháp 1980 đến Hiến pháp 1992 đã quy
định về việc tổ chức HĐND ở tất cả các cấp (tỉnh, huyện, xã).
*Mô hình cơ cấu tổ chức của hội đồng nhân dân cấp huyện xem Phụ lục 2
1. Cơ cấu, tổ chức của Thường trực HĐND cấp huyện
Căn cứ vào các quy định hiện hành, có thể thấy rằng, Thường trực HĐND
cấp huyện gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Ủy viên thường trực. Trong đó, Chủ tịch
có thể làm việc kiêm nhiệm, Phó Chủ tịch, Ủy viên Thường trực làm nhiệm vụ
chuyên trách (điểm 5 Điều 18 của Quy chế hoạt động của HĐND năm 2005).
Cũng giống như ở cấp tỉnh, các chức danh trên được HĐND cấp huyện bầu
ra tại kỳ họp đầu tiên của mỗi khoá trong số đại biểu HĐND cấp huyện theo sự
giới thiệu của Chủ tịch HĐND khoá trước.
Khái niệm Thường trực HĐND chỉ tồn tại từ năm 1989 đến nay. Trước đó,
(Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1962, 1983), HĐND huyện không có
Thường trực HĐND nên trong thời gian giữa 2 kỳ họp Uỷ ban nhân dân cùng cấp
sẽ làm thay vai trò của cơ quan Thường trực của HĐND. Do vậy, vị trí của HĐND
ở địa phương bị lu mờ. Mặc dù vậy, từ năm 1989 đến trước khi có Luật Tổ chức

HĐND và UBND năm 2003, Thường trực HĐND cấp huyện cũng chỉ có 2 chức
danh là Chủ tịch và Phó Chủ tịch nhưng Chủ tịch thường kiêm chức danh Bí thư
hoặc Phó Bí thư thường trực của cấp ủy nên hoạt động của Thường trực HĐND
không đảm bảo việc lãnh đạo của tập thể. Để khắc phục hạn chế này, Luật Tổ chức
HĐND và UBND năm 2003 đã quy định bổ sung chức danh Ủy viên Thường trực
HĐND cấp huyện
Xem bảng tóm lược các điểm mới của Thường trực HĐND huyện theo Luật
Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 so với các quy định trước đó.
Đề tài: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã thực trạng và giải pháp
Tiểu luận tốt nghiệp TCLLCT-HC Trang 5/22
Tiêu chí
so sánh
Các luật trước
Luật Tổ chức
HĐND và UBND
năm 1989 (luật
1962, 1983)
Cơ cấu tổ chức
của HĐND cấp xã
theo Luật Tổ chức
HĐND và UBND
năm 1989
Cơ cấu tổ chức của
HĐND cấp xã theo
Luật Tổ chức
HĐND và UBND
năm 1994
Cơ cấu tổ chức của
HĐND cấp xã theo
Luật Tổ chức HĐND

và UBND năm 2003
Về tổ
chức
Không tổ chức ra
Thường trực
HĐND cấp huyện
Tổ chức ra Thường
trực HĐND cấp
huyện
Tổ chức Thường
trực HĐND cấp
huyện
Tổ chức Thường trực
HĐND cấp huyện
Về cơ
cấu
Không có các chức
danh:
- Chủ tịch HĐND
- Phó Chủ tịch
HĐND
(kỳ họp do UBND
cùng cấp triệu tập)
Thường trực
HĐND gồm:
- Chủ tịch HĐND
- Phó Chủ tịch
HĐND
- Thư ký HĐND
Các chức danh trên

làm việc kiêm
nhiệm
- Cơ cấu gồm Chủ
tịch và Phó Chủ tịch
HĐND
- Chủ tịch, Phó Chủ
tịch làm việc kiêm
nhiệm
- Cơ cấu gồm Chủ tịch,
Phó Chủ tịch HĐND và
Ủy viên thường trực
- Chủ tịch làm việc
kiêm nhiệm, Phó Chủ
tịch và Ủy viên thường
trực làm việc chuyên
trách
Quy định
Xem thêm Luật Tổ
chức HĐND và
UBND năm 1962,
1983
Tại 24 Luật Tổ
chức HĐND và
UBND năm 1989
Tại Điều 35 của
Luật Tổ chức
HĐND và UBND
năm 1994
Tại Điều 5, Điều 52 của
Luật Tổ chức HĐND và

UBND năm 2003
2. Cơ cấu, tổ chức của các Ban của HĐND cấp huyện
Theo quy định tại đoạn 2 Điều 54 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm
2003 thì HĐND huyện có 02 ban: Ban Kinh tế - xã hội và Ban Pháp chế. Mỗi ban
gồm có Trưởng ban, Phó trưởng ban và các thành viên khác.
Cũng giống như thành viên của các Ban của HĐND cấp tỉnh, thành viên của
các Ban của HĐND cấp huyện cũng không thể đồng thời là thành viên của UBND
cùng cấp; Trưởng Ban không thể đồng thời là thủ trưởng cơ quan chuyên môn của
UBND, Chánh án Toà án nhân dân, Viện Trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cùng
cấp (Điều 54 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003). Quy định này nhằm
đảm bảo cho hoạt động của Ban, hoạt động của các thành viên của các Ban được
độc lập, khách quan.
Việc tổ chức các Ban như quy định hiện nay đã có sự đổi mới so với các quy
định trước đây. Vì trước năm 1994, việc thành lập các Ban không thống nhất nên
hoạt động của các Ban chưa thực sự hiệu quả. Cho đến khi ban hành Luật Tổ chức
HĐND và UBND năm 1994 thì các nhà làm luật đã quy định cụ thể HĐND cấp
huyện được thành lập 2 Ban (Gồm Ban Pháp chế, Ban Kinh tế - Xã hội). Luật Tổ
chức HĐND và UBND năm 2003 tiếp tục kế thừa quy định trên nhưng đã có sự
đổi mới đáng chú ý là việc quy định Trưởng ban hoặc Phó trưởng ban có thể hoạt
động chuyên trách (Điều 26 Quy chế Hoạt động của Hội đồng nhân dân năm
2005).
Đề tài: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã thực trạng và giải pháp
Tiểu luận tốt nghiệp TCLLCT-HC Trang 6/22
Ngoài các Ban chuyên môn vừa nêu ở trên ra, tại kỳ họp đầu tiên của mỗi
khoá, HĐND cấp huyện còn thành lập các Ban lâm thời (Ví du:Ban thẩm tra tư
cách đại biểu nhân dân) và các Ban này sẽ tự giải tán khi xong nhiệm vụ.
3. Các Tổ đại biểu HĐND cấp huyện
Các tổ đại biểu HĐND cấp huyện được thành lập ở các địa phương để phối
hợp công tác giữa 2 kỳ họp HĐND. Thường trực HĐND cấp huyện sẽ giữ vai trò
điều hoà, phối hợp hoạt động của các Tổ đại biểu HĐND.

III. TỔ CHỨC CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ
Theo quy định tại Điều 5 và Điều 52 của Luật Tổ chức HĐND và UBND
năm 2003 thì HĐND cấp xã chỉ tổ chức Thường trực HĐND, không có các Ban
chuyên môn như HĐND cấp tỉnh, cấp huyện. Thường trực HĐND cấp xã cũng chỉ
có 02 thành viên là Chủ tịch và Phó Chủ tịch HĐND, không có ủy viên thường
trực, trong đó Chủ tịch HĐND cấp xã hoạt động kiêm nhiệm nên chỉ có 01 chức
danh trong thường trực HĐND hoạt động chuyên trách. Cũng như quy định đối với
cấp tỉnh và cấp huyện, các chức danh này do HĐND cấp xã bầu ra tại kỳ họp đầu
tiên của mỗi khoá trong số các đại biểu HĐND cấp mình theo sự giới thiệu của
Chủ tịch HĐND khoá trước.
*Mô hình cơ cấu tổ chức của hội đồng nhân dân cấp xã xem Phụ lục 3
Khi nghiên cứu những quy định về tổ chức và hoạt động của HĐND trước
đây (trước khi có Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003), trước năm 1989 thì
HĐND cấp xã không có Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND nên giữa 2 kỳ họp HĐND,
UBND sẽ làm thay nhiệm vụ của cơ quan Thường trực của HĐND.
Từ năm 1989 đến 2003 thì mặc dù HĐND cấp xã đã có Chủ tịch và Phó Chủ
tịch nhưng đều hoạt động kiêm nhiệm và vẫn chưa được gọi là Thường trực
HĐND cấp xã. Đến Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì chúng ta thấy có
sự thay đổi, cụ thể theo Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì HĐND cấp
xã có Thường trực HĐND. Việc ban hành những quy định này nhằm nâng cao vai
trò của Thường trực HĐND cấp xã, giúp HĐND cấp xã hoạt động thường xuyên,
hiệu quả hơn, cũng như duy trì mối quan hệ phối hợp công tác với các cơ quan nhà
nước khác, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
* Mô hình mối quan hệ phối hợp công tác xem Phụ lục 4
Tóm lược điểm mới về cơ cấu tổ chức của HĐND cấp xã theo Luật Tổ chức
HĐND và UBND năm 2003 so Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1994, Luật
Tổ chức HĐND và UBND năm 1989, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1983.
Đề tài: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã thực trạng và giải pháp
Tiểu luận tốt nghiệp TCLLCT-HC Trang 7/22
Tiêu chí

so sánh
Các luật trước
Luật Tổ chức
HĐND và UBND
năm 1989 (luật
1962, 1983)
Cơ cấu tổ chức
của HĐND cấp xã
theo Luật Tổ chức
HĐND và UBND
năm 1989
Cơ cấu tổ chức của
HĐND cấp xã theo
Luật Tổ chức
HĐND và UBND
năm 1994
Cơ cấu tổ chức của
HĐND cấp xã theo
Luật Tổ chức HĐND
và UBND năm 2003
Về tổ
chức
Không tổ chức ra
Thường trực
HĐND cấp xã
Không tổ chức ra
Thường trực
HĐND cấp xã
Không tổ chức
Thường trực HĐND

cấp xã
Có tổ chức Thường trực
HĐND cấp xã
Về cơ
cấu
Không có các chức
danh:
- Chủ tịch HĐND
- Phó Chủ tịch
HĐND
(kỳ họp do UBND
cấp xã triệu tập)
Không có các chức
danh:
- Chủ tịch HĐND
- Phó Chủ tịch
HĐND
(kỳ họp do UBND
cấp xã triệu tập)
- Cơ cấu gồm Chủ
tịch và Phó Chủ tịch
HĐND
- Chủ tịch, Phó Chủ
tịch làm việc kiêm
nhiệm
- Cơ cấu gồm Chủ tịch
và Phó Chủ tịch HĐND
- Chủ tịch làm việc
kiêm nhiệm, Phó Chủ
tịch làm việc chuyên

trách
Quy định
Xem thêm Luật Tổ
chức HĐND và
UBND năm 1962,
1983
Tại Điều 3 và Điều
18 Luật Tổ chức
HĐND và UBND
năm 1989
Tại Điều 5 của Luật
Tổ chức HĐND và
UBND năm 1994
Tại Điều 5, Điều 52 của
Luật Tổ chức HĐND và
UBND năm 2003
Các tổ đại biểu HĐND cấp xã được thành lập ở các địa phương để phối hợp
công tác giữa 2 kỳ họp HĐND. Thường trực HĐND cấp xã sẽ giữ vai trò điều hoà,
phối hợp hoạt động của các Tổ đại biểu HĐND (xem thêm phần hoạt động của đại
biểu HĐND và Thường trực HĐND). Thông thường thì các tổ đại biểu HĐND cấp
xã được thành lập theo các thôn, làng, các khu phố …
CHƯƠNG 2
HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH, HUYỆN, XÃ
HĐND các cấp thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình thông qua việc
triển khai các hoạt động của các bộ phận cấu thành, đó là: hoạt động của Đại biểu
HĐND, hoạt động của Thường trực HĐND, hoạt động của các Ban của HĐND
(Đối với HĐND cấp tỉnh và huyện). Các bộ phận trên hoạt động thông qua các
hình thức như Kỳ họp (hình thức chủ yếu và quan trọng nhất), tổ chức giám sát
(giám sát chuyên đề, giám sát đột xuất), tiếp xúc cử tri (trước và sau mỗi kỳ họp),
chất vấn; tiếp nhận đơn thư của công dân, chuyển cho cơ quan chức năng và theo

dõi quá trình giải quyết đơn thư…
Tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ của HĐND từng cấp mà nội dung, phạm vi
hoạt động của HĐND nói chung, hoạt động của các bộ phận cấu thành cũng có sự
khác nhau. Tuy vậy, nhìn chung, HĐND các cấp đều thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của mình thông qua những phương thức hoạt động nhất định. Do vậy, khi đề
cập đến hoạt động của HĐND các cấp là chúng ta đang đề cấp đến hoạt động của
Đề tài: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã thực trạng và giải pháp
Tiểu luận tốt nghiệp TCLLCT-HC Trang 8/22
đại biểu HĐND, hoạt động của Thường trực HĐND (hoạt động của Chủ tịch, Phó
Chủ tịch và Ủy viên thường trực) và hoạt động của các Ban HĐND.
I. HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
Theo quy định của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì đại biểu
HĐND là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương, gương
mẫu chấp hành chính sách, pháp luật của nhà nước; tuyên truyền, vận động nhân
dân thực hiện chính sách, pháp luật và tham gia vào việc quản lý nhà nước (Điều
36 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003).
Đại biểu HĐND của địa phương nào thì do nhân dân địa phương đó trực tiếp
bầu ra và chịu sự giám sát của nhân dân địa phương.
Hoạt động của đại biểu HĐND gồm những hoạt động trước kỳ họp, hoạt
động trong kỳ họp và hoạt động sau kỳ họp. Tuy nhiên, khi nghiên cứu nội dung
này, chúng tôi xin trình bày theo các nhóm hoạt động chính, cơ bản của người đại
biểu HĐND như sau:
1. Tham dự Kỳ họp, phiên họp của HĐND
Kỳ họp là hình thức hoạt động chủ yếu của HĐND. Tại kỳ họp toàn thể các
đại biểu HĐND sẽ bàn bạc, quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương.
Thông qua kỳ họp, thể hiện ý chí, nguyện của nhân dân địa phương được chuyển
thành quyết định của cơ quan quyền lực, có giá trị bắt buộc thực hiện chung (các
nghị quyết). Ngoài ra, kỳ họp còn quyết định các biện pháp để đảm bảo việc thi
hành pháp luật của các cơ quan nhà nước cấp trên tại địa phương; thực hiện quyền
giám sát của HĐND đối với các cơ quan nhà nước tại địa phương trong việc thực

hiện nghị quyết của HĐND.
Tuy nhiên, tại kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa HĐND thì nội dung chủ yếu là
bầu ra các cơ cấu của HĐND, UBND nên kỳ họp này có thể coi là kỳ họp về tổ
chức bộ máy chính quyền ở địa phương. Tại kỳ họp này, HĐND sẽ bầu ra Thường
trực HĐND (Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên thường trực), các thành viên của
UBND (Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các ủy viên UBND), thành viên các Ban của
HĐND, thư ký kỳ họp.
Đại biểu HĐND có nhiệm vụ tham dự đầy đủ các Kỳ họp thường kỳ, Kỳ
họp chuyên đề, Kỳ họp bất thường của HĐND; tại kỳ họp, các đại biểu có trách
nhiệm tham gia thảo luận và quyết định những vấn đề liên quan đến nội dung,
chương trình của kỳ họp HĐND. Khi đại biểu HĐND vắng mặt, phải có lý do và
báo cáo Chủ tịch HĐND hoặc Chủ toạ phiên họp (Điều 38 Luật Tổ chức HĐND và
UBND năm 2003).
Thành phần quan trọng nhất của các kỳ họp là các đại biểu HĐND, do vậy
việc đảm bảo số lượng tham dự kỳ họp là yêu cầu bắt buộc của các kỳ họp (phải có
ít nhất 2/3 tổng số đại biểu HĐND tham dự). Ngoài ra dự kỳ họp còn có các thành
phần khác như Đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND cấp trên được bầu tại địa
phương, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp, các đoàn thể cùng cấp, thủ
Đề tài: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã thực trạng và giải pháp
Tiểu luận tốt nghiệp TCLLCT-HC Trang 9/22
trưởng các cơ quan chuyên môn của UBND, lãnh đạo các ban ngành như Tòa án
nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và đại diện cử tri. Mặc dù các thành phần này
cũng được phát biểu ý kiến nhưng không được biểu quyết.
Để kỳ họp HĐND được tổ chức có chất lượng, hiệu quả, pháp luật quy định
các đại biểu có trách nhiệm nghiên cứu trước dự kiến nội dung, chương trình kỳ
họp, các văn bản liên quan đến nội dung kỳ họp như các báo cáo, các tờ trình, đề
án, dự thảo nghị quyết của kỳ họp …; chuẩn bị ý kiến phát biểu về các vấn đề liên
quan đến chương trình nội dung của kỳ họp.
HĐND mỗi năm họp thường lệ 2 kỳ, ngoài ra, khi cần thiết, HĐND cũng có
thể tổ chức các kỳ họp chuyên đề hoặc kỳ họp bất thường theo yêu cầu của Chủ

tịch HĐND, Chủ tịch UBND cùng cấp hoăc khi có ít nhất 1/3 tổng số đại biểu
HĐND cùng cấp yêu cầu (Điều 48 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003).
Kỳ họp sẽ do thường trực HĐND triệu tập và chỉ được tiến hành khi có ít
nhất 2/3 tổng số đại biểu tham dự họp. Quy định này nhằm đảm bảo tính đa số
trong việc bàn bạc, biểu quyết thông qua các nội dung quan trọng của kỳ họp (các
nghị quyết của Hội đồng chỉ được thông qua khi có quá ½ tổng số đại biểu nhất trí
biểu quyết). Kỳ họp của HĐND được tiến hành công khai, trừ khi cần thiết phải
họp kín.
Về nguyên tắc, tất cả nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND sẽ được HĐND quyết
định tại kỳ họp. Tuy nhiên, trên thực tế không phải bất cứ vấn đề gì cũng được
đem ra quyết định tại kỳ họp mà một số nội dung sẽ được HĐND giao cho các
Thường trực HĐND, các ban của HĐND, Uỷ ban nhân dân giải quyết trong khuôn
khổ của pháp luật. Vì kỳ họp là hình thức hoạt động chủ yếu của HĐND nên việc
các đại biểu HĐND tham dự đầy đủ các kỳ họp, tham gia thảo luận, quyết định
những vấn đề quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá - giáo dục - y tế -
thể dục thể thao …, củng cố quốc phòng - an ninh sẽ quyết định chất lượng, hiệu
quả hoạt động chung của HĐND. Chính vì vậy, tại Điều 8 của Luật Tổ chức
HĐND và UBND năm 2003 nêu “Hiệu quả hoạt động của HĐND được bảo đảm
bằng hiệu quả của các Kỳ họp HĐND …”
2. Hoạt động chất vấn của đại biểu HĐND
Một nội dung quan trọng của các kỳ họp, góp phần tích cực thực hiện có
hiệu quả chức năng giám sát việc thi hành pháp luật và nghị quyết của HĐND từ
phía các cơ quan nhà nước ở địa phương, đó là hoạt động chất vấn của đại biểu
HĐND tại kỳ họp.
Theo quy định của pháp luật, đại biểu HĐND có quyền chất vấn Chủ tịch
HĐND, Chủ tịch UBND và các thành viên khác của UBND cùng cấp, thủ trưởng
các cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Chánh án Toà án nhân dân, Viện Trưởng
Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp (Điều 41 của Luật Tổ chức HĐND và UBND
năm 2003).
Tại kỳ họp, các nội dung chất vấn của đại biểu HĐND sẽ được cơ quan,

Đề tài: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã thực trạng và giải pháp
Tiểu luận tốt nghiệp TCLLCT-HC Trang 10/22
người bị chất vấn trả lời trực tiếp. Nếu cơ quan, người bị chất vấn chưa thể trả lời
trực tiếp tại kỳ họp mà cần điều tra, xác minh thêm thì Hội đồng sẽ quyết định cho
người bị chất vấn phải trả lời bằng văn bản đến đại biểu đã chất vấn và thường trực
HĐND hoặc trả lời chất vấn tại kỳ họp sau.
Hoạt động chất vấn có thể thực hiện trực tiếp tại các kỳ họp hoăc trong thời
gian giữa các kỳ họp. Trong trường hợp chất vấn được thực hiện trong thời gian
giữa các kỳ họp thì đại biểu HĐND gửi chất vấn đến Thường trực HĐND để
chuyển đến cơ quan, người bị chất vấn.
Về hình thức chất vấn, các đại biểu có thể chất vấn bằng văn bản hoặc chất
vấn trực tiếp bằng lời nói.
3. Hoạt động tiếp xúc cử tri trước và sau mỗi kỳ họp thường lệ
Theo quy định tại Điều 39 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và
Điều 38 của Quy chế Hoạt động của HĐND năm 2005 thì trước và sau mỗi kỳ họp,
các đại biểu phải tiếp xúc cử tri.
Việc tiếp xúc cử tri trước mỗi kỳ họp của đại biểu là để lắng nghe tâm tư,
nguyện vọng nhân dân nơi đại biểu ứng cử, tiếp thu các ý kiến, kiến nghị của cử tri
với kỳ họp và với các cơ quan nhà nước cấp trên.
Sau kỳ họp, đại biểu phải tiếp xúc cử tri để báo cáo kết quả của kỳ họp, kết
quả giải quyết các ý kiến, kiến nghị của cử tri, phổ biến và giải thích các nghị
quyết của HĐND và vận động nhân dân thực hiện nghị quyết đó.
Ngoài ra, mỗi năm một lần vào cuối năm, kết hợp với việc tiếp xúc cử tri,
các đại biểu HĐND phải báo cáo với cử tri nơi được bầu kết quả hoạt động của
mình và của HĐND trong năm và phương hướng hoạt động trong năm tới.
Như vậy, qua xem xét, nghiên cứu các quy định về tiếp xúc cử tri của đại
biểu HĐND, chúng ta thấy rằng với hoạt động này sẽ đảm bảo cho các ý kiến, kiến
nghị, phản ánh của nhân dân đến được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, qua
đó giúp cho các cơ quan nhà nước hoàn thiện hiện thống pháp luật, củng cố tổ
chức, nâng cao hiệu quả hoạt động; giúp các cơ quan nhà nước cấp trên trong việc

xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội được toàn diện hơn, đảm bảo sự
phát triển đồng đều giữa các vùng miền, các khu vực. Ngoài ra, qua hoạt động tiếp
xúc cử tri, các chủ trương, chính sách, pháp luật mới và nghị quyết của HĐND đến
với nhân dân một cách trực tiếp qua việc phổ biến, giải thích của đại biểu HĐND.
Qua đó cũng góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân trong việc chấp hành
pháp luật. Như vậy, rõ ràng, hoạt động tiếp xúc cử tri có tác dụng 2 chiều: thứ
nhất: Giúp các cơ quan nhà nước phát hiện được những thiếu sót, khuyết điểm
trong hệ thống chính sách, pháp luật để từ đó kịp thời sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
hệ thống chính sách, pháp luật; giúp các cơ quan nhà nước phát hiện các khâu yếu
kém và kịp thời đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của mình; thứ
hai: Thông qua hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giải thích về các chủ trương,
chính sách, pháp luật mới, Nghị quyết của HĐND, đã góp phần đưa các chủ
Đề tài: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã thực trạng và giải pháp
Tiểu luận tốt nghiệp TCLLCT-HC Trang 11/22
trương, chính sách, pháp luật đến với nhân dân một cách trực tiếp, nhanh chóng,
tạo thuận lợi cho các chủ trương, chính sách, pháp luật sớm đi vào cuộc sống, đồng
thời qua đó nâng cao ý thức pháp luật cho các tầng lớp nhân dân.
4. Hoạt động tiếp nhận, xem xét, nghiên cứu, chuyển đơn thư của công
dân đến các cơ quan chức năng; theo dõi, đôn đốc quá trình giải quyết đơn
thư và báo cáo kết quả giải quyết với công dân
Ngoài các hoạt động như vừa trình bày trên, đại biểu HĐND còn thực hiện
việc nhiệm vụ tiếp nhận, xem xét, nghiên cứu và kịp thời chuyển đến các cơ quan
thẩm quyền giải quyết; đồng thời theo dõi, đôn đốc quá trình giải quyết và báo cáo
kết quả giải quyết đơn thư cho công dân biết (Điều 40 của Luật Tổ chức HĐND và
UBND năm 2003). Cơ quan có thẩm quyền giải quyết có trách nhiệm phải báo cáo
kết quả giải quyết cho đại biểu HĐND trong thời hạn do luật định.
Với quy định này, quyền khiếu nại, tố cáo của công dân được đảm bảo thực
hiện, tránh việc các cơ quan có thẩm quyền kéo dài, không giải quyết hoặc chậm
trễ trong việc giải quyết, làm ảnh hưởng đến các quyền, lợi ích chính đáng của
công dân. Cũng qua hoạt động này, HĐND sẽ thực tốt hơn chức năng giám sát của

mình đối với các cơ quan nhà nước, các tổ chức khác tại địa phương.
II. HOẠT ĐỘNG CỦA THƯỜNG TRỰC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
Tuỳ theo cấp hành chính mà cơ cấu của Thường trực HĐND có khác, chẳng
hạn Thường trực HĐND cấp xã chỉ có Chủ tịch và Phó Chủ tịch HĐND, đối với
cấp tỉnh và cấp huyện, thì Thường trực HĐND gồm 3 chức danh: Chủ tịch, Phó
Chủ tịch và Ủy viên Thường trực.
Thường trực HĐND các cấp hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tổ
chức các hoạt động của HĐND, chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước HĐND
cùng cấp. Các thành viên Thường trực HĐND chịu trách nhiệm tập thể về việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực HĐND; chịu trách nhiệm cá nhân
trước Thường trực HĐND về nhiệm vụ, quyền hạn được Thường trực HĐND phân
công. Chủ tịch HĐND chỉ đạo hoạt động của Thường trực HĐND cùng cấp; Phó
Chủ tịch, Ủy viên thường trực làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chủ tịch
HĐND.
Việc phân công nhiệm vụ, quyền hạn cho từng thành viên trong Thường trực
HĐND các cấp chưa có quy định cụ thể. Trên thực tế thì việc này do Chủ tịch
HĐND phân công nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể cho từng thành viên.
1. Triệu tập, chủ toạ các kỳ họp của HĐND; phối hợp với UBND cùng
cấp trong việc chuẩn bị cho kỳ họp
Theo quy định thì Thường trực HĐND có trách nhiệm phối hợp với UBND
cùng cấp trong việc chuẩn bị cho kỳ họp của HĐND; triệu tập và chủ toạ các kỳ
họp thường lệ, chuyên đề, đột xuất của HĐND (Điều 53 của Luật Tổ chức HĐND
và UBND năm 2003).
Đề tài: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã thực trạng và giải pháp
Tiểu luận tốt nghiệp TCLLCT-HC Trang 12/22
Nói chung, hoạt động của HĐND các cấp chủ yếu được tổ chức, triển khai,
thực hiện tại các kỳ họp. Do đó, việc chuẩn bị chu đáo nội dung, chương trình, các
báo cáo, dự thảo các văn bản của HĐND, UBND như nghị quyết, đề án …là rất
quan trọng. Nếu làm tốt khâu chuẩn bị, kỳ họp sẽ được tiến hành khoa học, trôi
chảy, chất lượng và hiệu quả ….Còn ngược lại, sẽ ảnh hưởng kho nhỏ đến hiệu quả

hoạt động của HĐND.
2. Kiểm tra, đôn đốc UBND, các cơ quan nhà nước khác tại địa phương
trong việc thực hiện Nghị quyết của HĐND
Có thể nói đây là hoạt động khá quan trọng của Thường trực HĐND các cấp.
Bởi vì, HĐND thường lệ chỉ họp 2 kỳ họp trong năm, do đó hoạt động giám sát
việc thực hiện nghị quyết của HĐND cũng không thể duy trì thường xuyên được
mà chủ yếu tập trung tại kỳ họp. Chính vì vậy, trong thời gian giữa các kỳ họp,
hoạt động giám sát của HĐND do Thường trực HĐND, các ban của hội đồng, các
đại biểu HĐND thực hiện.
3. Giám sát việc thi hành pháp luật tại địa phương
Hoạt động giám sát việc thi hành pháp luật tại địa phương nói chung. Bao
gồm giám sát việc thi hành Hiếp pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh,
nghị quyết của Uỷ Ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), nghị quyết, nghị định
của Chính phủ, Quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, quyết định, chỉ thị,
thông tư của các Bộ và quyết định, chỉ thị của UBND cấp trên. Như vậy, xét về nội
dung giám sát thì hoạt động này rất rộng, trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hóa-xã hội và quốc phòng-an ninh.
Trước đây (trước khi Quốc hội thông qua Nghị quyết số 10/2001/QH10,
ngày 25/12/2001 của Quốc hội khoá 10 về việc sửa đổi Hiếp pháp năm 1992),
chức năng giám sát việc thi hành pháp luật thuộc HĐND các cấp và của Viện
Kiểm sát các cấp. Tuy nhiên, hiện nay, Viện Kiểm sát các cấp chỉ còn chức năng
kiểm sát việc thi hành pháp luật trong hoạt động tư pháp nên hoạt động giám sát
chung tại địa phương do HĐND các cấp thực hiện.
Việc HĐND các cấp thực hiện tốt chức năng giám sát việc thi hành pháp
luật tại địa phương sẽ góp phần đảm bảo sự chấp hành tốt các quy định của pháp
luật từ phía các cá nhân, cơ quan, tổ chức, góp phần củng cố nền pháp chế xã hội
chủ nghĩa, thông qua đó đảm bảo bình đẳng xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích chính
đáng của công dân. Mặc dù vậy, như trên đã đề cập, HĐND các cấp hoạt động
không thường xuyên nên phần lớn hiệu quả của hoạt động này phụ thuộc vào hiệu
quả, chất lượng hoạt động của Thường trực HĐND, các Ban của HĐND.

Ví dụ: Từ năm 2004 đến nay, trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận đã và đang thực
hiện Chương trình 134, 135, Nghị quyết 30a của Chính phủ, nếu trong quá trình
triển khai thực hiện, HĐND các cấp thực hiện chức năng giám sát không sát,
không tốt thì rất có thể ở một nơi nào đó, một khâu nào đó sẽ thực hiện không
đúng, dẫn đến một vài nội dung của các Chương trình trên không đạt yêu cầu gây
Đề tài: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã thực trạng và giải pháp
Tiểu luận tốt nghiệp TCLLCT-HC Trang 13/22
thất thoát ngân sách của nhà nước, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước.
4. Điều hoà, phối hợp hoạt động của các Ban của HĐND, xem xét kết
quả giám sát của các Ban và báo cáo cho HĐND khi cần thiết
Thường trực HĐND cấp tỉnh, cấp huyện có vai trò quan trọng trong việc
điều hoà, phối hợp hoạt động của các Ban của HĐND, trong đó tập trung vào một
số hoạt động sau:
- Phân công cho các Ban thẩm tra các dự thảo nghị quyết, báo cáo, tờ trình,
đề án trình do UBND và các ngành trình ra kỳ họp của HĐND.
- Phân công cho các Ban đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện nghị quyết của
HĐND và các công việc khác.
- Phân công cho các Ban một số nội dung trong chương trình giám sát của
HĐND thông qua và Thường trực HĐND.
- Điều hoà, phối hợp chương trình hoạt động của các Ban; đôn đốc các Ban
hoạt động.
- Xem xét kết quả giám sát của các Ban, trong trường hợp cần thiết thì báo
cáo với HĐND để HĐND xem xét, quyết định.
- Tổ chức tập huấn, trao đổi kinh nghiệm hoạt động của các ban nhằm nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các Ban.
5. Giữ mối quan hệ với đại biểu HĐND, các Tổ đại biểu HĐND; tổng
hợp chất vấn của đại biểu để báo cáo HĐND
- Đôn đốc các Tổ đại biểu HĐND tổ chức để đại biểu HĐND tiếp xúc cử tri,
thu thập ý kiến, nguyện vọng của cử tri.

- Tổ chức cho đại biểu HĐND tham gia các lớp tập huấn nghiệp vụ, nghiên
cứu, quán triệt các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của HĐND, các
chủ trương, chính sách của nhà nước.
- Theo dõi, đôn đốc việc thực hiện chính sách, chế độ đối với đại biểu
HĐND.
- Theo dõi, đôn đốc, tổng hợp các ý kiến, kiến nghị của cử tri do các tổ đại
biểu HĐND chuyển đến để chuyển đến các cơ quan nhà nước, các tổ chức hữu
quan nghiên cứu giải quyết và theo dõi, đôn đốc việc giải quyết; báo cáo trước
HĐND những ý kiến, kiến nghị đó và kết quả giải quyết của các cơ quan, tổ chức
hữu quan.
6. Hoạt động tiếp dân, tiếp nhận, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra và xem xét
tình hình giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân
Ngoài hoạt động giám sát, công tác phối hợp chuẩn bị các kỳ họp của
HĐND, Thường trực cũng có giống như UBND, phải tổ chức hoạt động tiếp công
Đề tài: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã thực trạng và giải pháp
Tiểu luận tốt nghiệp TCLLCT-HC Trang 14/22
dân, tiếp nhận ý kiến, kiến nghị, đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân
và chuyển cho các cơ quan hữu quan để giải quyết, đồng thời có trách nhiệm theo
dõi, đôn đốc, xem xét tình hình giải quyết đơn thư và báo cáo kết quả giải quyết
cho công dân và HĐND.
Với hoạt động này của Thường trực HĐND đã góp phần tích cực trong việc
giám sát tình hình giải quyết đơn thư của công dân từ phía các cơ quan, tổ chức
hữu quan, hạn chế tình trạng trì trệ, chậm trễ thậm chí kéo dài thời hạn giải quyết
đơn thư từ phía các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giải quyết.
Qua thực tế cho thấy hằng năm, thường trực HĐND các cấp đã tiếp nhận,
chuyển đến các cơ quan chức năng một số lượng đơn thư không nhỏ của công dân,
thậm chí có trường hợp người dân chỉ gửi cho Thường trực HĐND mà không gửi
cơ quan hành chính nhà nước các cấp. Điều này cho thấy, người dân rất tin tưởng
vào vai trò của HĐND các cấp.
7. Thực hiện các hoạt động khác

Ngoài những hoạt động chính như đã trình bày ở trên trên, Thường trực
HĐND còn thực hiện các hoạt động khác như phê chuẩn kết quả bầu các chức
danh của Thường trực HĐND cấp dưới trực tiếp; trình HĐND bỏ phiếu tín nhiệm
đối với các chức danh do HĐND bầu ra theo đề nghị của Mặt trận tổ quốc cùng
cấp hoặc ít nhất 1/3 tổng số đại biểu yêu cầu; phối hợp đưa ra bãi miễn những đại
biểu HĐND không còn xứng đáng theo đề nghị của Mặt trận tổ quốc cùng cấp;
hàng quý, 6 tháng, hàng năm báo cáo tình hình hoạt động của HĐND dân cấp mình
lên HĐND, UBND cấp trên trực tiếp; giữ mối quan hệ phối hợp công tác với Mặt
trận tổ quốc cùng cấp; tổ chức các Hội nghị giao ban giữa thường trực HĐND cấp
mình với Thường trực HĐND cấp dưới nhằm trao đổi, học hỏi kinh nghiệm hoạt
động; hàng tháng tổ chức họp giao ban thường trực HĐND cấp mình nhằm kiểm
điểm việc thực hiện nhiệm vụ, các nghị quyết của HĐND, các quyết định của
chính Thường trực HĐND và đề ra nhiệm vụ tháng sau.
III. HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC BAN CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
Các Ban của HĐND các cấp hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND cùng cấp. Các thành viên của
Ban của HĐND chịu trách nhiệm tập thể về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của Ban trước HĐND; chịu trách nhiệm cá nhân trước Ban về việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn được Ban phân công.
Như vậy, hoạt động của Ban của HĐND các cấp gồm hoạt động chung của
Ban và hoạt động của các thành viên trong Ban theo sự phân công của Ban.
Hoạt động của các Ban của HĐND các cấp thể hiện qua các nội dung sau:
1. Hoạt động chuẩn bị cho kỳ họp của HĐND
Các ban của HĐND các cấp chuẩn bị cho kỳ họp HĐND thông qua các nội
dung công việc:
Đề tài: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã thực trạng và giải pháp
Tiểu luận tốt nghiệp TCLLCT-HC Trang 15/22
- Tham gia chuẩn bị nội dung kỳ họp của HĐND liên quan đến lĩnh vực mà
từng Ban được phân công.
- Thẩm tra dự thảo nghị quyết, báo cáo, đề án của Uỷ ban nhân dân, các

ngành trình kỳ họp liên quan đến lĩnh vực mà các Ban đã được phân công. Hoạt
động này nếu thực hiện tốt sẽ hỗ trợ rất nhiều cho công tác giám sát của HĐND các
cấp tại kỳ họp. Bởi vì qua các báo cáo thẩm tra của các Ban sẽ cho đại biểu HĐND
nắm được rõ ràng, cụ thể các vấn đề nóng bỏng của địa phương, được cử tri quan
tâm, qua đó giúp cho hoạt động chất vấn được thực hiện có chất lượng hơn.
- Báo cáo kết quả hoạt động giám sát của Ban tại kỳ họp của HĐND. Theo
quy định, trước mỗi kỳ họp, các Ban của HĐND các cấp phải tổ chức giám sát theo
lĩnh vực được phân công và chuẩn bị báo cáo thuyết trình để báo cáo tại kỳ họp.
Nếu việc giám sát của các ban được tổ chức tốt, sát với tình hình thực tế của địa
phương thì sẽ giúp cho kỳ họp, đại biểu HĐND có cái nhìn tổng quát về tình hình
phát triển kinh tế - xã hội, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của địa
phương, từ đó giúp HĐND kịp thời để ra các biện pháp triển khai thực hiện hiệu
quả, phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương.
2. Hoạt động giám sát theo sự phân công
Mỗi Ban của HĐND các cấp, tuỳ theo sự phân công của HĐND, Thường
trực HĐND mà thực hiện hoạt động giám sát trong những lĩnh vực nhất định.
Nhưng nhìn chung, các Ban thực hiện một số hoạt động giám sát sau:
- Giúp HĐND giám sát hoạt động của UBND và các cơ quan chuyên môn
của UBND cùng cấp trong những lĩnh vực mà Ban được phân công (Ví dụ: Ban
Ban Dân tộc tỉnh giám sát trong lĩnh vực thực hiện các chính sách dân tộc, Ban
Văn hoá - xã hội giám sát trong lĩnh vực thực hiện các chính sách phát triển văn
hoá, y tế, giáo dục, thể dục thể thao, …).
- Giúp HĐND giám sát việc thực hiện nghị quyết của HĐND, tình hình thi
hành pháp luật của các cơ quan, tổ chức tại địa phương trong các lĩnh vực mà Ban
được phân;
- Giúp HĐND, Thường trực HĐND giám sát các nội dung khác khi được
phân công.
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH, HUYỆN, XÃ

I. THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN CẤP TỈNH, HUYỆN, XÃ
Trong những năm qua, HĐND các cấp đã từng bước được kiện toàn về tổ
chức, đổi mới phương thức hoạt động, không ngừng phát huy vai trò là cơ quan
quyền lực Nhà nước ở địa phương. Những kết quả mà HĐND các cấp đạt được đã
Đề tài: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã thực trạng và giải pháp
Tiểu luận tốt nghiệp TCLLCT-HC Trang 16/22
góp phần quan trọng vào việc thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nuớc mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh. Song bên cạnh đó vẫn còn bộc lộ những bất cập so với
yêu cầu thực tiễn như sau:
1. Những kết quả đạt được
1.1. Thực hiện vai trò đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân
Thực hiện vai trò đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Những
năm qua, thông qua các hoạt động tiếp dân, tiếp xúc cử tri của HĐND, cử tri đã
đóng góp được nhiều ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị để phản ánh và giúp đại biểu
HĐND quyết định tại các kỳ họp HĐND. Quyền làm chủ của nhân dân cũng được
thực hiện bằng hình thức dân chủ. Nhân dân tham gia ý kiến trực tiếp vào những
vấn đề quan trọng ở địa phương trước khi HĐND xem xét, quyết định. Các kiến
nghị của nhân dân được tổng hợp, báo cáo trước HĐND, chuyển đến các cơ quan,
tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giải quyết.
Những vấn đề HĐND quyết định hầu hết là phù hợp với lòng dân, xuất phát
từ ý chí, nguyện vọng và vì lợi ích của nhân dân, có ý nghĩa thiết thực của địa
phương. Ví như, HĐND ra nghị quyết chuyên đề về việc chống mại dâm, ma tuý;
về an toàn giao thông; về giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân Các
nghị quyết này có hiệu quả rõ rệt trong đời sống xã hội của địa phương, được nhân
dân đồng tình, ủng hộ và thực hiện tốt.
Khi nhận được yêu cầu của UBTVQH về việc tham gia đóng góp ý kiến vào
các dự án luật, pháp luật, tuỳ theo yêu cầu, nội dung, phạm vi, đối tượng, Thường

trực HĐND đã phối hợp với Uỷ ban Mặt trận tổ quốc (MTTQ), với các cơ quan, tổ
chức hữu quan ở địa phương, tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc và đạt kết
quả tốt (Luật hôn nhân và gia đình, Luật phòng chống ma tuý, Bộ luật hình sự,
Luật giao thông đường bộ, Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp
1992, Luật Bảo hiểm xã hội, Dự án pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính; ). Ý kiến
đóng góp của nhân dân, của các ngành ở địa phương được Thường trực HĐND
tổng hợp đầy đủ, kịp thời gửi về Văn phòng Quốc Hội đúng thời gian quy định.
1.2. Chất lượng kỳ họp HĐND
Kỳ họp là hình thức hoạt động chủ yếu của HĐND. Nhìn chung, HĐND các
cấp đã chuẩn bị chu đáo về chương trình và nội dung các kỳ họp. Chất lượng hiệu
quả kỳ họp HĐND ở mỗi cấp ngày càng được nâng cao. Căn cứ điều kiện và thời
gian cụ thể tại kỳ họp, HĐND đã xem xét và quyết định các vấn đề quan trọng, bức
xúc của địa phương về phát triển kinh tế - xã hội, dự toán và phân bổ ngân sách,
phê chuẩn và quyết toán ngân sách, báo cáo hoạt động của HĐND, các báo cáo,
các đề án khác trình HĐND. Thời gian tiến hành kỳ họp HĐND thường là: cấp tỉnh
từ 3 dến 4 ngày; cấp huyện từ 2 đến 3 ngày; cấp xã từ 1 đến 2 ngày.
Đề tài: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã thực trạng và giải pháp
Tiểu luận tốt nghiệp TCLLCT-HC Trang 17/22
Việc chất vấn của đại biểu HĐND ngày càng được phát huy. Mỗi kỳ họp
HĐND các tỉnh thường có từ 5 đến 10 ý kiến chất vấn, cấp huyện và xã ít hơn,
thường có khoảng 4 đến 7 ý kiến chất vấn. Nhiều ý kiến chất vấn được trả lời tại kỳ
họp, một số được trả lời bằng văn bản đối với các vấn đề cần có thời gian xem xét.
Đến nay, trong các kỳ họp HĐND cấp tỉnh, có tới hơn 50% đơn vị trong
phiên họp khai mạc, bế mạc, chất vấn và trả lời chất vấn đã được tổ chức truyền
hình, phát thanh trực tiếp để nhân dân theo dõi, giám sát. Việc làm này đã góp
phần tích cực tuyên truyền về hoạt động của HĐND, tạo điều kiện thuận lợi để
nhân dân giám sát hoạt động của HĐND, đại biểu HĐND và người đứng đầu cơ
quan, tổ chức ở địa phương. Khi chất vấn nhiều đại biểu đã chuẩn bị kỹ nội dung,
người bị chất vấn trả lời bằng văn bản và trình bày vấn đề rõ ràng. Có địa phương
thông báo số điện thoại nóng trên các phương tiện thông tin đại chúng để khi nghe

chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp HĐND, cử tri thấy cần thiết thì gọi điện đề
nghị chủ tọa yêu cầu người bị chất vấn phải trả lời đúng trọng tâm câu hỏi
và đầy đủ rõ ràng hơn, không được vòng vo, ne tránh. Đây là việc làm thể hiện
tính dân chủ cao, mang lại hiệu quả thiết thực được nhân dân đồng tình.
Nhìn chung, đa số cử tri cho rằng, việc chuẩn bị nội dung, chương trình và
tổ chức kỳ họp HĐND các cấp đã có nhiều chuyển biến tích cực, đảm bảo đúng
luật, dân chủ, công khai. Tính hình thức trong các kỳ họp đã được khắc phục từng
bước. Các đại biểu HĐND trong các kỳ họp đã sôi nổi thảo luận những vấn đề
thuộc chương trình nghị sự của kỳ họp một cách dân chủ, thẳng thắn, cởi mở. Chất
lượng các ý kiến phát biểu đã được nâng lên. Nhiều vấn đề quan trọng ở địa
phương đã được HĐND xem xét, thảo luận kỹ trước khi quyết định.
1.3. Hoạt động của Thường trực HĐND
Với chức năng, nhiệm vụ do luật định và thực tiễn hoạt động, Thường trực
HĐND các cấp đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong việc tổ chức hoạt
động của HĐND, góp phần ngày một tốt hơn trong việc nâng cao chất lượng, hiệu
quả hoạt động của HĐND.
Việc tổ chức các kỳ họp HĐND được Thường trực HĐND phối hợp với
UBND và các cơ quan, tổ chức hữu quan chuẩn bị tốt. ở nhiều địa phương, các báo
cáo, đề án chỉ trình tại kỳ họp nội dung tóm tắt, dành thời gian cho thảo luận, tham
gia ý kiến của đại biểu, không khí dân chủ, thẳng thắn, cởi mở hơn, tạo nên sự hiệu
quả, chất lượng hoạt động của HĐND.
Thường trực HĐND thống nhất với chủ tịch UBND về các phương pháp
triển khai, đôn đốc triển khai và kiểm tra thực hiện nghị quyết của HĐND. Trong
quá trình tổ chức triển khai nghị quyết, Thường trực HĐND phối hợp với các
Ban HĐND đôn đốc, kiểm tra và tổ chức các đoàn đi giám sát thực tế tại một số cơ
quan, đơn vị.
Việc tiếp dân, đôn đốc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân.
Các địa phương có nhiều hình thức tổ chức tiếp dân: các cấp Uỷ đảng, Thường trực
Đề tài: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã thực trạng và giải pháp
Tiểu luận tốt nghiệp TCLLCT-HC Trang 18/22

HĐND, UBND, Uỷ ban MTTQ có phòng tiếp dân riêng hoặc HĐND phối hợp với
Đoàn Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) tại địa phương tiếp dân. Nhiều địa phương tổ
chức phối hợp cả 5 cơ quan tiếp dân (cấp Uỷ đảng, Thường trực HĐND, UBND,
Uỷ ban MTTQ, Thanh tra Nhà nước và một số ngành) nên việc xem xét, giải
quyết nhanh chóng, kịp thời hơn.
Về mối quan hệ giữa thường trực HĐND với UBND, MTTQ cùng cấp và
các cơ quan hữu quan có những biểu hiện tiến bộ trong việc chuẩn bị báo cáo, đề
án trình HĐND tại các kỳ họp; đôn đốc UBND triển khai thực hiện nghị quyết của
HĐND; giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai nghị quyết của
HĐND; đôn đốc UBND, cơ quan, tổ chức hữu quan trả lời chất vấn của đại biểu
HĐND, giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân và những vấn đề bức
xúc của cử tri.
HĐND phối hợp với MTTQ và các tổ chức thành viên trong việc tuyên
truyền vận động nhân dân phát huy quyền làm chủ tham gia xây dựng chính quyền.
Nhiều địa phương đã xây dựng được "Quy chế phối hợp công tác giữa Thường
trực HĐND với Uỷ ban MTTQ" hoặc ban hành "Nghị quyết liên tịch về tổ chức
tiếp xúc giữa đại biểu HĐND các cấp với cử tri". Thường trực HĐND cấp tỉnh còn
tổ chức các hội nghị chuyên đề để trao đổi kinh nghiệm, thông tin tình hình hoạt
động giám sát đối với các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương. Đây là
hoạt động tự nguyện, trao đổi kinh nghiệm, nhằm làm cho hoạt động của HĐND
thiết thực, chất lượng, hiệu quả.
1.4. Thực hiện chức năng quyết định của HĐND
Thời gian qua, HĐND các cấp có nhiều chuyển biến trong chức năng xem
xét và quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương như: nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội; thu, chi ngân sách; các biện pháp bảo đảm quốc phòng-an
ninh, trật tự, an toàn xã hội; quyết định các vấn đề xây dựng chính quyền địa
phương Hầu hết các Nghị quyết của HĐND đều có sự kết hợp với triển khai nghị
quyết của Quốc hội, của Chính phủ, cụ thể hoá các nghị quyết của cấp uỷ Đảng,
bám sát tình hình thực tế. Một số nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
như: chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi; phát triển giao thông nông thôn; kiên

cố hoá kênh mương; khôi phục, phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp; giải
quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo; xoá phòng học tạm; đã được UBND, các
ngành, các cấp ở địa phương triển khai thực hiện có hiệu quả, tạo chuyển biến tích
cực về mọi mặt ở địa phương, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn
xã hội, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân.
1.5. Công tác giám sát của HĐND
HĐND các cấp đã thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng giám sát, góp
phần thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước và nghị quyết của HĐND.
Đề tài: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã thực trạng và giải pháp
Tiểu luận tốt nghiệp TCLLCT-HC Trang 19/22
Tại kỳ họp, HDND đã chú trọng xem xét, thảo luận các đề án, báo cáo công
tác của cơ quan Nhà nước ở địa phương; các đại biểu HĐND đã tích cực thực hiện
quyền chất vấn đối với người đứng đầu các cơ quan Nhà nước ở địa phương.
Trong những năm gần đây, quyền chất vấn của đại biểu HĐND đã được phát
huy, đặc biệt là chất vấn của đại biểu tại kỳ họp. Nội dung chất vấn phong phú, đa
dạng liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội như: phát triển kinh tế, xã
hội, quốc phòng - an ninh, hoạt động của bộ máy Nhà nước, thi hành pháp luật,
vấn đề dân chủ, chống tham nhũng, quan liêu, buôn lậu, HĐND các địa phương
đã có cải tiến phương pháp hoạt động, từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả
hoạt động giám sát của HĐND.
HĐND nhiều địa phương đã có sự phối hợp với các đoàn khảo sát, giám sát
của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, của Thường trực, các Ban của
HĐND cấp trên; MTTQ và các tổ chức thành viên, mời đại diện UBND, ban
ngành cùng cấp tham gia tiến hành các cuộc giám sát việc thi hành pháp luật, tình
hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế, xã hội và ngân sách, hoạt động tư pháp,
bắt, giam giữ, thi hành án, chống tham nhũng, buôn lậu và các tệ nạn xã hội,
công tác giải quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo, giao thông nông thôn, thuỷ lợi
nội đồng; Thông qua giám sát của Thường trực, các Ban và đại biểu HĐND,
nhiều kiến nghị đã được UBND, các ngành, các cấp triển khai thực hiện và có

những kiến nghị có giá trị.
1.6. Hoạt động của đại biểu HĐND
Tình hình hoạt động của đại biểu HĐND các cấp đã có nhiều chuyển biến
tích cực. Hầu hết các đại biểu đều có tinh thần trách nhiệm cao, luôn giữ gìn phẩm
chất, đạo đức, phấn đấu thực hiện ngày một tốt hơn nhiệm vụ người đại biểu nhân
dân, được nhân dân tín nhiệm. Các đại biểu ở cả 3 cấp đã tham gia đầy đủ các kỳ
họp, đạt tỷ lệ từ 85-95% tổng số đại biểu. Trung bình các kỳ họp HĐND cấp tỉnh
có khoảng 15-20 ý kiến phát biểu, cấp huyện từ 9 đến 14, cấp xã từ 5 đến 7 ý kiến.
Khoảng 70- 80% đại biểu HĐND đã thực hiện được nhiệm vụ tiếp xúc cử tri trước
và sau kỳ họp. Các đại biểu đã thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ theo quy định
của pháp luật như: tiếp dân, tiếp xúc cử tri và tham dự đầy đủ các kỳ họp HĐND;
nghiên cứu, chuyển đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết,
đôn đốc việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân.
1.7. Hoạt động của các Ban, Tổ đại biểu HĐND
Thời gian qua, các Ban HĐND không chỉ tập trung vào các bản báo cáo, đề
án mà còn tổ chức nhiều đoàn đi giám sát thực tế tại cơ sở theo chuyên đề và có
trọng điểm. Kết quả giám sát và những ý kiến, kiến nghị, đề xuất của các Ban
HĐND đã được các cơ quan, tổ chức kịp thời điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi những
vấn đề còn sai sót hoặc chưa phù hợp với thực tế ở địa phương. Nét nổi bật trong
hoạt động của Tổ đại biểu HĐND là đã phối hợp với MTTQ, chính quyền địa
phương, tổ chức cho đại biểu HĐND tiếp xúc cử tri trước và sau kỳ họp HĐND;
Đề tài: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã thực trạng và giải pháp
Tiểu luận tốt nghiệp TCLLCT-HC Trang 20/22
trước ngày khai mạc kỳ họp các Tổ đã tổ chức để đại biểu HĐND nghiên cứu tài
liệu, chuẩn bị ý kiến phát biểu tại kỳ họp; nhiều nơi còn phân công các thành viên
trong Tổ phát biểu từng lĩnh vực hoặc chất vấn về các vấn đề mà các cử tri địa
phương quan tâm.
2. Những hạn chế, bất cập của HĐND
2.1. Về cơ chế tổ chức
Đại biểu HĐND hầu hết là kiêm nhiệm, số lương không tương xứng với với

chức năng, nhiệm vụ. HĐND cấp dưới chịu sự lãnh đạo của UBND cấp trên,
không tổ chức thành hệ thống dọc, không có sự chỉ đạo thống nhất từ trung ương
tới cơ sở. Đó là những bất cập khi HĐND cấp tỉnh phải báo cáo tình hình tổ chức
và hoạt động của HĐND các cấp với Quốc hội.
Các thành viên của các Ban HĐND tỉnh, huyện (5 đến 7 thành viên/Ban)
chủ yếu hoạt động kiêm nhiệm. Phần lớn uỷ viên các Ban, kể cả trưởng, phó Ban
HĐND là trưởng, phó các cơ quan Đảng hoặc cơ quan chuyên môn của UBND
cùng cấp hay cơ quan Nhà nước cấp dưới.
2.2. Về cơ chế giao nhiệm vụ, quyền hạn
HĐND, Thường trực, các Ban HĐND và mỗi đại biểu rất nhiều nhiệm vụ,
nhưng lại giao quyền không tương ứng. Ví như, Thường trực, các Ban và đại biểu
HĐND đều có nhiệm vụ “tiếp dân, đôn đốc kiểm tra và xem xét giải quyết kiến
nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân, ” và “khi nhận được khiếu nại, tố cáo của
công dân, đại biểu HĐND có trách nhiệm nghiên cứu, kịp thời chuyển đến người
có thẩm quyền giải quyết, theo dõi, đôn đốc việc giải quyết Trong thời hạn do
pháp luật quy định, người có thẩm quyền phải xen xét, giải quyết và thông báo
bằng văn bản cho đại biểu HĐND biết kết quả”. Trên thực tế, không ít trường hợp
người có thẩm quyền không làm đầy đủ yêu cầu này không phải vì lý do khách
quan. Đến nay, chưa có một văn bản pháp quy nào hướng dẫn cụ thể có hiệu lực
pháp lý về công tác giám sát giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân.
HĐND, Thường trực, các Ban, đại biểu HĐND và cử tri không có quyền lực gì
ngoài quyền “kiến nghị”, “yêu cầu”, “chất vấn” chung chung. Bởi thế, hiện tượng
phổ biến hiện nay là nhân dân rất ít đến với HĐND để kiến nghị.
Nội dung kỳ họp HĐND các cấp có rất nhiều vấn đề (ít nhất không dưới 9
nội dung theo luật định, lại còn các nội dung chuyên đề, báo cáo thẩm định của các
Ban HĐND), trong khi đó thời gian của mỗi kỳ họp lại rất ít. HĐND thường mỗi
năm có hai kỳ họp, mỗi kỳ họp cấp tỉnh thường từ 3 đến 4 ngày, cấp huyện từ 2
đến 3 ngày, cấp xã từ 1 đến 2 ngày, cá biệt có cấp xã chỉ họp có 1/2 ngày. Điều đó
dẫn tới các vấn đề cần thảo luận, quyết định và ra nghị quyết không tương xứng
với thời gian kỳ họp, là một nguyên nhân làm cho kỳ họp HĐND nhiều khi chỉ là

hình thức, chung chung, không đi sâu vào những vấn đề bức xúc, nổi cộm, xây
dựng các phương án khả thi.
2.3. Về cơ chế đảm bảo điều kiện hoạt động
Đề tài: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã thực trạng và giải pháp
Tiểu luận tốt nghiệp TCLLCT-HC Trang 21/22
Về cơ chế đảm bảo điều kiện hoạt động của HĐND chưa đáp ứng được yêu
cầu. Hầu hết các HĐND không có trụ sở làm việc riêng; không có văn phòng
riêng; ở cấp xã không có các Ban; các chức danh của HĐND như chủ tịch, trưởng,
phó các Ban HĐND hoạt động kiêm nhiệm. HĐND, UBND cấp xã hoạt động đã
khó khăn lại càng khó khăn hơn bởi năng lực đội ngũ cán bộ cơ sở, điều kiện phục
vụ công việc, chế độ phụ cấp, rất thấp.
Tóm lại, từ cơ chế tổ chức, cơ chế giao nhiệm vụ, đến cơ chế đảm bảo điều
kiện hoạt động của HĐND hiện hành, nhằm thực hiện quyền lực, thực hiện nhiệm
vụ của HĐND còn nhiều vướng mắc, chưa thông thoáng, hiệu quả hoạt động của
HĐND còn nhiều hạn chế, còn mang nặng tính hình thức.
II. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHẤT LƯỢNG HOẠT
ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH, HUYỆN, XÃ
Nhằm khắc phục tính hình thức trong hoạt động, để hoạt động của HĐND
có chất lượng, hiệu quả, chúng tôi có một số đề xuất, kiến nghị sau đây:
1. Về cơ chế tổ chức
Cần nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, mà trực tiếp là các cấp uỷ Đảng đối
với HĐND các cấp. Sớm có quy định thống nhất về các chức danh của Đảng trong
lãnh đạo HĐND, nhất là các đại biểu trong thường trực HĐND hoạt động chuyên
trách phải là thường vụ cấp uỷ; uỷ viên các Ban HĐND không nên kiêm nghiệm
các chức danh trưởng, phó các cơ quan Nhà nước để tránh tình trạng vừa xây dựng,
ban hành, triển khai cơ chế, chính sách, vừa tham gia công tác quản lý, giám sát.
Cần đổi mới nhận thức về tính chất và vai trò của HĐND. HĐND là cơ quan
tự quản ở địa phương do nhân dân bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa
phương và cơ quan Nhà nước cấp trên. Nếu tính chất tự quản được xác định thì cần
có những quy định pháp luật về phạm vi, phương thức, điều kiện pháp lý, tổ chức,

vật chất; quyền giám sát, quyền bỏ phiếu tín nhiệm những người giữ chức vụ do
HĐND bầu ra hoặc phê chuẩn, quyết định ngân sách địa phương. Số người dự ứng
cử bầu làm đại biểu HĐND nên nhiều hơn số lượng được bầu tối thiểu là 30% để
cử tri dân chủ lựa chọn.
2. Về cơ chế giao nhiệm vụ, quyền hạn
Cần nâng cao chất lượng tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND. Tiếp xúc cử tri
là điều kiện để người đại biểu thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình trước sự tín
nhiệm của nhân dân. Trên cơ sở đó, đại biểu, HĐND tiếp thu, nghiên cứu, đề xuất
với cấp trên để có chủ trương, chính sách, giải pháp phù hợp; giải quyết kịp thời
những bức xúc, chấn chỉnh những sai lệch, yếu kém trong quản lý Nhà nước. Để
hoạt động tiếp xúc cử tri của Đại biểu HĐND phát huy đầy đủ, đáp ứng những yêu
cầu nêu trên thì những cơ chế, giải pháp cần tập trung làm tốt là:
- Tiếp tục nâng cao chất lượng đại biểu HĐND, chất lượng các cuộc tiếp xúc
cử tri trước và sau kỳ họp HĐND dưới nhiều hình thức: tiếp xúc cử tri ở đơn vị
bầu cử, ở nơi công tác, ở nơi cư trú; tiếp xúc cử tri thông qua cuộc sống sinh hoạt
Đề tài: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã thực trạng và giải pháp
Tiểu luận tốt nghiệp TCLLCT-HC Trang 22/22
cộng đồng; tiếp xúc cử tri theo giới, ngành, lĩnh vực; không nên hạn chế thành
phần, số lượng cử tri tham gia tiếp xúc, tránh chỉ tiếp xúc với “đại cử tri” như hiện
nay. Bằng nhiều hình thức tuyên truyền để nhân dân hiểu đầy đủ về quyền và nghĩa
vụ của cử tri trong việc tham gia xây dựng chính quyền. Sớm ban hành những quy
định pháp lý về khen thưởng, về bãi nhiệm, miễn nhiệm đối với đại biểu HĐND.
- Cần nâng cao năng lực, hiệu lực giám sát của HĐND. Giám sát của HĐND
phải góp phần tích cực vào việc giải quyết trả lời các kiến nghị của cử tri; các đơn
thư, khiếu nại, tố cáo của công dân; các vụ việc tiêu cực; các vi phạm về quản lý
kinh tế, tài chính và các vấn đề khác liên quan đến quyền và lợi ích của các cơ
quan, tổ chức Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Hoạt động giám
sát của HĐND cũng như của cử tri đối với Nhà nước hiện là khâu yếu nhất của
HĐND cũng như của cử tri, vì thiếu những chế tài pháp lý và những giải pháp đủ
mạnh. Để hoạt động giám sát của HĐND cũng như của cử tri được nâng cao: Cần

nâng cao tiêu chuẩn, chất lượng đại biểu, gắn với đổi mới cơ cấu đại biểu tham gia
HĐND các cấp; phải đảm bảo những quy định chặt chẽ về quyền của giám sát,
không dừng lại ở “yêu cầu”, “kiến nghị”,“chất vấn”, mà phải là chế tài bắt buộc
các cơ quan làm sai phải khắc phục và chịu trách nhiệm về hậu quả đã gây ra, đồng
thời cũng có những chính sách động viên, khích lệ cơ quan làm tốt. Sớm ban hành
các quy định để các cơ quan dân cử và các tổ chức chính trị - xã hội phối hợp
kiểm tra, kiểm soát (giữa MTTQ, Hội cựu chiến binh, thanh tra Chính phủ); nâng
cao kỹ năng giám sát của các cơ quan dân cử, các tổ chức chính trị - xã hội, các
cán bộ trong cơ quan, tổ chức này.
3. Về cơ chế đảm bảo điều kiện hoạt động
Cần đảm bảo các điều kiện hoạt động thuận lợi cho HĐND. Có bộ máy giúp
việc đủ mạnh về số lượng, đảm bảo về chất lượng; có trụ sở, phương tiện làm việc
tối thiểu, nhất là HĐND cấp xã, kinh phí hoạt động, các chế độ cho đại biểu, vấn
đề thi đua, khen thưởng.
Xây dựng, củng cố các cơ quan dân cử, trong đó có HĐND là vấn đề quan
trọng nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước, là một trong
những vấn đề bức xúc trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay. Một trong
những vấn đề để dảm bảo quyền dân chủ của nhân dân, hướng tới xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam, thiết nghĩ Đảng và Nhà nước cần tập trung nhiều trí
tuệ hơn vào củng cố cơ quan quyền lực dân cử ở địa phương - một vấn đề có tính
thời sự và đại sự hiện nay.
Đề tài: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã thực trạng và giải pháp

×