Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hòa các mỗi quan hệ xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.08 KB, 24 trang )

Tiểu luận học phần
TIỂU LUẬN HỌC PHẦN
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng
hoà những mối quan hệ xã hội
Hà nội, 2007
1
Tiểu luận học phần
Mục lục
Mở đầu 1
Nội dung 3
Chương 1: Tư tưởng về con người trong lịch sử triết học trước Mác 3
1.1. Tư tưởng về con người trong lịch sử triết học phương Đông 3
1.2. Tư tưởng về con người trong triết học phương Tây 5
Chương 2: Tư tưởng của Mác về bản chất con người 8
2.1. Tính hiện thực của bản chất con người 8
2.2. Bản chất con người – Tổng hoà các quan hệ xã hội 14
Chương 3: Tư tưởng chiến lược con người hiện nay ở nước ta 20
kết luận 24
Danh mục tài liệu tham khảo
2
Tiểu luận học phần
A. MỞ ĐẦU
Con người là một vấn đề muôn thuở, một đề tài tưởng chừng đã cũ nhưng luôn
luôn mới, một đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, mà như Mác đã dự
báo, trong tương lai mọi khoa học đều gặp nhau ở một khoa học cao nhất – đó là khoa
học về con người. Càng tiến về phía trước để chinh phục giới tự nhiên bao nhiêu, con
người càng cảm thấy sự nghèo nàn, thiếu hụt, hời hợt của mình bấy nhiêu trong giải
thích, tìm hiểu, trong nghiên cứu và khám phá bản thân mình. Ngày nay, cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ ngày càng phát triển mạnh mẽ thì vấn đề con người càng
nổi lên cấp bách, mang tính thời sự, tính nhân loại, toàn cầu, đòi hỏi phải có sự nghiên
cứu sâu sắc, nhận thức đúng, đầy đủ về vấn đề con người.


Con người là mối quan tâm hàng đầu của hầu hết các môn khoa học, đặc biệt là
các khoa học xã hội và nhân văn. Mặc dù phương pháp nghiên cứu và tiếp cận vấn đề
của các môn khoa học riêng biệt có khác nhau, song phải thừa nhận rằng, đối tượng và
chức năng nghiên cứu của các môn khoa học đó không có gì khác ngoài con người và
nhằm phục vụ con người. Khác với những môn khoa học khác, nghiên cứu con người
ở những góc độ riêng, triết học nghiên cứu con người ở góc độ chung nhất, khái quát
nhất. Triết học cũng như các ngành khoa học nhân văn đều có trách nhiệm vươn tới
hoàn thiện sự hiểu biết về con người, và những gì liên quan tới cuộc sống con người.
Khoa học kĩ thuật càng phát triển, loài người có điều kiện hiểu về mình càng rõ hơn.
Con người là chủ thể sáng tạo của mọi sáng tạo, của phát triển và tiến bộ. Vì vậy, hơn
bao giờ hết, việc nghiên cứu con người hoặc chăm lo lợi ích con người phát huy yếu tố
con người có ý nghĩa lớn lao trong sự đổi mới toàn diện nước ta.
Luận điểm của Mác về con người viết trong tác phẩm “Luận cương về Phơ
bách” (1845) “trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những mối
quan hệ xã hội” là định nghĩa về con người chứa đựng tính nhân đạo cao cả, cho đến
nay nó còn nguyên giá trị về lí luận và tư tưởng, soi sáng về phương pháp luận để
chúng ta nghiên cứu về con người - vấn đề trọng tâm của mọi khoa học, để đi tới mục
tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người và giải phóng nhân loại. Thời gian gần
đây, những biến động lớn lao trên các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng làm cho vấn
đề con người trở nên sôi động và bức xúc. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới hướng
mục tiêu vào chiến lược con người ở nước ta, việc nghiên cứu bản chất con người
trong vấn đề giáo dục nhân cách có ý nghĩa thời sự, cấp bách.
3
Tiểu luận học phần
B. Nội dung
Chương 1: Tư tưởng về con người trong lịch sử
triết học trước Mác
Trong suốt quá trình phát triển lâu dài của nhân loại, phạm trù con người trong
triết học được đặt ra là một vấn đề lớn, lôi cuốn tư duy triết học của mọi thời đại đầu
tiên của lịch sử, trong cả nền triết học phương Đông và triết học Hy Lạp cổ đại. Mỗi

giai đoạn lịch sử lại đặt ra những vấn đề mang tính thời đại khác nhau và cách giải
quyết khác nhau. Chính vì thế mà vấn đề con người vẫn là đề tài mới mẻ và sẽ không
bao giờ kết thúc. Nền văn hoá văn minh của mọi thời đại góp thêm những “hạt” giá trị
mới trong nhận thức về bản chất con người. Vấn đề con người – trên mọi góc độ khác
nhau - từ lâu đã trở thành đối tượng, khách thể của mọi khoa học, trong hình thái triết
học cổ đại Hy Lạp, La Mã, Trung Quốc hay ở các hình thức triết học cổ điển của Đức,
Anh, Pháp, người ta đều có thể tìm thấy những vấn đề khác nhau về con người. Các
nhà triết học trước đây đã cố gắng tìm kiếm sự khác biệt cơ bản của con người với các
loài vật, và đưa ra mọi quan niệm khác nhau về con người. Song, trước Mác, Triết học
đã không nhận thấy được mọi hoạt động và khả năng quy định bản chất con người chỉ
được hình thành, phát triển và hoàn thiện trong các quan hệ xã hội, trong lao động sản
xuất; Triết học đó vẫn chưa có một sự lí giải khoa học thoả đáng về con người, mà
phiến diện, rơi vào chủ nghĩa duy tâm thần bí siêu hình, qui đặc trưng bản chất con
người vào lĩnh vực tư tưởng, hoặc xem bản chất con người được quyết định sẵn từ
những lực lượng siêu nhiên.
1.1. Tư tưởng con người trong lịch sử Triết học Phương Đông
- Vấn đề con người trong triết học Trung Hoa cổ đại
Các nhà tư tưởng của triết học Trung Hoa cổ đại hầu như đều tập trung bàn đến
con người. Họ không tách con người ra khỏi thế giới; Xem con người là một phần của
tự nhiên, hoà đồng với tự nhiên, chú ý và nhấn mạnh đến mặt xã hội nhân sinh của con
người. Khi bàn đến các nội dung này, họ đều mong muốn lập một trật tự xã hội mới.
Khi bàn đến con người, Khổng Tử cho rằng: “người là cái đích của trời đất,
trước hết là sự giao hợp của âm dương, là sự hội tụ của quỷ thần, là khí tinh tú của ngũ
hành”. Còn Lão Tử cho rằng: Con người và vật chất là do “Đạo” sinh ra. Trong mối
quan hệ con người và xã hội thì Lão Tử lại xây dựng học thuyết con người vô vi, bất
tranh, thụ động trước mọi thế lực thù địch.
4
Tiểu luận học phần
Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc còn có Mặc Tử với thuyết “Kiêm ái”. Ông là
người đầu tiên đã lấy lao động làm cái để phân biệt sự khác nhau giữa con người và

con vật, đồng thời ông cũng là người đầu tiên chủ trương xây dựng một hình tượng
con người với đầy đủ các mối quan hệ kinh tế lẫn quan hệ tinh thần trong đời sống xã
hội. Dù còn nhiều ảo tưởng và duy tâm, song học thuyết về con người của Mặc Tử có
nhiều tiến bộ.
Có thể nói, triết học Trung Hoa cổ đại chú ý đến con người xã hội hơn con
người tự nhiên, con người đạo đức hơn con người trí tuệ. Vấn đề con người được bàn
đến ở đây chủ yếu đều thiên về mặt đời sống tinh thần. Tuy có nhiều mặt tiến bộ, song
nó không thoát ly khỏi đường lối triết học duy tâm, do đó không đem lại cách giải
thớch đúng cho con người.
- Vấn đề con người trong triết học ấn Độ cổ đại
Trong triết học ấn Độ cổ đại, vấn đề con người được thể hiện rõ ở hệ thống
không chính thống, trong đó Phật giáo là một khuynh hướng nổi tiếng của ấn Độ. Phật
giáo có cái nhìn duy vật về con người, cho con người là nguyên nhân chính của họ.
Phật giáo cũng thấy được sức mạnh của con người, con người tự chịu trách nhiệm về
mình, tự giải thoát cho mình chứ không nhờ một lực lượng nào khác ở bên ngoài bản
thân con người, đồng thời luôn đề cao con người, hướng con người tới cuộc sống thiện
đúng như bản tính vốn có của nó.
Tuy nhiên, khi giải thích nguồn gốc cá nhân của con người, triết học Phật giáo
chưa nhận thấy nguồn gốc của con người là thoát thai từ động vật. Phật giáo không
thừa nhận con người là một thực tại khách quan vì nó là “vô thường”, “vô ngã” là “giả
tượng”.
Nói chung, Phật giáo có nhiều quan điểm tích cực. Song Phật giáo không hiểu
được con người là một thực thể sinh học – xã hội, chỉ chú ý đến đời sống tinh thần mà
không quan tâm đến quan hệ vật chất nên cách giải thớch con người của Phật giáo còn
nhiều sai lệch. Đạo Phật đã không giải quyết triệt để vấn đề mà triết học lâu nay
thường đặt ra: bản chất con người là gì?
1.2. Tư tưởng về con người trong triết học phương Tây
- Vấn đề con người trong triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại
Các đại biểu đầu tiên của chủ nghĩa duy vật cổ đại đã xem xét con người ở tính
tồn tại hiện thực của nó. Bản chất con người như một nhân tố cấu thành tồn tại nói

5
Tiểu luận học phần
chung, là một phần của tự nhiên. Nói cách khác, con người là một vũ trụ thu nhỏ lại, là
bản sao vũ trụ lớn, là sự phản ánh (bản toát yếu) của vũ trụ lớn. Cũng như mọi vật
khác, con người đều bắt nguồn từ một bản nguyên vật chất xác định như: nước (theo
Ta-lét) hoặc không khí (theo A-naximen) hoặc lửa (theo Hêracơlít) hay một dạng
Apeuron (như Anaximăngđrơ).
Tuy các quan niệm trên rất thơ ngây, nhưng đã nhấn mạnh nguồn gốc con
người là một dạng vật chất cụ thể chứ không phải do thần thánh sinh ra. Những quan
niệm này đã đặt nền móng cho sự phát triển của các tư tưởng duy vật trong triết học
sau này.
- Vấn đề con người trong triết học thời kì Phục Hưng và cận đại
Vấn đề con người trong triết học thời Phục Hưng và cận đại trở thành trung tâm
của các triết học. Đối lập với thế giới quan tôn giáo hạ thấp con người, coi con người
là một sinh vật thụ động chỉ biết thờ phụng chúa và cầu mong được chúa rửa tội, triết
học thời kỳ này chứng minh sức mạnh của con người, đấu tranh cho sự giải phóng con
người và những tư tưởng nhân đạo được phát triển. Đại biểu cho thời kỳ khai sáng là
triết gia Nicôlai Ku-dan. Mặc dù có những điểm tích cực, song yếu tố duy vật xen kẽ
yếu tố duy tâm, xu hướng vô thần biểu hiện dưới cái vỏ phiếm thần là một đặc điểm
nổi bật trong triết học thời kỳ này nói chung, tư tưởng về con người nói riêng.
Thời cận đại tư tưởng triết học hướng về đề cao quyền tự nhiên của con người,
bản chất sâu xa của con người (bản nguyên). Đại biểu tiêu biểu đó là Hốp-xơ, Xpi-nô-
da; Đề-các…
Tóm lại, triết học thời kỳ Phục Hưng và cận đại là một bước phát triển mới về
tư tưởng con người. ở đây, con người được giải thích như là một hiện tượng sinh học
và chúng là tuyệt tác của tạo hoá. Con người được xem xét trong mối quan hệ với đời
sống hiện thực, đề cao con người với tư cách là một cá nhân tích cực, trong đó con
người được hoàn thiện cả về mặt thể xác và thể lực, mặt trí tuệ và mặt nhân đạo của
con người được đề cao. Tuy nhiên, những quan niệm về con người ở đây chúng ta đều
thấy nét đặc trưng khái quát của nó là tính chất máy móc, siêu hình.

- Vấn đề con người trong triết học cổ điển Đức
Có thể nói, triết học cổ điển Đức là một bước tiến mới về chất so với các tư
tưởng triết học trước đó. Triết học đã đề cao vai trò tích cực của hoạt động con người,
coi con người là một thực thể hoạt động, là chủ thể đồng thời là kết quả của quá trình
6
Tiểu luận học phần
hoạt động của chính mình. Ở đây diễn ra cuộc đấu tranh trong chủ nghĩa duy vật (đại
biểu là Phơ Bách) và chủ nghĩa duy tâm (đại biểu là Hêghen), trong phương pháp biện
chứng (đại biểu là Hêghen) và phương pháp siêu hình (đại biểu là Phơ Bách). Theo
Hêghen, con người là sản phẩm và là giai đoạn phát triển cao nhất của “ý niệm tuyệt
đối”, con người là sự tha hoá “ý niệm”. Hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của
con người là công cụ để “tinh thần tuyệt đối” nhận thức chính bản thân mình và trở về
với bản thân mình. Như vậy, ông đã thấy mối quan hệ giữa con người và xã hội.
Ngược lại, Phơ Bách cho rằng con người như một sinh vật có cảm giác, biết tư duy, có
ham muốn, có ước mơ, là một bộ phận của giới tự nhiên và xét theo bản chất của nó là
tình thương. Con người mà ông quan niệm là một cá nhân trừu tượng, mang tính chất
sinh – lí thụ động, bị tách khỏi những điều kiện kinh tế - lịch sử, ngoài các quan hệ
giai cấp, Phơ-bách chưa thấy rõ mặt xã hội của con người.
Như vậy, triết học cổ điển Đức đã đề cập đến bản chất, nguồn gốc của con người
cũng như vị trí, vai trò của họ đối với thế giới. Mặc dù còn những hạn chế (biện chứng
nhưng duy tõm, duy vật nhưng siờu hỡnh), nhưng triết học cổ điển Đức đã đem lại một
cách nhìn mới về con người so với các thời kỳ lịch sử trước đây.
Nhìn chung, tư tưởng về con người trong lịch sử triết học trước Mác đã nêu trên
đây nổi lên tính phiến diện hoặc sai lầm nhưng đã biểu hiện được qui luật khách quan.
Triết học phân tâm học của Phơ rớt (1856 - 1939) nhìn nhận con người như một cá thể
sinh vật đối lập với xã hội và coi sức mạnh của con người là sức mạnh của bản năng
vô thức, trong đó cái đam mê tình dục giữ vai trò chủ đạo. Bên cạnh đó, một số nhà
Triết học tư sản hiện đại và chủ nghĩa sinh học xã hội đã đưa ra quan niệm của mình
về con người. Các-náp, một đại diện của trường phái vật lý trong triết học đã cho rằng:
“Con người về nguyên tắc không phân biệt với tự nhiên, đó là một khách thể vật lý”.

Uy-Sơn, người theo thuyết học – xã hội đã nhấn mạnh: “Ngọn nguồn cái bản chất của
con người là cái sinh vật”. Theo ông thì 70% những đặc tính được xây dựng nên ở con
người là do khả năng bẩm sinh, còn 30% là do xã hội. G.Spen-ser đã tuyệt đối hoá tầm
quan trọng đặc biệt yếu tố sinh học trong bản chất con người. Ông cho rằng: “Hành vi
của con người về nguyên tắc không có gì khác với hành vi con vật. Tiền đề của hành
vi đạo đức có trong mỗi động vật”. Còn Kiếc-cô-gơ, ông tổ của chủ nghĩa hiện sinh,
người Đan Mạch lại cho: “Bản chất của con người là một thứ phù du”. Nhà triết học
Đức Nitxơ định nghĩa: “Bản chất của con người là bạo hành và sáng tạo”. Còn
7
Tiểu luận học phần
C.herrick lại quan niệm: “Tất cả những gì của con người do bẩm sinh mà có thì không
bị thay đổi do các điều kiện xã hội”.
Tất cả những quan điểm đú đều nhấn mạnh yếu tố sinh học mà bỏ qua hoặc
chưa chú ý đến mặt xã hội, môi trường hoàn cảnh tác động đến việc hình thành con
người, đó là tính phiến diện phi Mỏc xớt. Toàn bộ tư tưởng về con người của các nhà
triết học phi Mác-xít vẫn nổi lên tính phiến diện khi nghiên cứu con người. Bằng cỏch
phờ phỏn và kế thừa có chọn lọc, bổ sung, phát triển các tư tưởng triết học của các nhà
tiền bối, triết học C.Mác ra đời đã khắc phục được những hạn chế trên, đồng thời đưa
ra một tư tưởng mới về con người. Vì vậy, quan niệm về con người của C.Mác là một
bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử triết học từ trước đến nay. Mọi nhà Triết học trước Mác
đã đề cập đến vấn đề con người theo những cách khác nhau, nhưng chỉ đến Triết học
Mác mới xem xét vấn đề con người một cách nhất quán, đầy đủ và sâu sắc trên quan
điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, triệt để và khoa học.
8
Tiểu luận học phần
Chương 2: Tư tưởng của Mác về bản chất con người
2.1. Tính hiện thực của bản chất con người.
Sở dĩ, khi bàn đến con người, C.Mác đã đặt trong tính hiện thực bởi vì: trong
triết học cổ điển Đức, con người được xem xét một cách sai lệch. Hê-ghen đã quan
niệm duy tâm về con người, cho con người là hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”, “tinh

thần thế giới”, còn Phơ-bách lại tách con người ra khỏi đời sống xã hội, qui tính sinh
vật vào bản chất con người. Để chống lại các quan điểm sai lầm đó, C.Mác đã xem xét
con người trong tính hiện thực của nó. Mặt khác, trong triết học C.Mác, vấn đề thực
tiễn là điểm xuất phát có tính chất nền tảng.
Trong hoạt động thực tiễn, bằng trí tuệ thiên tài của mình, C.Mác đã từng bước
chuyển từ chủ nghĩa duy tâm của Hêghen sang chủ nghĩa duy vật của Phơbách. Ông
đã kế thừa có chọn lọc những giá trị tinh tuý của nền Triết học trước đó và giữ lấy
“nhân hợp lí” của sự phát triển trong dòng chảy liên tục của Triết học. Đồng thời, Mác
đã vượt qua những hạn chế của các nhà Triết học trước Mác hoặc cùng thời, phát hiện
phương pháp nghiên cứu hiện thực mới, làm cơ sở phương pháp luận, không chỉ riêng
Mác xít mà còn cho cả các ngành khoa học cơ bản. Phát hiện lớn của Mác đó là thấy
được con người trong hoạt động thực tiễn, thông qua thực tiễn con người làm biến đổi
đời sống xã hội, đồng thời làm biến đổi chính bản thân mình. Nói cách khác, con
người có khả năng cải tạo thế giới và cải tạo mình thông qua hoạt động thực tiễn. Hoài
bão lí tưởng của Mác là vì con người và sự nghiệp giải phóng giai cấp, xã hội, giải
phóng cho mỗi người lao động khỏi áp bức, bóc lột bất công. Trong “Tuyên ngôn
Đảng Cộng Sản” Mác viết: “Thay cho xã hội Tư sản cũ, với những giai cấp và đối
kháng giai cấp của nó, xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Đó là tư tưởng nhất
quán, là sợi chỉ đỏ, xuyên suốt Triết học Mác.
Mác đặt con người vào thực tiễn để khảo sát, nghiên cứu. Vì vậy, con người
trong Triết học Mác là con người hiện thực, được cấu thành bởi hai mặt tự nhiên và xã
hội, hai mặt đó tồn tại song trùng trong con người và có mối quan hệ biện chứng, trong
đó mặt xã hội là mặt chủ yếu, mặt quyết định bản chất con người.
Để làm rõ vai trò to lớn của nhân tố con người, Mác và Ăng ghen đã xuất phát
từ những tiền đề hiện thực; Tiền đề đầu tiên là con người là phải có khả năng sống, sau
đó mới có thể làm ra sản phẩm vật chất và tinh thần. Nói cách khác, con người muốn
sáng tạo ra lịch sử thì trước hết phải tồn tại, phải lao động sản xuất thoả mãn nhu cầu
9
Tiểu luận học phần

ăn, mặc, ở Tiền đề thứ hai là sự vận động và phát triển của nhu cầu đã thúc đẩy sự
phát triển của xã hội. Sự sản sinh những nhu cầu mới này, theo Mác và Ăng ghen là
hành vi lịch sử đầu tiên. Tiền đề thứ ba là sự tái tạo ra bản thân con người thông qua
việc “sinh con đẻ cái” cũng là nhu cầu sống còn để duy trì nòi giống, nhằm đảm bảo sự
tồn tại, phát triển bình thường của xã hội. Cũng bằng chính những hoạt động thực tiễn
này, con người phát triển tính xã hội của mình, tất cả những hoạt động đó không phải
là hoạt động bản năng, hoạt động đơn thuần sinh vật mà nó đã mang tính xã hội.
Trong “Luận cương về Phơ - bách” C.Mác đã nhấn mạnh đến vai trò của thực
tiễn: “Các nhà triết học trước kia chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau
song vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới”. Và cũng trong tác phẩm này, Mác đã khẳng định
về bản chất con người: “Bản chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của
cá nhân riêng biệt, trong tính hiện thực của nó, bản chất con người tổng hoà các mối
quan hệ xã hội”. Với định nghĩa này, Mác đã đưa ra phạm trù “con người thực tiễn”,
không phải là cái nhìn trừu tượng mà là cụ thể - cảm tính, được đặt vào trong hoạt
động sản xuất thực tiễn, xem xét trong mối quan hệ không tách rời với tự nhiên, xã
hội. Con người là một sinh vật, cũng có nghĩa con người là một bộ phận của tự nhiên,
gắn bó với quá trình hình thành và phát triển của tự nhiên. Song đó là một thực thể tự
nhiên luôn hoạt động và chứa đựng trong mình những khả năng to lớn về sự phát triển.
Theo Mác thì con người là kết quả của lịch sử phát triển vật chất - giới tự nhiên.
Trong “Bản thảo kinh tế – triết học” – 1844 C.Mác viết: “Con người là một sinh vật
có “tính loài” giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người Vì con người là một bộ
phận của giới tự nhiên”. Con người muốn phát triển và tham gia vào các hoạt động xã
hội, trước hết phải tồn tại, phải được thoả mãn các tiền đề về tự nhiên như một cá thể
sinh vật – xã hội. Điều tất yếu đó vốn có từ xa xưa trong lịch sử, vẫn tồn tại tự nhiên
nhưng bị che khuất bởi tất cả những giải thích tôn giáo thần bí của các thế lực thống trị
mà thực chất là sự trốn chạy khỏi hiện thực. Chỉ khi nào giải quyết được thoả đáng
những tiền đề tự nhiên con người mới có cuộc sống và yên tâm bước vào địa hạt của
hoạt động sáng tạo. Ở đây, tính biện chứng thể hiện: trong quá trình tồn tại, con người
đã không ngừng sáng tạo, hoạt động thực tiễn của con người càng đi sâu bao nhiêu,
càng sáng tạo bao nhiêu thì nó càng xuất hiện những tiền đề bản năng ban đầu, đem

vào cho con người bản chất người hơn bấy nhiêu. Trong đó, đáng chú ý nhất là hoạt
động sản xuất vật chất và những lợi ích của vật chất mà nó thu được trong hoạt động
sản xuất vật chất đó.
10
Tiểu luận học phần
Khi nghiên cứu con người, Mác đã không hề phủ nhận tự nhiên, không hề gạt
bỏ cái sinh vật của con người. Theo Mác, nếu nghiên cứu con người và giải quyết các
vấn đề con người thì sẽ chỉ là ảo tưởng và duy tâm. Trong “Hệ tư tưởng Đức” – 1848,
Mác đã viết: “Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì tự nhiên là sự tồn tại
của những cá nhân con người sống. Vì vậy, điều đầu tiên cần phải xác định là tổ chức
cơ thể của những cá nhân ấy trong mỗi quan hệ mà tổ chức cơ thể ấy tạo ra trong họ
với phần còn lại của tự nhiên”. Tự nhiên là một phần cơ thể con người, là môi trường,
là điều kiện để con người tồn tại và phát triển. Con người tìm trong tự nhiên những
điều kiện sống và những yếu tố vật chất cho sự sinh tồn của mình. Trong quá trình
phát triển, con người không ngừng tác động vào giới tự nhiên, cải biến nó theo những
nhu cầu sáng tạo của mình và đã tạo ra một “tự nhiên thứ hai.” Trong “Biện chứng của
tự nhiên”, Ăngghen khẳng định “chỉ có con người mới đạt được tới chỗ in cái dấu ấn
của mình lên giới tự nhiên”.
Con người là một sinh vật đặc biệt phát triển tới đỉnh cao của sự tiến hoá, sinh
vật – xã hội. Hoàn toàn khác với giới sinh vật thuần tuý mà ở đó bản năng thống trị, con
người đã vượt qua giới hạn bản năng ban đầu, biết tư duy sáng tạo, biết hoạt động lao
động để đảm bảo cho sự tồn tại của chính bản thân mình. Chính trong quá trình lao
động, con người đã thể hiện hoạt động sáng tạo của mình và đã để lại dấu ấn ngày càng
nhiều trong thế giới hiện thực. Con người là chủ thể đã tạo ra mọi giá trị vật chất của thế
giới. Nhưng kết quả lao động sáng tạo của con người “chỉ có thể biến mất đi cùng với sự
diệt vong của trái đất”. Qua quá trình sáng tạo và làm biến đổi tự nhiên, con người đã
tìm thấy được mình, tìm thấy sức mạnh để cải tạo xã hội và dung nạp vào nó ngày càng
nhiều hơn những giá trị chung của văn hoá nhân loại. Trong tác phẩm “Tư bản – phê
phán khoa kinh tế chính trị” 1859, Mác đã chỉ ra “lao động trước hết là quá trình diễn
ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình

con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên
Trong khi tác động vào tự nhiên ở bên ngoài thông qua sự vận động đó và làm thay đổi
tự nhiên, con người cũng đồng thời làm thay đổi bản tính của chính nó”. Chính thông
qua hoạt động thực tiễn, lao động sản xuất, con người đã hình thành nên tính xã hội
trong bản thân, con người thực sự trở thành người, đồng thời mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên đã chuyển sang mối quan hệ giữa con người với con người. Ăngghen
viết: “Trên một định nghĩa nhất định nào đó, chúng ta phải nói rằng “lao động sáng
tạo ra bản thân con người”. Nhờ lao động loài người đã trải qua những biến đổi về mặt
11
Tiểu luận học phần
sinh học, đồng thời xét đến cùng, lao động đã hình thành nên bản chất con người và qui
định phẩm chất xã hội đặc biệt của con người trong những điều kiện lịch sử cụ thể”.
Thiên tài của Mác là đã vượt qua được những hạn chế trong lịch sử, khắc phục ,
loại bỏ được những thiếu sót, những yếu tố sai lầm của các quan niệm Triết học trước
kia về bản chất con người, nhận thức đúng đắn và khoa học về bản chất con người.
Mác không chỉ đưa ra những dấu hiệu bản chất để phân biệt con người với thế giới
loài vật mà còn vạch ra cái bản chất cụ thể xác định của con người, đặt con người vào
trọng tâm của quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Con người cũng là một thực thể
xã hội, vì con người có ngôn ngữ, có tư duy, biết lao động và có những mối quan hệ
giao tiếp trong đời sống, điều đó con vật không thể có được. Đó là bản chất xã hội của
con người. Dĩ nhiên khi sinh ra, con người cần có những tiền đề để tồn tại, đó là tiền
đề vật chất. Chỉ có thông qua hoạt động xã hội, mà chủ yếu là lao động sản xuất, tiền
đề đó mới được đáp ứng. Vì vậy, qua lao động sản xuất, con người mới tạo ra của cải
vật chất để nuôi sống mình, cải tạo thế giới, đồng thời làm biến đổi mặt sinh vật của
con người, làm cho mặt sinh vật được “người hoá”. Như vậy, lao động sản xuất như là
một chuẩn mực để phân biệt con người với con vật. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng
Đức”, C.Mác và Ăngghen viết: “Bản thân con người bắt đầu tự phân biệt với súc vật
ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế
là con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”. Và trong
“Bản thảo kinh tế - Triết học” 1844, C. Mác khẳng định: “Con người có một hoạt động

sinh sống có ý thức. Đó không phải là cái có tính quyết định mà với nó con người trực
tiếp hoà làm một. Như vậy, hoạt động xã hội của con người chủ yếu là lao động sản
xuất, hoạt động cải tạo thế giới đã làm thành “người hoá”. Chính toàn bộ sự hoạt động
ấy đã làm cho những nhu cầu sinh vật ở con người trở thành nhu cầu xã hội”.
Con người là bước tiến hoá quyết định từ động vật. Cái logic mà Triết học Mác
đưa ra là: con người trước hết là con người sinh vật, rồi sau đó là con người xã hội.
Trong các tác phẩm của mình, Mác – Ăngghen đã khẳng định rằng: con người đã bước
từ thế giới động vật sang thế giới con người. Con người vốn thoát thai từ động vật khi
trình bày nguồn gốc của con người, Ăngghen đã phân tích rất kĩ nguồn gốc tự nhiên
của con người, đó là kết quả của sự tiến hoá lâu dài của giới tự nhiên. Chính tự nhiên
đã tạo ra tiền đề sinh vật đầu tiên cho sự ra đời của con người. Theo Ăngghen, con
người không phải do thần thánh hay một đấng tối cao nào đó sáng tạo ra mà con người
có nguồn gốc từ động vật. Ông quả quyết rằng: “Không thể phủ nhận cái sự thật là
12
Tiểu luận học phần
loài người bắt đầu từ thú vật, và vì vậy mà đã phải dùng đến những thủ đoạn dã man,
gần như có tính chất thú vật, để thoát ra khỏi tình trạng dã man”.
Điều đó đã được khoa học chứng minh. Ở góc độ này, không còn nghi ngờ gì
nữa là: con người là một thực thể tự nhiên. Trong giới tự nhiên bao la, vô cùng, vô tận,
phong phú và đa dạng thì con người đã tồn tại với tư cách là “một bộ phận của giới tự
nhiên” sự vận động, phát triển và sinh tồn của con người không thể tách rời với quá
trình vận động, phát triển của giới tự nhiên. Đúng như Mác đã nhận định: giới tự nhiên
là môi trường tồn tại và hoạt động của con người. Tự nhiên là thân thể của con người
và con người là thực thể của tự nhiên. Với tư cách là một thực thể tự nhiên (sinh vật),
con người biểu hiện bản chất song trùng của mình ở chỗ: nó thống nhất hữu cơ trong
bản thân nó cái sinh vật (tự nhiên) với cái xã hội (lịch sử).
Trong quá trình tiến hoá của tự nhiên nói chung và của bản thân giới động vật
nói riêng, nhờ có lao động và ngôn ngữ, con người đã thể hiện được bước nhảy vọt căn
bản về chất. Đó là chuyển từ động vật với sự thống trị của bản năng thành động vật xã
hội có ý nghĩa. Là con người, tuy nhiên, khi mới tách khỏi thế giới động vật thì con

người “còn là nửa động vật, thô lỗ, còn bất lực trước những lực lượng của chính mình;
vì vậy họ cũng nghèo như động vật và cũng không hơn động vật mấy về sức sản xuất”.
Lao động là nguyên nhân sâu xa dẫn tới sự chuyển hoá từ vượn thành con
người. Lao động sản xuất còn là tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, của
lịch sử. Quyết định luận mà Mác đã chỉ ra là: con người muốn sống được, trước hết
phải được thoả mãn những nhu cầu tất yếu như: ăn, ở , mặc, đi lại theo đó thì hành vi
lịch sử đầu tiên của con người là lao động sản xuất ra những tư liệu tiêu dùng để thoả
mãn những nhu cầu ấy của mình. Đó không chỉ là điều kiện cơ bản cho sự tồn tại và
hoạt động sống của con người từ hàng nghìn năm về trước mà còn là điều kiện cơ bản
cho sự tồn tại và phát triển của con người và loài ngừơi hiện nay và mãi mãi sau này.
Rõ ràng, xem xét ở góc độ này thì con người không chỉ là một thực thể tự nhiên
mà còn là một thực thể xã hội. Ở con người, cái sinh vật và cái xã hội thống nhất hữu
cơ với nhau, là tiền đề và điều kiện của nhau trong sự hình thành, phát triển và hoàn
thiện bản chất người của con người xã hội. Như vậy, Triết học Mác đã xem xét con
người như là một thực thể song trùng trên cả hai lĩnh vực tự nhiên và xã hội. Nhờ ưu
thế của tính có ý thức, ý thức điều khiển bản năng mà bản năng người của con người
không còn là một bản năng thuần tuý như động vật. Nó đựơc cải biến theo hướng xã
hội hoá, nhân tính hoá để ngày càng có tính người nhiều hơn.
13
Tiểu luận học phần
Theo C.Mác, hạt nhân của sự thống nhất biện chứng giữa con người và tự nhiên
là vấn đề xã hội bởi vì “bản chất con người của tự nhiên chỉ tồn tại với con người xã
hội vì chỉ có trong xã hội, tự nhiên đối với con người mới là một cái khâu liên hệ con
người với con người, mới là sự tồn tại của con người đối với người khác và sự tồn tại
của người khác đối với người đó, mới là nhân tố sinh hoạt của hiện thực con người chỉ
có trong xã hội, tự nhiên mới hiện ra như là cơ sở của tồn tại có tính chất người của
bản thân con người chỉ có trong xã hội, tồn tại tự nhiên của con người mới là tồn tại có
tính chất người của con người đối với con người và tự nhiên mới trở thành con người
đối với con người”.
C.Mác đặt con người trong tính hiện thực không có nghĩa chỉ dừng lại xem xét

con người trong hoạt động thực tiễn, trong đó quan trọng nhất là hoạt động sản xuất và
hoạt động cải tạo xã hội. ở “lời góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị” Mác viết:
“Con người theo nghĩa đen của nó là một động vật xã hội, không những là một động
vật có tính hợp quần mà còn là một động vật chỉ có thể tách riêng ra trong xã hội mà
thôi”. Ông còn khẳng định: “Trong mọi trường hợp con người đều là một động vật xã
hội”. Trong “Biện chứng của tự nhiên” Ăngghen cũng khẳng định: “Con người đó là
một loài động vật có xương sống mà trong đó giới tự nhiên đạt tới trình độ tự nhận
thức được mình”. Như vậy, con người trong triết học C.Mác là con người hiện thực,
cụ thể – cảm tính. Con người với tư cách là một tổng thể tồn tại bao gồm cả mặt tự
nhiên và mặt xã hội. Đó là một “sinh vật” có tính loài, có ý thức, là “động vật xã hội”,
“động vật chế tạo công cụ” và “tự nhận thức được mình”. Vì vậy con người ở đây là
con người làm chủ tự nhiên và xã hội. Con người đã đặt mọi sự vật hiện tượng của thế
giới hiện thực vào phạm vi nhận thức của mình, do đó nó đã trở thành chủ thể của
nhận thức, đồng thời cũng là khách thể của nhận thức. Ăngghen viết: “Chúng ta phải
xuất phát từ cái tôi, từ con người thực tế, bằng da bằng thịt để không dấu giếm được
gì trong đó, mà là xuất phát từ chúng ta, xuất phất từ đây để đi đến với con người”.
Còn C.Mác lại viết: “Con người hiện thực, con người nhục thể đứng vững trên mảnh
đất vững chắc… thu hút vào mình và tự mình lại toả ra tất cả lực lượng tự nhiên”.
Như vậy, bản chất của con người không phải là một cái gì trừu tượng mà nó có
tính lịch sử – cụ thể, có nghĩa là nội dung của bản chất ấy tuy về căn bản vẫn có tính
xã hội, song nó lại biến đổi tuỳ theo nội dung cụ thể của thời đại, của hoàn cảnh xã hội
– văn hoá và văn hoá sinh hoạt.
2.2. Bản chất con người – Tổng hoà các mối quan hệ xã hội
14
Tiểu luận học phần
Các quan hệ xã hội là những quan hệ giữa những cộng đồng xã hội của con
người, xuất hiện trong quá trình sản sinh và tái sản sinh ra chính bản thân con người
với tư cách là những chủ thể xã hội hoàn chỉnh.
Ngay từ khi còn là học sinh trung học, Mác đã ý thức được rằng: “Một người
chỉ lao động vì mình thôi thì người đó có thể trở nên một nhà bác học nổi tiếng

Nhưng người đó không bao giờ có thể trở thành một con người thật sự hoàn thiện và
vĩ đại Còn nếu người ấy làm nhiều nhất cho nhân loại thì hạnh phúc của người đó
sẽ thuộc về hàng triệu người”. Điều đó có nghĩa là một con người chân chính, theo
Mác, không thể tồn tại đơn độc mà chỉ có trong mối quan hệ với người khác, trong các
mối quan hệ xã hội. Suốt qúa trình nghiên cứu khoa học của mình, Mác đề cập đến con
người không phải như một sinh vật thuần tuý. Theo Mác, con người hiện thực đời sống
sinh vật theo cách của mình, tạo thành văn hoá của một cộng đồng người và của toàn
nhân loại. Mác nêu bản chất con người không phải là một cái nhìn trừu tượng, cố hữu,
riêng biệt mà “trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối
quan hệ xã hội”. Con người chỉ biểu hiện mình trong hoạt động thực tiễn và quan
trọng nhất là trong lao động sản xuất. Muốn thực hiện hoạt động lao động sản xuất để
sinh tồn và phát triển thì buộc con người phải quan hệ với nhau. Trên cơ sở quan hệ
lao động, và chính từ lao động, mới hình thành bản chất xã hội của con người. Bản
thân quá trình lao động, do không chỉ đạt tới những nhu cầu tồn tại, mà còn là phương
thức phát triển nhu cầu sáng tạo của con người. Những quá trình lao động sáng tạo,
con người đã tạo nên những giá trị văn hoá, mặt khác chính những giá trị này tác động
trở lại, hình thành bản chất con người xã hội. Ở đây, Mác đưa khái niệm “tổng hoà”,
không phải giản đơn là số cộng thông thường. Đó chính là sự thu hút, đúc kết những
tinh tuý từ những quan hệ xã hội của con người. Trong quá trình lao động sản xuất, con
người không chỉ tác động vào tự nhiên mà còn tác động lẫn nhau giữa người với người,
nhờ vậy mà hình thành nên các mối quan hệ xã hội. Theo Mác “Muốn sản xuất được,
người ta phải có mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau, và sự tác động của họ vào
giới tự nhiên, tức là việc sản xuất, chỉ diễn ra trong khuôn khổ những mối liên hệ và
quan hệ xã hội đó”. Bằng hoạt động thực tiễn là lao động sản xuất ra “thế giới vật thể”;
cải tạo giới tự nhiên, con người đã tỏ ra là một sinh vật có tính loài, có ý thức. Với tư
cách là một cá thể, một chỉnh thể có ý thức con người không tách khỏi môi trường xã
hội - lịch sử. Khác với những sinh vật thuần tuý bản năng, con người thực sự là một sinh
vật xã hội. Nó đứng trên đỉnh cao của sự tiến hoá giống loài. Là một sinh vật, con người
củng cố bản năng như mọi sinh vật khác. Song là một sinh vật - xã hội, con người có ý
15

Tiểu luận học phần
thức, có năng lực hoạt động tự giác và sáng tạo sức mạnh ấy chỉ riêng con người mới có.
Đó là một hành vi lịch sử - xã hội, là kết quả được tạo ra trong hoạt động thực tiễn và
nhờ thực tiễn - xã hội. Và chính qua những hoạt động đó nền văn hoá cộng đồng người
– nhân loại được hình thành. Con người tồn tại, phát triển trước hết nhờ tác động giữa
con người với tự nhiên, giữa người với người trong muôn vàn mối quan hệ. Xã hội - bất
cứ dưới hình thức nào đều là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người với người.
Từ luận điểm về bản chất xã hội của con người, Mác cho chúng ta thấy rằng
bản chất đó chỉ hình thành và phát triển trong các quan hệ xã hội và tất cả các quan hệ
xã hội được tổng hoà lại thành bản chất con người.
Như vậy, Mác đã vạch rõ yếu tố cấu thành bản chất con người là các quan hệ xã
hội, hơn nữa lại là bản chất xã hội trong tính hiện thực trực tiếp của nó. Trong các tác
phẩm trước đó, Mác đã bàn đến tính xã hội của bản chất con người trong các hoạt
động sống của họ như là những tiền đề đầu tiên của sự tồn tại và sự sáng tạo. C.Mác
nhấn mạnh mặt xã hội, yếu tố đặc trưng trong nhân cách con người - yếu tố đặc thù để
phân biệt con người và con vật vì con người chỉ trở thành người khi cá nhân đó mang
nhân cách. Nhân cách của mỗi cá nhân là sản phẩm của xã hội, nó mang ý nghĩa và
được đánh giá thông qua xã hội. Sự hình thành và phát triển nhân cách thông qua các
điều kiện xã hội - lịch sử cụ thể, phụ thuộc từng giai đoạn lịch sử nhất định của hình
thái kinh tế - xã hội, nhân cách của mỗi con người đều được qui định bởi nhân tố xã
hội, nhân tố sinh vật và nhân tố tâm lý, trong đó nhân tố xã hội đóng vai trò quyết
định. Mác đã chỉ ra rằng: con người hiện thực, cá nhân hiện thực là con người xã hội.
Bản chất của nó là tổng hoà các quan hệ xã hội, gia đình là cấp độ xã hội đầu tiên
trong hệ thống: quan hệ tập thể, quan hệ giai cấp (mang tính lịch sử), quan hệ dân tộc,
tôn giáo và rộng hơn là những quan hệ mang tính nhân loại. Các quan hệ xã hội của
con người hình thành trong con người tham gia vào đời sống xã hội, chủ yếu là tham
gia hoạt động lao động sản xuất. Quan hệ sản xuất là cơ sở của các quan hệ xã hội
khác. Bản chất xã hội của con người là kết quả tạo thành từ các lĩnh vực hoạt động của
con người, con người phản ánh tổng hoà các quan hệ xã hội vào bản thân mình đồng
thời con người thể hiện sự sáng tạo của mình thông qua các quan hệ xã hội đó.

Trong khi khẳng định bản chất của con người là tổng hoà các mối quan hệ xã
hội, Mác đã chỉ ra mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Cá nhân là cá thể mỗi con
người, cá nhân là một phần tử đơn nhất của cộng đồng, cá nhân là chủ thể mang nhân
cách. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện chứng, con người là sản phẩm
của xã hội nên sự phát triển của mỗi cá nhân phụ thuộc vào sự phát triển của xã hội. Sự
16
Tiểu luận học phần
phát triển xã hội là điều kiện để phát triển cá nhân, sự phát triển cá nhân với phát triển
xã hội là thống nhất biện chứng với nhau.
Chủ nghĩa nhân văn là tư tưởng xuyên suốt, thống nhất biện chứng với các tư
tưởng khác và ngày càng đậm nét trong toàn hệ thống lí luận, cũng như trong cả cuộc
đời hoạt động của Mác. Đã có ý kiến cho rằng, chủ nghĩa nhân văn trong Triết học C.
Mác chỉ dừng ở thời C. Mác trẻ và thể hiện đặc sắc nhất ở tác phẩm “Bản thảo kinh tế
- Triết học” năm 1844. Nhưng đó là ý kiến sai lầm. Chủ nghĩa nhân văn của C. Mác
không chỉ dừng ở ý tưởng tốt đẹp mà trở thành hành động cách mạng. Nhân văn không
chỉ là sự tìm ra nguồn gốc tha hoá của con người mà còn là cải tạo, giải trừ sự tha hoá
để con người đạt tới đỉnh cao của mọi giá trị văn hoá có thể nhận thấy rằng, những
quan điểm Triết học của C. Mác về thế giới và về con người trong giai đoạn 1839
-1843 tuy vẫn còn chịu ảnh hưởng của Triết học duy tâm, nhưng ngay trong tác phẩm
“Góp phần phê phán Triết học Pháp quyền của Hêghen” - Lời nói đầu (viết năm 1843
– 1844) đã chứa đựng quan niệm duy vật về lịch sử. Bước chuyển biến có tính cách
mạng, rõ rệt nhất từ thế giới quan duy tâm sang thế giới quan duy vật của C. Mác được
đánh dấu bằng những tác phẩm từ 1844 trở đi. Trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế -
Triết học” năm 1844, “Luận cương về Phơ Bách” năm 1845, C. Mác đã vận dụng phép
biện chứng duy vật vào việc phân tích các mối quan hệ xã hội. Từ đó, C. Mác đã chỉ ra
rằng: con người sẽ không thể tồn tại với tư cách là người nếu tách rời khỏi mối quan
hệ với thế giới xung quanh, với cộng đồng xã hội và với người khác. Hệ thống các mối
quan hệ xã hội và các mối giao lưu đó không phải là cái trừu tượng, xa lạ mà được tạo
nên bởi chính các hoạt động thực tiễn của con người, do con người sản sinh ra. Tổng
hoà các mối quan hệ xã hội – cái được tạo nên bởi hoạt động đời sống vật chất của con

người - đến lượt nó lại quy định hoạt động đời sống xã hội và do đó quy định bản chất
xã hội của con người. C. Mác viết “xã hội sản xuất ra con người với tính cách là con
người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế”. Rõ ràng là, muốn hiểu được
con người và đời sống của con người phải hiểu được vấn đề quan hệ giữa con người
với thế giới xung quanh, với xã hội và với chính bản thân mình. Trong nhiều tác phẩm
khác nhau, C. Mác và Ăngghen cho rằng: trong quá trình hoạt động của mình, con
người đã khách thể hoá lực lượng bản chất của mình vào tự nhiên thuần tuý, tạo nên
thiên nhiên thứ hai, cái thông thường gọi là văn hoá. Chỉ nhờ môi trường văn hoá này
mới hình thành nên ý thức, cảm xúc, mới hình thành nên nhân cách, mới làm cho con
người trở thành người thực sự. Đặc biệt coi trọng vấn đề nhân cách, Mác cho rằng: bản
chất con người chính là nhân cách, nhân cách tìm thấy bản chất trong các mối quan hệ
17
Tiểu luận học phần
xã hội. Nội dung của nhân cách nằm trong nội dung của các mối quan hệ xã hội. Vì
vậy, muốn có cái khách quan của nhân cách, con người phải có sự nhập thân vào các
mối quan hệ xã hội hiện thực, những mối quan hệ nội tại mang tính chất xã hội của nó.
Quá trình nhập thêm vào các mối quan hệ xã hội chính là quá trình cá thể hoá (cá tính
hoá), con người phải lĩnh hội các mối quan hệ đó. Trong khi tham gia các mối quan hệ
xã hội, gánh vác những nhiệm vụ xã hội, nhân cách được hình thành, phát triển và có
vai trò nhất định trong các mối quan hệ xã hội mà cá nhân đã gia nhập, vận hành.
Trong cơ chế hình thành và phát triển nhân cách (bản chất) con người có mối quan hệ,
tác động qua lại một cách biện chứng giữa chủ thể và khách thể. Quá trình xã hội hoá
không thể phủ nhận, gạt bỏ cá tính, sự phát triển tự do của mỗi cá nhân. Mặt khác, con
người phát triển không thể với tư cách là một nhân cách nếu tách rời xã hội người,
tách rời mối quan hệ xã hội, trong đó có sự tác động của giáo dục. Trong quá trình
sống hoạt động thực tiễn của mỗi người đều chịu sự tác động của một hệ thống các
nhân tố. Mỗi con người (gắn với nhân cách của họ) tồn tại với hai tư cách: là thực thể
xã hội và là một giá trị xã hội, gía trị làm người. Thực thể xã hội nói lên bộ mặt tâm lí
xã hội của cá nhân ấy, đó là những thuộc tính tâm lý vừa đặc trưng cho cá nhân đồng
thời lại mang những ý nghĩa xã hội. Còn giá trị xã hội, giá trị làm người của nhân cách

lại mang trong nó những tiêu chuẩn đánh giá của xã hội. Nhân cách mỗi người
“khoác” vào nó giá trị xã hội, mà giá trị xã hội lại được đánh giá theo tiêu chuẩn,
chuẩn mực quy định của xã hội. Trong từng thời kì lịch sử cũng như ở mỗi xã hội đều
có những chuẩn mực và sự đánh giá nhân cách nhất định.
Trước Mác, Triết học đã không nhận thức được mọi hoạt động và khả năng quy
định bản chất con người chỉ được hình thành, phát triển và thể hiện trong các quan hệ
xã hội, trong lao động sản xuất. Theo Mác, tất cả những quan hệ xã hội được tổng hoà
để trở thành bản chất người và chỉ có ở con người được xem như là một sinh thể biết
tư duy, biết hoạt động sáng tạo và có khả năng nhận thức, cải tạo thế giới hiện thực và
cải tạo chính bản thân mình. Tính chất quan hệ và những khả năng đó không thể có ở
bất kì sinh vật nào khác. Trong tác phẩm Triết học đầu tay – “Gia đình thần thánh” -
C. Mác và Ăngghen đã chỉ ra rằng, con người chỉ tồn tại thực sự khi đặt trong mối
quan hệ với cộng đồng, xã hội; nếu bị tách rời ra khỏi quan hệ hữu cơ ấy thì con người
sẽ chẳng còn ý nghĩa gì. Xã hội và quan hệ xã hội là điều kiện để con người thể hiện
những bản tính, phương pháp và tư duy sáng tạo của mình. “Nếu như con người là do
hoàn cảnh tạo nên thì phải tạo ra những hoàn cảnh hợp tính người. Nếu như con người,
bẩm sinh ra, đã có tính xã hội thì do đó chỉ có trong xã hội, con người mới có thể phát
18
Tiểu luận học phần
triển bản tính thực sự của mình và lực lượng của bản tính của con người phải được
đánh giá trong căn cứ vào lực lượng của cá nhân riêng lẻ mà căn cứ vào lực lượng của
toàn xã hội”.
Khi đặt con người trong mối quan hệ với xã hội, con người hành động, Triết
học Mác đã thể hiện rõ là Triết học con người mang tính hiện thực trong cải biến cách
mạng, trong sáng tạo, giải phóng, tự do của nó. Bản chất và sự thể hiện bản chất của
con người hoàn thành không đồng nhất. Bản chất của con người không phải là bất
biến. Nó không ngừng thay đổi bởi vì các quan hệ xã hội đã tạo ra nó luôn biến đổi
không ngừng tuỳ theo các thời kì lịch sử.
Nghiên cứu những vấn đề trên đây trong quan niệm về con người của C.Mác
cho phép ta tìm thấy cơ sở, phương pháp luận của việc nghiên cứu vấn đề nhân tố con

người và phát huy nhân tố con người ở Việt Nam hiện nay. Trong hệ thống các
phương pháp tiếp cận của đề tài con người, tiếp cận phức hợp từ các mối quan hệ, hoạt
động và nhân cách là cách tiếp cận căn bản và có hiệu quả nhất.
19
Tiểu luận học phần
CHƯƠNG 3
TƯ TƯỞNG CHIẾN LƯỢC CON NGƯỜI HIỆN NAY Ở NƯỚC TA
Tư tưởng của C.Mác về bản chất con người đã khắc phục được quan niệm hạn
chế của chủ nghĩa duy vật siêu hình, đồng thời đưa ra một quan niệm duy vật lịch sử
trong việc xem xét con người. Mặt khác, qua đây ta thấy vai trò của con người trong
hoạt động thực tiễn. Vì vậy, luận đề trên của C. Mác đã cho ta phương pháp nhìn nhận,
đánh giá con người trong một tổng thể của nó, từ đó mà có những cách thức để xây
dựng và đào tạo con người về mặt sinh – tâm lý xã hội, có những chiến lược phát triển
xã hội. Khẳng định vai trò của con người, C.Mác viết: “Xã hội sản xuất ra con người
với tính cách như thế nào thì nó sản xuất ra xã hội như thế ấy”. Lênin cũng khẳng
định vai trò của con người: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại là người
công nhân, người lao động”. Hồ Chủ Tịch lại nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội
trước hết phải có con người mới xã hội chủ nghĩa”. Như vậy, mục tiêu xây dựng con
người mới là một vấn đề cần thiết để xây dựng một xã hội mới. Xuất phát từ ý nghĩa
thực tiễn đó, để đạt được mục tiêu xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh, người dân làm chủ, tự do, hạnh phúc, Đảng ta rất chú trọng đến
việc phát triển nhân tố con người và coi đây là mục tiêu cao nhất. Từ đại hội VI - Đại
hội đổi mới, Đảng ta đã chú trọng đến quyền làm chủ của nhân dân và cho rằng:
“Thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động thực chất là tôn trọng con người,
phát huy sức sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân, hướng sự sáng tạo đó vào sự
nghiệp xây dựng xã hội mới”. Quyền làm chủ là hạnh phúc lớn nhất, đồng thời là cái
đẹp cao nhất của con người “Hạnh phúc là từng bước thực hiện quyền làm chủ xã hội,
làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân, mọi người cùng nhau lao động và chiến đấu
cho sự phát triển của cộng đồng xã hội để có đủ cơm no, áo ấm, đồng thời có cuộc
sống vui tươi, lành mạnh, bình đẳng và hoà hợp trong lịch sử tự do tình thương và lẽ

phải, mỗi người được phát triển đầy đủ nhân cách, tài năng và năng khiếu của mình,
trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân, gia đình và xã hội, thực hiện đạo lý cao cả”.
“Mỗi người vì mọi người; mọi người vì mỗi người” và “Sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do cho tất cả mọi người”. Con người tự do là
điều kiện để con người tự giải phóng. Con người muốn tự giải phóng đòi hỏi con
người phải có trí thức, nắm được những qui luật, có năng lực, có phẩm chất. Vì vậy
đào tạo con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh
20
Tiểu luận học phần
thần trong sáng về đạo đức là động lực để xây dựng xã hội mới, đồng thời là mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, mọi chủ trương chính sách của Đảng ta đều chú trọng
đến việc chăm lo bồi dưỡng phát huy nhân tố con người. Trong văn kiện đại hội lần
thứ VII có viết: “Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục, đào tạo, khoa học, công
nghệ, coi đó là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người - động lực trực tiếp
của sự phát triển”. Trong Hội nghị Trung ương khoá VII, lần thứ 4, Đảng ta lại nhấn
mạnh: “Con người là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc con người là mục tiêu phấn
đáu cao nhất của chế độ ta… Chúng ta cần hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao và ý
nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn gốc của
cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của các quốc gia. Phải xuất phát từ tinh thần
nhân văn sâu sắc nhằm phát triển con người toàn diện, xây dựng một xã hội công
bằng, nhân ái, thiết lập quan hệ thật sự tốt đẹp và tiến bộ giữa con người và con người
trong sản xuất và trong đời sống”. Mặt khác, đề cập đến vấn đề con người, Đảng ta
còn chú ý đến cả các mối quan hệ xã hội của nó – yếu tố tạo nên bản chất xã hội của
con người, trong đó đặc biệt chú trọng đến quan hệ sản xuất. ở trong Đại hội VII,
Đảng đã chú trọng đến xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới để phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện cho con người trong các mối quan hệ
khác như quan hệ chính trị, quan hệ pháp quyền, tôn giáo… Từ đó, mối quan hệ giữa
con người, cá nhân – tập thể xã hội được kết hợp hài hoà. Bên cạnh đó, Đảng ta còn
kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hoá xã hội, “giữa tăng trưởng
kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân”.

Tất cả điều đó, xét đến cùng là vì cuộc sống hạnh phúc của nhân dân mà Đảng ta luôn
quan tâm.
Đến Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định mục tiêu hàng đầu trong chiến lược
phát triển kinh tế – xã hội của đất nước đó là chiến lược phát triển con người.
Khẳng định vai trò của con người trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hoá
đất nước đó là yếu tố quyết định cho sự phát triển của đất nước, hướng đến toàn cầu
hoá về kinh tế, chính trị. “Phát huy trí tuệ và năng lực của đội ngũ trí thức, mở rộng
thông tin, phát huy dân chủ, trọng dụng nhân tài”, “Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo
dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực”, “Đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với từng bước phát triển kinh tế tri thức”
Để thực hiện được điều đó, Đảng ta quan tâm và phát triển con người trên mọi
phương diện và mọi tầng lớp từ thành niên cho đến phụ nữ, trẻ em, người già, người
cao tuổi:
21
Tiểu luận học phần
- Thường xuyên giáo dục chính trị, truyền thống, lý tưởng và đạo đức cách
mạng cho thanh niên. Khuyến khích thanh niên tự học, tự nâng cao tay nghề.
- Chăm lo công tác phụ nữ và vấn đề bình đẳng giới, nâng cao trình độ mọi mặt
và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai
trò của người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người.
Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các
cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp. Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ, trẻ em.
Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, các hành vi buôn bán, xâm hại và xúc
phạm nhân phẩm của phụ nữ, trẻ em.
- Phát huy vai trò của cựu chiến binh trong việc xây dựng và bảo vệ Đảng,
chính quyền và chế độ xã hội chủ nghĩa. Động viên cựu chiến binh giúp nhau cải thiện
đời sống, xóa đói giảm nghèo, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước và chủ nghĩa
anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ; góp sức thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở;
tích cực đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội; tham
gia xây dựng và củng cố cơ sở chính trị, xây dựng Đảng, chính quyền ở cơ sở trong

sạch, vững mạnh.
- Chăm sóc người cao tuổi về sức khoẻ, hưởng thụ văn hóa, nhu cầu được thông
tin, sống vui, sống khoẻ, sống hạnh phúc. Phát huy trí tuệ, kinh nghiệm sống, lao động,
chiến đấu của lớp người cao tuổi trong xã hội và gia đình.
Qua việc nghiên cứu tư tưởng của C.Mác về bản chất con người cho ta thấy
những mục tiêu phương hướng, phương pháp chiến lược phát triển con người của
Đảng ta đề ra là hoàn toàn đúng đắn. Với ý nghĩ đó, luận đề của C.Mác về con người
có vai trò to lớn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Vì thế, giá trị của tư tưởng
này không bị lấp phủ bởi lớp bụi thời gian mà còn được chứng minh sinh động trong
thực tiễn, là cơ sở cho nhiều khoa học khác nghiên cứu về con người, đồng thời vạch
ra tích chất giả dối, phản động của mọi luận thuyết xuyên tạc bản chất con người.
Không những thế, nó còn là cơ sở để khắc phục sự tha hoá con người, một hiện tượng
xã hội trong đó con người tự đánh mất bản thân mình để trở thành một cái khác đối lập
với chính mình.
22
Tiểu luận học phần
C. kết luận
Vấn đề con người là một trong những vấn đề mà tất cả các khuynh hướng, các
trào lưu triết học ở mọi thời đại đều đưa lên vị trí trung tâm. Nhưng chỉ đến Triết học
Mác, lần đầu tiên trong lịch sử, Triết học Mác đã đem lại cho việc nhận thức con
người một thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn, thực sự khoa học trên cơ sở
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Mác đã giải quyết căn
bản và triệt để vấn đề phức tạp và nan giải nhất là vấn đề con người mà bao nhiêu thời
đại chưa làm được. Ông đã không chỉ đặt vấn đề giải phóng con người trong ý thức,
không coi nhận thức là cứu cánh mà con hiện thực hoá việc giải phóng đó, đưa ra một
tuyên ngôn mới về nền Triết học hành động: giải quyết và cải tạo thế giới.
Con người của Mác vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể sáng tạo ra lịch
sử. Con đường đi lên của con người là con đường lao động và cải tạo để giành quyền
làm chủ ngày một cao để giải phóng mình và vươn tới đỉnh cao làm chủ bản thân
mình. Như vậy, Triết học Mác chẳng những đã chỉ ra nguyên nhân sâu xa của sự tha

hoá con người mà còn vạch ra con đường đúng đắn để giải phóng con người. Giá trị
nhân đạo, tính khoa học và cách mạng về bản chất con người trong Triết học Mác là ở
chỗ đó. Vì thế mà Triết học Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác nói chung đã chứng tỏ rằng:
con người là điểm xuất phát và sự giải phóng con người là mục tiêu cao nhất của Triết
học Mác vì theo như Ăngghen viết: “Con người làm ra lịch sử của mình, vô luận là
lịch sử nào diễn ra như thế nào”. Theo lôgic tự nhiên, thời đại sau văn minh hơn, tiến
bộ hơn thời đại trước, bằng cách kế thừa và phát triển những thành tựu văn hoá của
chính thời đại “lạc hậu”, “lỗi thời” tạo ra, là cơ sở cho văn minh nhân loại tiếp theo.

23
Tiểu luận học phần
danh mục tài liệu tham khảo
1. C. Mác: Bản thảo Kinh tế – Triết học (1844), NXB Sự thật, Hà Nội.1962.
2. C. Mác: Tư bản, quyển 1, tập 2, NXB Sự thật, Hà Nội.1962.
3. C. Mác - Ăng ghen: Biện chứng của tự nhiên, NXB Sự thật, Hà Nội.1971.
4. Hồ Chí Minh: Vấn đề xây dựng Đảng, NXB Sự thật, Hà Nội.1970.
5. Đặng Xuân Kỳ: Sự nghiên cứu phức hợp về con người, triết học số 4 – 1977.
6. Đỗ Thiên Kính: Vấn đề bản chất con người, tạp chí Giáo dục lý luận số 6 – 1990.
7. Nguyễn Linh Khiếu: Về luận điểm của C. Mác “Bản chất con người là tổng hoà các
quan hệ xã hội”, Giáo dục lý luận số 1 – 1990.
8. Lịch sử triết học, triết học cổ điển Đức, Viện Hàn Lâm khoa học Liên Xô, NXB Sự
thật, Hà Nội. 1962.
9. Một số vấn đề Triết học Mỏc – Lờ nin với cụng cuộc đổi mới. Viện nghiờn cứu
Mỏc – Lờ nin và tư tưởng Hồ Chớ Minh - vụ Đào tạo Hà nội – 1995.
10. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, NXB Sự thật, Hà Nội. 1982.
11. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự thật, Hà Nội. 1984.
12. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội. 1991.
13. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Sự thật, Hà Nội. 1996.
14. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2001.


24

×