Sử dụng thuốc trong điều trị bệnh
trào ngược dạ dày thực quản
Bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD) là một vấn đề lâm
sàng rất thường gặp, đó là tình trạng trào ngược từng lúc hay thường
xuyên các chất từ dạ dày lên thực quản, bệnh không chỉ gây khó chịu
cho bệnh nhân mà cũng có nguy cơ gây ra những biến chứng nặng nề
như loét, hẹp, chảy máu thực quản, thậm chí dẫn tới ung thư.
Triệu chứng của bệnh có một số biểu hiện như nóng rát, ợ chua, ợ
khan, ợ hơi, đầy bụng, sôi bụng, ấm ách, ăn mau no Nguyên nhân gây
bệnh chưa được xác định chính xác song có một số yếu tố hay được nhắc
đến đó là sự rối loạn trương lực cơ vòng thực quản, rối loạn trương lực co
bóp dạ dày, ngoài ra còn một số yếu tố khác nữa như thiếu hụt dịch vị và
enzym tiêu hóa làm thay đổi môi trường pH trong dạ dày, đặc biệt là sự tăng
tiết HCl Bệnh được chẩn đoán dựa vào khám lâm sàng, nội soi dạ dày thực
quản và chụp xạ hình.
Nhóm thuốc điều hòa vận động
- Metoclopramid (biệt dược primperan, anausin) viên 10mg. Tác dụng
trung ương vào vùng lẩy cò và có tác dụng lên các lớp cơ ống tiêu hóa. Nó
làm gia tăng vận động, thúc đẩy mở môn vị. Dẫn đến làm vơi dạ dày từ đó
làm giảm trào ngược dạ dày thực quản. Tác dụng phụ: gây buồn ngủ và tăng
trương lực ngoại tháp.
- Domperidon (biệt dược motilium, peridy): viên nén 10mg, dịch treo
uống 1mg/ml, thuốc đạn 10 và 30mg. Đây là thuốc kháng dopaminergic
ngoại biên, nó cố định vào thụ thể D2 ngoại biên và không qua hàng rào máu
não. Có tác dụng làm tăng áp lực cơ vòng đoạn dưới thực quản do đó làm
tăng sự vơi dạ dày dẫn đến làm giảm trào ngược.
Thuốc chống chỉ định với chảy máu dạ dày ruột, tắc ruột, nguy cơ
thủng ở ống tiêu hóa.
- Sulpirid (biệt dược dogmatil) viên 50mg, có tác dụng làm gia tăng
trương lực đoạn dưới cơ vòng thực quản, nó cũng có tác dụng vào hệ thần
kinh trung ương như các thuốc ngủ do đó có tác dụng phụ là buồn ngủ, gây
hội chứng ngoại tháp, chảy sữa, bất lực, vú phụ.
- Metopimazin (biệt dược vogalen), viên bọc đường 2,5mg, thuốc giọt
0,1mg/giọt, thuốc đạn 5mg, thuốc tiêm 10mg/1ml. Đây là thuốc chống nôn
kháng tiết dopamin có tác dụng chọn lọc trên khu vực lẩy cò hóa học của
não thất IV. Thuốc có tác dụng làm thay đổi vận động ống tiêu hóa nhưng
không làm tăng sự vơi dạ dày do đó nó không làm cản trở sự hấp thu tiêu
hóa cao của các thuốc phối hợp.
- Ngoài ra trong một số trường hợp đặc biệt, tùy theo tình trạng bệnh
cảnh lâm sàng mà có thể dùng một số thuốc khác như alizaprid (biệt dược
plitican, viên 50 mg), anzemet (biệt dược dolasetron, viên 200mg ống
100mg), zelmac viên 6mg.
Nhóm thuốc làm giảm tác động có hại của trào ngược
- Các thuốc tạo màng ngăn dạ dày - thực quản:
Alginat (biệt dược gaviscon, topaal): acid alginic khi tiếp xúc với HCl
sẽ tạo thành một lớp bọt nổi lên trên dịch vị. Trong trường hợp trào ngược,
nhờ lớp gel này sẽ bảo vệ cho niêm mạc thực quản khỏi bị tác động của acid
dạ dày. Liều sử dụng 2 thìa cà phê sau mỗi bữa ăn và trước lúc đi ngủ.
Dimeticol (gel polysilan) là một chất bảo vệ niêm mạc tương tự như
trên.
- Nhóm thuốc có tác dụng bảo vệ niêm mạc: Sucralfat gắn với protein
tạo hàng rào bảo vệ niêm mạc dạ dày thực quản chống lại các tác nhân từ dạ
dày. Thường chỉ định sucralfat trong các trường hợp bệnh trào ngược vừa
đến nặng. Sucralfat dạng viên nén 1g, uống ngày 4 viên trước bữa ăn và lúc
đi ngủ, tránh dùng antacid hoặc kháng histamin H2 30 phút trước hoặc sau
khi uống sucralfat.
- Ngoài ra còn sử dụng các thuốc kháng acid (maalox,
phosphalugel ), thuốc kháng thụ thể H2 (như cimetidin, ranitidin, nizatidin,
famotidin) hoặc thuốc ức chế bơm proton (như omeprazol, lansoprazol,
pantoprazol, rabeprazol, esomeprazol) tùy theo tình trạng lâm sàng của bệnh
nhân.
Hiện nay việc điều trị với thuốc ức chế bơm proton đạt thành công
nhất, trong đó có khoảng một nửa số bệnh nhân có thể duy trì sự thành công
chỉ cần điều trị bằng thuốc ức chế bơm proton cách ngày hoặc dùng một loại
kháng thụ thể H2. Đặc biệt, bên cạnh việc dùng thuốc thì việc duy trì chế độ
ăn uống sinh hoạt hợp lý sẽ góp phần quan trọng trong việc điều trị bệnh lý
trào ngược dạ dày thực quản, mỗi bữa không nên ăn quá nhiều, nên ăn làm
nhiều bữa, 4 - 5 bữa mỗi ngày, mỗi bữa ăn ít một; không nên ăn chất lỏng,
nên ăn đặc, khô; sau khi ăn không nên nằm nhiều, ngồi ở tư thế cúi ra phía
trước, nằm ngủ ở tư thế đầu dốc cao; Bỏ hẳn một số thức ăn làm giảm
trương lực cơ vòng như socola, thuốc lá, cà phê, chất mỡ, nước khoáng có
ga; Ăn chậm, nhai nát kỹ, tránh nuốt hơi vào dạ dày; không được dùng một
số thuốc làm giảm trương lực cơ vòng dưới thực quản như estrogen,
progesteron, anticholinergic, barbituric, ức chế calci, diazepam, theophylin.
Chỉ phẫu thuật khi điều trị nội khoa không khỏi và khi có biến chứng nặng
nề.