Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Về đề tài nghiên cứu khoa học: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng LUẬT CẠNH TRANH" docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (726.11 KB, 16 trang )

Về đề tài nghiên cứu khoa học:
Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng
LUẬT CẠNH TRANH
ĐINH THỊ CHIẾN
Tổng thuật của Phóng viên Tạp chí Khoa học pháp lý

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ mã số B98 – 26 –
05 (do Thạc sĩ Lê Thị Bích Thọ, Phó hiệu trưởng
Trường Đại học Luật TP.HCM làm chủ nhiệm, được
thực hiện bởi tập thể các giảng viên và Tiến sĩ Trần
Hồi Sinh, Chủ tịch Hiệp hội công thương TP.HCM)
vừa được nghiệm thu với kết quả tốt và có tính thiết
thực.
Nội dung đề tài gồm bốn phần:
Phần 1: Cơ sở lý luận xây dựng luật cạnh tranh và
kiểm soát độc quyền
Để làm rõ những vấn đề lý luận về cạnh tranh, các tác
giả đã phân tích các quan điểm, các quy định của


pháp luật một số nước khác nhau để đưa ra các tiêu
chí xác định hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh.
Trên cơ sở các tiêu chí đó, các tác giả đã chỉ ra được
các hành vi cụ thể được coi là cạnh tranh không lành
mạnh, hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường và độc quyền. Đây là những hành vi quan
trọng cần phải xác định khi nghiên cứu xây dựng
pháp luật về cạnh tranh.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, nếu khơng có sự
điều chỉnh của pháp luật mà chỉ dựa vào sự phát triển
tự nhiên của các quy luật vốn có của nó theo kiểu


điều tiết của “bàn tay vơ hình” thì cạnh tranh tự do sẽ
tất yếu dẫn đến độc quyền, gây ra những hậu quả xấu
đối với nền kinh tế . Do vậy pháp luật phải điều tiết
cạnh tranh để đảm bảo bảo vệ mơi trường cạnh tranh,
bình ổn giá cả thị trường, bảo vệ người tiêu dùng,
kiểm soát được sự phát triển của các doanh nghiệp
lớn, đồng thời thúc đẩy hội nhập về kinh tế theo xu


hướng tồn cầu hóa. Các tác giả cũng chỉ ra được
những yếu tố chi phối thị trường cạnh tranh ở Việt
Nam hiện nay, đó là các yếu tố về pháp luật; trình độ
phát triển của kinh tế – xã hội; các hình thức sở hữu
kinh doanh, sự quản lý của Nhà nước và mức độ mở
cửa của nền kinh tế.
Phần 2: Kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật về cạnh
tranh ở một số nước trên thế giới
Trong phần này, các tác giả đã tập trung nghiên cứu,
tham khảo pháp luật của một số nước về cạnh tranh,
bao gồm: Luật cạnh tranh của các nước SNG, Luật
chống độc quyền của Đan Mạch, Luật chống hạn chế
cạnh tranh Đức, Luật cạnh tranh Hà Lan, Luật cạnh
tranh Thụy Điển, Luật cạnh tranh và kinh doanh bình
đẳng của Italia, Luật chống độc quyền của Hoa Kỳ,
Luật cạnh tranh Châu Âu.


Đây là những nghiên cứu rất có giá trị đối với Việt
Nam trong việc tham khảo những kinh nghiệm quốc
tế để xây dựng pháp luật cạnh tranh ở nước ta.

Phần 3: Thực trạng cạnh tranh, độc quyền và pháp
luật điều chỉnh ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, về các văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh
vực cạnh tranh và độc quyền : ở nước ta hiện nay
chưa có luật riêng điều chỉnh về vấn đề này, nhưng
chúng được quy định rải rác trong Hiến pháp và các
luật khác nhau như Bộ luật dân sự 1995, Luật thương
mại 1998 và một số văn bản dưới luật. Ngồi các quy
định mang tính nguyên tắc và định hướng, đề tài đã
thống kê được nhóm những quy phạm pháp luật điều
chỉnh các vấn đề cụ thể về cạnh tranh, đó là: pháp
luật về kiểm sốt giá cả, lĩnh vực pháp luật về sở hữu
cơng nghiệp và nhãn hiệu hàng hóa, pháp luật về
quảng cáo thương mại, pháp luật về khuyến mại,
pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, pháp


luật về đo lường và chất lượng hàng hóa. Bên cạnh
đó cịn có các quy định pháp luật về dân sự, hành
chính, hình sự điều chỉnh vấn đề này, đó là các biện
pháp chế tài áp dụng đối với những hành vi cạnh
tranh không lành mạnh, bất hợp pháp ở những mức
độ khác nhau.
Nhìn chung lĩnh vực pháp luật về cạnh tranh và
chống độc quyền ở Việt Nam hiện nay còn quá đơn
giản và thiếu các quy phạm cần thiết cho việc vận
hành nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường và
bảo đảm tự do cạnh tranh. Pháp luật điều chỉnh vấn
đề cạnh tranh còn rất đơn giản và nằm rải rác ở rất
nhiều văn bản pháp luật khác nhau, pháp luật điều

chỉnh về độc quyền thì hầu như khơng có, các quy
định về xử lý các hành vi cạnh tranh khơng lành
mạnh cũng cịn đơn giản, cịn thiếu và hiệu quả điều
chỉnh thấp.


Thứ hai, về thực trạng cạnh tranh và độc quyền trong
nền kinh tế nước ta hiện nay thường diễn ra sự cạnh
tranh giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường,
giữa hàng nội và hàng ngoại, giữa doanh nghiệp
trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi, cạnh tranh trong các ngành, lĩnh vực kinh tế
mà Nhà nước không giữ độc quyền.
Trên thị trường hiện nay, các chủ thể kinh doanh sử
dụng nhiều biện pháp cạnh tranh, trong đó có những
biện pháp cạnh tranh lành mạnh như cạnh tranh bằng
chất lượng của hàng hóa dịch vụ; có những biện pháp
cạnh tranh dễ dẫn đến không lành mạnh như: cạnh
tranh bằng giá bán thấp (có thể dẫn đến hành vi cạnh
tranh không lành mạnh là bán phá giá), cạnh tranh
bằng quảng cáo thương mại (dễ dẫn đến hành vi
quảng cáo bất hợp pháp như quảng cáo không trung
thực, quảng cáo so sánh, quảng cáo vi phạm quy định
cấm), cạnh tranh bằng khuyến mại (cũng có thể xảy


ra những chương trình khuyến mại bất hợp pháp và
thậm chí là cả những thủ đoạn lừa dối gây nhầm lẫn
cho người tiêu dùng); và có cả những biện pháp cạnh
tranh rõ ràng là không lành mạnh như: cạnh tranh

bằng việc đo lường không trung thực, cạnh tranh
bằng việc xâm phạm quyền sở hữu cơng nghiệp, cạnh
tranh bằng hình thức lôi kéo khách hàng và nhân viên
giỏi của đối thủ cạnh tranh, cạnh tranh bằng việc thu
thập các thông tin bí mật trong kinh doanh như về
hàng hóa, khách hàng của đối thủ cạnh tranh, cạnh
tranh bằng việc nói xấu, tung tin đồn hay các hành vi
khác gây tổn hại uy tín, thanh danh của các đối thủ
cạnh tranh, cạnh tranh bằng gian lận thương mại,
kinh doanh bất chính như: buôn lậu, trốn thuế, quan
hệ câu kết với các quan chức nhà nước để liên kết
trục lợi...
Về thực trạng tình hình độc quyền ở nước ta: Do đặc
thù của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam (có sự


quản lý của nhà nước) nên tình trạng độc quyền trong
kinh doanh ở Việt Nam hầu hết được hình thành từ
các biện pháp hành chính nhà nước. Chính phủ trao
cho các tổng công ty nhà nước quyền kinh doanh một
số lĩnh vực mà nhà nước thấy cần thiết. Hiện nay các
doanh nghiệp Nhà nước đang giữ độc quyền tuyệt đối
đối với một số lĩnh vực như: hàng không, dịch vụ bưu
chính viễn thơng, kinh doanh đường trục internet...,
và giữ độc quyền nhóm đối với một số lĩnh vực: xăng
dầu, xi măng, bảo hiểm, xuất khẩu gạo, dịch vụ ngân
hàng của ngân hàng thương mại …. Thực trạng độc
quyền này dẫn đến sự hạn chế tự do kinh doanh, hạn
chế cạnh tranh, khơng cịn phù hợp với cơ chế thị
trường ở nước ta hiện nay.

Đề tài cũng đã phân tích một cách sống động tình
hình cạnh tranh độc quyền trong một một số lĩnh vực
của nền kinh tế như lĩnh vực kinh doanh dịch vụ bưu


chính viễn thơng, dược phẩm, xi măng, ngân hàng,
bảo hiểm.
Phần 4: Định hướng xây dựng pháp luật về cạnh
tranh và kiểm soát độc quyền ở Việt Nam
Các tác giả đã đưa ra yêu cầu và nguyên tắc của việc
xây dựng luật cạnh tranh là: phải dựa trên đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng và
phát triển nền kinh tế, phù hợp với chính sách ngoại
giao và hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới; phải
đồng bộ và phù hợp với các nguyên tắc chung của hệ
thống pháp luật Việt Nam và phải đảm bảo tạo ra
được mơi trường pháp lý an tồn cho hoạt động kinh
doanh tự do cạnh tranh ở Việt Nam.
Trên cơ sở đó, các tác giả đã kiến nghị xây dựng mơ
hình luật về cạnh tranh với kết cấu gồm 7 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung: quy định về phạm vi
áp dụng và đối tượng điều chỉnh của Luật, xác định
hiệu lực áp dụng khi các luật chuyên ngành và các


Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia
có liên quan có quy định khác với luật, các ngoại lệ
không áp dụng luật cạnh tranh và giải thích các thuật
ngữ quan trọng được sử dụng trong Luật.
Chương 2. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh:

quy định cụ thể các hành vi được coi là cạnh tranh
không lành mạnh bằng phương pháp liệt kê, bao gồm
các hành vi: phân biệt đối xử về giá; dèm pha, nói
xấu đối thủ cạnh tranh; xâm phạm bí mật kinh doanh
của chủ thể kinh doanh khác; sử dụng trái phép các
sản phẩm sở hữu công nghiệp; lôi kéo, dụ dỗ, mua
chuộc các nhân viên của đối thủ cạnh tranh; bán phá
giá để cạnh tranh; quảng cáo sai sự thật hay vi phạm
các quy định về quảng cáo; tung ra thông tin sai sự
thật hay bóp méo sự thật có khả năng gây thiệt hại
hay làm giảm uy tín đáng kể của đối thủ cạnh tranh;
lừa dối khách hàng về đặc tính, chất lượng, địa điểm
sản xuất, cách thức sản xuất hàng hóa; tạo ra sự so


sánh sai lệnh về hàng hóa của các nhà kinh doanh
khác; bán hàng hóa là sản phẩm của việc sử dụng bất
hợp pháp sản phẩm sở hữu trí tuệ của nguời khác.
Chương 3. Các hành vi hạn chế cạnh tranh: xác định
những hành vi nào là hành vi hạn chế cạnh tranh.
Theo các tác giả, các hành vi sau đây được coi là các
hành vi hạn chế cạnh tranh:
+ Các thỏa thuận giữa các chủ thể kinh doanh để hạn
chế cạnh tranh như các thỏa thuận về: giá bán sản
phẩm, hàng hóa dịch vụ; về kiểm sốt hay hạn chế số
lượng, khối lượng, tổng giá trị mua bán hàng hóa
dịch vụ; về hạn chế, cản trở những nhà kinh doanh
khác tham gia thị trường, về phân biệt đối xử đối với
một hoặc một số khách hàng bao gồm cả thương
nhân khác; về các điều kiện mua, bán hàng hóa dịch

vụ của các nhà kinh doanh khác mà không liên quan
đến đối tượng của hợp đồng; về phân chia thị trường
theo khu vực hay số lượng mua – bán hay theo khách


hàng; thông đồng về giá cả để bỏ thầu; thông đồng để
từ chối mua, bán hàng hóa, dịch vụ.
+ Những hành vi sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp:
những hành vi này chỉ bị cấm khi nó nhằm hạn chế
cạnh tranh, gây trở ngại cho tự do cạnh tranh và dẫn
đến độc quyền hay vị trí thống lĩnh thị trường.
Chương 4. Lạm dụng độc quyền hay vị trí thống lĩnh:
Trong chương này, luật phải xác định được doanh
nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp như thế nào thì
bị coi là có vị trí độc quyền. Theo các tác giả, có thể
xác định vấn đề này thơng qua thị phần mà nó nắm
giữ và sức mạnh tài chính, có thể coi các hành vi sau
đây là lạm dụng vị thế độc quyền cần phải cấm: ngăn
cản các nhà kinh doanh khác tham gia thị trường; áp
đặt giá bán cao hay giá mua thấp; duy trì giá cao hay
nâng giá nhằm thu lợi nhuận từ sự độc quyền; phân
biệt đối xử giá mua bán, hay điều kiện thương mại
với các khách hàng do vị thế độc quyền; áp đặt điều


kiện trong hợp đồng không công bằng và gây bất lợi
cho đối tác mà họ khơng mong muốn; tạo tình trạng
khan hiếm giả tạo hàng hóa, dịch vụ để nâng giá; giới
hạn sản xuất, thị trường và giới hạn việc phát triển kỹ
thuật gây tổn hại cho người tiêu dùng.

Chương 5. Cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh:
Trong chương này, các tác giả đưa ra ba phương án
xây dựng mơ hình cơ quan quản lý nhà nước về cạnh
tranh: lập cơ quan quản lý cạnh tranh trực thuộc Bộ
Thương mại; hoặc thuộc Thủ tướng; hoặc trực thuộc
Chính phủ và phải đảm bảo được các yêu cầu sau: có
khả năng thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên
toàn lãnh thổ về cạnh tranh và độc quyền; phải có
quyền lực nhất định để có thể độc lập đưa ra các
quyết định mà không bị cản trở bởi các cơ quan có
liên quan; phải có thẩm quyền để phối hợp với các
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh khi giải quyết các vấn đề


liên quan; có thẩm quyền ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật về lĩnh vực cạnh tranh và độc quyền;
phải được tổ chức theo hướng gọn nhẹ, có hiệu quả
và không dàn trải. Luật cần quy định cụ thể thẩm
quyền và trình tự thủ tục giải quyết và xử lý các hành
vi vi phạm luật cạnh tranh.
Chương 6. Xử lý các hành vi vi phạm. Trong chương
này, các tác giả đề xuất hai cách quy định chế tài: có
thể quy định cụ thể các biện pháp chế tài đối với các
hành vi vi phạm ngay trong luật; hoặc nếu các biện
pháp xử lý đã được quy định trong các văn bản pháp
luật khác như Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính,
Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự thì khơng cần thiết
phải quy định trong Luật này. Các chế tài có thể áp
dụng đối với các hành vi vi phạm là: hủy bỏ các thỏa

thuận hạn chế cạnh tranh; hủy bỏ các hành vi sáp
nhập, hợp nhất vi phạm và tái cơ cấu lại doanh
nghiệp; buộc chấm dứt hành vi vi phạm; xử phạt vi


phạm hành chính và tước quyền sử dụng giấy phép,
buộc chấm dứt hoạt động; buộc bồi thường thiệt hại,
công bố cải chính xin lỗi cơng khai theo như Bộ luật
dân sự; truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật
hình sự.
Chương 7. Điều khoản thi hành. Chương này quy
định về nghĩa vụ ban hành hướng dẫn của Chính phủ
và hiệu lực thi hành của Luật.
Kết luận: Trong khi thực tiễn các biện pháp cạnh
tranh ở nước ta hiện nay đã ở mức độ khá gay gắt, đa
dạng và mang nhiều yếu tố tiêu cực thì những quy
định của pháp luật hiện hành điều chỉnh lĩnh vực này
còn quá chung chung, đơn giản, chưa theo kịp thực
tiễn để điều chỉnh một cách có hiệu quả. Mặt khác,
trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, Việt
Nam lại vừa thông qua Hiệp định thương mại với
Hoa Kỳ và sẽ gia nhập WTO hay AFTA thì các
doanh nghiệp Việt Nam khơng tránh khỏi việc sẽ


phải đương đầu với các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, các doanh nghiệp nước ngoài trong cuộc
cạnh tranh rất gay go và phức tạp. Do vậy, việc ban
hành Luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền là một
vấn đề cấp bách đối với nhà nước ta. Hiện nay Bộ

Thương mại, được sự giao phó của Chính phủ, đang
tiến hành soạn thảo luật này và trình Quốc hội thơng
qua trong thời gian tới. Những nội dung mà đề tài đã
nghiên cứu là một đóng góp vơ cùng quan trọng đối
với các nhà làm luật trong khi xây dựng dự thảo Luật
về cạnh tranh và độc quyền, nó cũng là một tài liệu
rất bổ ích cho các giảng viên và sinh viên các trường
Đại học Luật khi nghiên cứu môn Luật cạnh tranh
trong nhà trường



×