Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Hoàn thiện chính sách kinh tế các nước và ảnh hưởng của xuất khẩu hàng hóa việt nam ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.16 KB, 67 trang )

1


Lời nói đầu
Trong tiến trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, với những xu thế vận động
và bối cảnh khách quan của nền kinh tế thế giới và khu vực, với những tác động
của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội… để tránh khỏi bị tụt hậu Việt Nam đang
đứng trước thời cơ mới và thách thức mới. Đối với Việt Nam, trong điều kiện
chuyển từ nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường
lại có điểm xuất phát thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao, để đưa đất nước
phát triển nhanh Đảng ta đã khẳng định ” Phát huy cao độ nội lực, đồng thời
tranh thủ nguồn lực bên ngoài” Quá trình tham gia vào hội nhập kinh tế thế giới
và khu vực là tất yếu.
Nhật Bản là một trong những nước có tầm ảnh hưởng rất lớn trong nền kinh tế
thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Nhật Bản là một cường quốc kinh tế đã
trải qua nhiều năm phát triển thần kỳ vào trước thập niên 90của thế kỷ XX khiến
cho cả thế giới khâm phục. Nhiều nước trong khu vực Châu á đã phấn đấu noi
theo mô hình phát triển của Nhật Bản, trong đó một số nước và lãnh thổ Đông á
đã nhanh chóng trở thành con rồng, con hổ kinh tế, giải quyết thành công nhiều
vấn đề đời sống kinh tế – xã hội, chỉ trong vòng 2 – 3 thập niên.Vì vậy, việc xem
xét, nghiên cứu, tìm hiểu học hỏi những chính sách, biện pháp, giải pháp, chiến
lược mà chính phủ Nhật Bản đã sử dụng để đưa nền kinh tế phát triển mạnh mẽ
như vậy đối với Việt Nam là rất cần thiết nhằm tạo ra sự tăng trưởng cao và bền
vững cho việc phát triển kinh tế - xã hội.
2


Sau quá trình thực tập tại Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản em đã hoàn thành
chuyên đề thực tập tốt nghiệp với đề tài: “Cải cách kinh tế của Nhật Bản và mối
quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản”.
Vì thời gian ngắn và kiến thức bản thân còn hạn chế nên nội dung chuyên đề thực


tập này không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong các thầy cô chỉ bảo, góp ý
để chuyên đề thực tập của em được hoàn chỉnh hơn.
Mục tiêu và phương pháp nghiên cứu
I. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu, hệ thống những vấn đề về cải cách kinh tế của Nhật
Bản, hiệu quả của cuộc các cuộc cải cách đó và sự ảnh hưởng của nó tới Việt
Nam.
Đánh giá bước đầu hiệu quả của các cuộc cải cách đó đối với việc thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội của Nhật Bản, Việt Nam và một số tồn tại.
Trên cơ sở đó để có những giải pháp và tìm ra những ảnh hưởng của các cuộc cải
cách đó đối với nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng trong các
lĩnh vực kinh tế – xã hội.
II. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu trên cần phải có phương pháp, cách tiếp cận khoa
học và phù hợp. Cơ sở lý luận thực hiện đề tài chủ yếu dựa vào các lý thuyết liên
quan đến lợi thế so sánh, lý thuyết về phát triển thương mại quốc tế trong điều
kiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế ngày nay.
III. Kết cấu của Đề tài
Lời nói đầu đề cập đến sự cần thiết, mục tiêu, nội dung, ý nghĩa, đề tài.
3


Chương I, Đề tài tập trung nghiên cứu về Nhật Bản, quá trình cải cách của Nhật
Bản và tầm ảnh hưởng của nó tới nền kinh tế Nhật Bản.
Chương II, Đề tài tập trung phân tích, đánh giá các cuộc cải cách tài chính của
Nhật Bản và hiệu quả của nó.
Chương III, Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản. Một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả của các cuộc cải cách đó và triển vọng phát triển trong tương lai.
Kết luận, Trên cơ sở kết quả nghiên cứu phần kết luận khẳng định những kết quả
đạt được và một số kiến nghị nhằm nâng cao mối quan hệ kinh tế Nhật Bản -

Việt Nam trong tương lai.
Chương I: Quá trình cải cách kinh tế của Nhật Bản
I. Xu hướng của nền kinh tế thế giới
Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một trong những xu hướng quan
trọng trong hoạt động kinh tế quốc tế. Các nước đang phát triển (trong đó có Việt
Nam) cùng với việc tranh thủ thu hút các nguồn vốn để phát triển cũng khuyến
khích, đẩy mạnh việc quan hệ hợp tác với các nước phát triển trên thế giới nhằm
học hỏi kinh nghiệm cũng như mở rộng thị trường, tận dụng các nguồn tài
nguyên, lao động, tăng nguồn thu lợi nhuận cũng như tăng cường ảnh hưởng với
các nước khác và. Chính vì những lẽ đó mà đã có rất nhiều quốc gia, tổ chức
quốc tế, các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học đã đưa ra, tổng kết những
kinh nghiệm, những vấn đề lý luận, thực tiễn và dự báo về xu hướng phát triển
của nền kinh tế thế giới trong đó có Nhật Bản và Việt Nam.
II. nền kinh tế nhật bản từ cuối những năm 1980 đến nay
4


Nhật Bản, một nước nghèo tài nguyên, không thể đánh mất bất kỳ một cơ
hội thương mại quốc tế nào nếu đó là cơ hội để phát triển kinh tế và duy trì một
mức sống cao. Các chính sách liên quan tới thương mại và đầu tư do vậy đã
chiếm một vị trí nổi bật trong quá trình phát triển kinh tế. Sau thời kỳ tăng trưởng
kinh tế cao, ở Nhật Bản đã nảy sinh hàng loạt vấn đề đòi hỏi nhà nước phải điều
chỉnh chính sách và tiến hành cải cách trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, xã hội, chính
trị, văn hóa…
Phạm vi của đề tài được xác định là những cải cách được tiến hành ở Nhật
Bản từ cuối những năm 80 của thế kỷ 20 đến nay. Những cải cách này đã, đang
và sẽ được tiến hành với nội dung và hình thức rất phong phú và đa dạng, chưa
biết được thời gian kết thúc.
- Những yếu tố (bên trong và bên ngoài) thúc đẩy Nhật Bản cải cách. Đó là sự đổ
vỡ của kinh tế bong bóng, đồng Yên lên giá, hệ thống ngân hàng tài chính lạc

hậu, sự già hoá dân số, bộ máy nhà nước yếu kém, tình hình chính trị mất ổn định
và tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp tác động mạnh tới kinh tế, xã hội
Nhật Bản.
- Những nội dung cơ bản của cải cách kinh tế ở Nhật Bản, trong đó bao gồm các
chính sách và giải pháp tình thế lẫn các chương trình cải cách kinh tế một cách
toàn diện. Đồng thời, đánh gia một số thành công cũng như hạn chế của cải cách
kinh tế ở Nhật Bản và cuối cùng vạch ra những vấn đề cần được tiếp tục cải cách.
Trong những năm 80 của thế kỷ XX, cuộc khủng hoảng nợ đã làm cho nhiều
nước đang phát triền lâm vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng. Để thoát khỏi
khủng hoảng, suy thoái các nước đang phát triển đã phải cải cách kinh tế theo
5


hướng chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, mở cửa nền kinh tế, thực hiện
chiến lược CNH, hướng về xuất khẩu. Và Nhật Bản cũng không là ngoại lệ, từ
đầu thập niên 1990 đến nay, nền kinh tế Nhật Bản vẫn chưa thoát hẳn ra khỏi cơn
suy thoái kéo dài, cho dù cũng đã có sự tăng trưởng trở lại của nền kinh tế với chỉ
số dự đoán khoảng 2,4% năm 2003 (tạp chí “Times” số tháng 10/2003).
Sự phát triển không ổn định đi liền với khủng hoảng suy thoái kéo dài là đặc
trưng cơ bản của nền kinh tế Nhật Bản trong khoảng hơn thập niên vừa qua. khởi
đầu của sự phất triển đó được đánh dấu bởi sự đổ vỡ của nền kinh tế bong bóng
Nhật Bản vào đầu thập niên 1990. Tăng trưởng kinh tế (GDP) của Nhật Bản
trong những năm 1990 đã suy giảm liên tục với động thái tăng trưởng rất chậm
chạp và thất thường. Cụ thể như sau:
- Từ 1990 đến 1996: với động thái tăng trưởng kinh tế: 0,5%; 0,6%; 2,8%;
và 3,2%.
- Từ 1997 đến 1999: tiến dần đến tình trạng trầm trọng của khủng hoảng.
Khủng hoảng kinh tế Nhật Bản được gắn liền với ảnh hưởng tiêu cực của khủng
hoảng tài chính – tiền tệ Đông á (1997 – 1998). Lần đầu tiên kể từ sau Chiến
tranh Thế giới thứ hai, kinh tế Nhật Bản tăng trưởng âm liên tục trong 2 năm

liền(1997: - 0,7% và 1998: -1,1%).Năm 1999: kinh tế Nhật Bản phục hồi trở lại
nhưng tăng trưởng còn mong manh: 0,7%.
- Năm 2000: kinh tế Nhật Bản tăng trưởng khả quan: 2,4%.
- Năm 2001: suy giảm kinh tế trở lại với chỉ số tăng trưởng: -0,4%.
- Năm 2002 đến nay: đang phục hồi yếu 1,6%.
6


Về đại thể, các chỉ số tăng trưởng GDP hàng năm trên đây đã phản ánh khái quát
nhất về mặt định lượng của cuộc khủng hoảng kinh tế Nhật Bản kéo dài suốt thập
niên 1990 đến nay. Nếu so với cuộc khuủng hoảng kinh tế 1973 – 1975 của thế
giới Tư Bản Chủ Nghĩa, trong đó có Nhật Bản thì mức độ khủng hoảng lần này
còn tồi tệ hơn nhiều (cuộc khủng hoảng 1973 – 1975, năm 1973: tăng trưởng
GDP của Nhật Bản là 8%, đến năm 1974 tuy có bị giảm đột ngột đến mức –
1,2%, song đến năm 1975, lại khôi phục trở lại ngay với tăng trưởng 3%, tiếp đó
năm 1976 là 4%, từ đó bình quân hàng năm cho đến cuối thập niên 1980 đều đạt
tăng trưởng khoảng 5%).
Đó là biểu hiện tổng quát nhất của khủng hoảng kinh tế Nhật Bản qua động thái
suy giảm của tăng trưởng GDP hàng năm.
Iii. cải cách trong lĩnh vực kinh tế của nhật bản
Các chính sách và biện pháp cải cách kinh tế ở Nhật Bản kể từ đầu thập kỷ 1990
đến nay có thể được chia thành hai cum chính sách và biện pháp chủ yếu, đó là
các chính sách và biện pháp mang tính chất tình thế, và các chương trình cải cách
kinh tế một cách cơ bản và toàn diện.
1. Các chính sách và giải pháp tình thế
Trước tình trạng suy thoái kinh tế nghiêm trọng và kéo dài, đồng yên bất ổn định,
sự yếu kém của hệ thống ngân hàng – tài chính, và các vấn đề kinh tế – xã hội
khác, Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện khá nhiều chính sách và giải pháp tạm
thời để khôi phục và lấy lại sức sống cho nền kinh tế. Các chính sách và biện
pháp loại này thực ra đã được áp dụng nhiều lần trong các thập kỷ trước đây khi

nền kinh tế Nhật Bản có biểu hiện suy thoái theo chu kỳ. Nội dung chủ yếu của
7


nó là bơm thêm tiền vào nền kinh tế bằng các chương trình kích thích kinh tế trọn
gói, tăng đầu tư vào các công trình công cộng, giảm thuế, giảm tỷ lệ lãi suất chiết
khấu chính thức,… nhằm kích thích nhu cầu trong nước.
- Các chương trình kích thích kinh tế trọn gói: Đây là một giải pháp truyền thống
mà Chính phủ Nhật Bản thường sử dung để khác phục khủng hoảng chu kỳ. Đó
là việc dựa vào ngân sách bổ sung hoặc các chương trình kích thích kinh tế trọn
gói nhằm kích cầu trong nước thông quq việc mỏ rộng các công trình công cộng.
Kể từ khi nền kinh tế “bong bóng” sụp đổ, Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện rất
nhiều biện pháp cả gói với tổng chi phí lên tới 107.000 tỷ Yên. Đây chính là
những biện pháp can thiệp của Chính phủ mà theo lý thuyết của Kêyn thì có thể
tạo ra những đòn bẩy cho nền kinh tế.
- Cắt giảm thuế và xoá matt phần nợ cho các công ty kinh doanh bất động sản:
Đây cũng là một giải pháp quan trọng nhằm trợ giúp các công ty đang đứng trước
bờ vực thẳm của sự phá sản sau sự sụp đổ của nền kinh tế bong bóng. Ví dụ, Nội
các của thủ tướng Obuchi đã thực hiện giảm thuế thu nhập 9.000 tỷ Yên
(2%GDP). Mức thuế thu nhập cao nhất của cả cấp quốc gia và cấp địa phương đã
được giảm từ 65% xuống còn 50%. Sự giảm thuế này được hy vọng là sẽ thúc
đẩy tiêu dùng cá nhân và kích thích tinh thần làm việc chung. Việc giảm thuế để
khuyến khích xây dựng nhà ở cũng đã được tiến hành một cách rộng rãi. Hơn
nữa, Chính phủ Nhật Bản đã quyết định giảm tỷ lệ thuế kinh doanh kết hợp cả
quốc gia và địa phương từ mức 46,36% xuống 40,87% tương đương với 2,4 tỷ tỷ
Yên (0,4% GDP). Thông qua các cuộc cải cách và giảm thuế này, Chính phủ hy
8


vọng giảm gánh nặng thuế xuống bằng mức trung bình của các nước đã công

nghiệp hoá.
Cùng với quá trình này, việc lập quyết định về ngân sách quốc gia và cải cách
thuế đã đưa vấn đề cơ cấu vào bàn nghị sự. Chính phủ đã tăng ngân sách về
nghiên cứu cơ bản và phát triển 8,1%, các thiết bị thông tin như máy vi tính, máy
photcoppy kỹ thuật số, và máy điện thoạ kỹ thuật số sẽ được thanh lý ngay nếu
chúng ít hơn 1 triệu Yên. Để khuyến khích sử dụng các loại ô tô có hiệu quả và ít
gây ô nhiễm môi trường, thuế xe khách và các loại xe tải tương tự sẽ được giảm
đi.
Nhằm khuyến khích việc quốc tế hoá đồng Yên, Chính phủ đã ban hành hệ thống
bỏ thầu mở đối với các trái phiếu ngắn hạn, đây là matt hình thức miễn thuế thu
nhập đặc biệt đối với các trái phiếu Chính phủ cho những người không phải cư
dân Nhật Bản. Chính phủ cũng đã quyết định huỷ bỏ thuế giao dịch chứng khoán
và ban hành một hệ thống thuế đã được củng cố trong năm 2001.
- Giảm lãi suất chiết khấu chính thức: Trước tình trạng sản xuất đình trệ, nhu cầu
đầu tư trong nước giảm sút, Chính phủ Nhật Bản đã liên tục giảm lãi suất cho
vay chính thức của ngân hàng nhằm kích thích đầu tư. Đây cũng là một trong
những hướng cơ bản của chính sách kích cầu trong nước. Trong suốt những năm
1990, lãi suất chính thức đã luôn được giảm đi trước tình trạng kinh tế suy thoái.
Ngân hàng trung ương Nhật Bản đã duy trì một tỷ lệ lãi suất thấp tới mức chưa
từng có trong lịch sử Nhật Bản (0,5%) trong suốt nhiều năm liên tục và thậm chí
hiện nay đã xuống tới mức sấp sỉ con số không nhằm phuch hồi và lấy lại sinh
khí cho nền kinh tế.
9


2. Các chương trình cải cách kinh tế một cách cơ bản và toàn diện
Nguyên nhân sâu xa gây ra tình trạng trì trệ kéo dài của nền kinh tế Nhật
Bản là sự bất cập hay những hạn chế của mô hình kinh tế Nhật Bản trước bối
cảnh mới của tình hình kinh tế quốc tế, sự lạc hậu của hệ thống ngân hàng tài
chính mang nặng tính bao cấp, sự cứng nhắc cũng như thiếu minh bạch của bộ

máy hành chính trong việc quản lí và điều hành nền kinh tế… Chính vì vậy, để
khắc phục một cách triệt để tình trạng kinh tế suy thoái đòi hỏi phải tiến hành
những cải cách toàn diện hệ thống kinh tế Nhật Bản. Tuy nhiên, không phải vấn
đề này đã được nhận thức và thực hiện ngay từ đầu thập kỷ1990 sau khi những
“bong bóng” kinh tế bất đông sản sụp đổ đẩy nền kinh tế Nhật Bản lâm vào tình
trạng suy thoái nghiêm trọng và kéo dài. Mà phải đến 1996, sau khi hàng loạt các
chương trình kích thích kinh tế trọn gói, như đã đề cập đến ở trên, không đem lại
hiệu quả, Chính phủ Nhật Bản dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Hashimoto mới
ban hành một loạt các chương trình cải các liên quan đến nhiều mặt hoạt động
của nền kinh tế xã hội Nhật Bản. Có 6 chương trình cải cách lớn đã được đưa ra,
trong đó có 3 chương trình liên quan đến cải cách kinh tế. Đó là: Điều chỉnh
chính sách kinh tế; Cải cách cơ cấu kinh tế; và Cải cách hành chính. Sau đây là
một số nội dung cơ bản nhất của các chương trình cải cách này.
Thứ nhất, để thực hiện cải cách cơ câu kinh tế, Chinh phủ Nhật Bản một mặt đã
áp dụng các giải pháp hỗ trợ đối với một số nghành công nghiệp đang bị sa sút
như luyện kim, đóng tầu, hoá chất… nhằm ngăn chặn nguy cơ phá sản của các
doanh nghiệp đang hoạt động trong các lĩnh vực này. Các giải pháp chủ yếu như
tài trợ qua ngân sách, kích thích đổi mới trang thiết bị qua thực hiện khấu hao
10


nhanh, áp dụng giải pháp miễn thuế và hỗ trợ thất nghiệp… Mặt khác, Chính phủ
đã thực thi các giải pháp để khuyến khích đầu tư vào các nghành công nghệ mới
như ưu đãi về thuế để khuyến khích các hoạt động đầu tư nghiên cứu triển khai
(R&D), thực hiện trợ cấp cho các chương trình và dự án quan trọng có qui mô
lớn, và các dự án trong các lĩnh vực mới có nhiều rủi ro. Chính phủ cũng thực
hiện hỗ trợ cho công tác nghiên cứu tại các trường, các viện và kêu gọi vốn của
khu vực tư nhân tập trung vào nghiên cứu cơ bản, sáng chế quy trình công nghệ
mới.
Thứ hai, cùng với các biện pháp kích cầu của Chính phủ, các công ty Nhật Bản

đã thực hiện hàng loạt các giải pháp như:
+ Cắt giảm chi phí sản xuất, trước hết là chi phí lao động. Trong suốt những năm
1990, các công ty Nhật Bản đã hết sức hạn chế việc tuyển thêm công nhân mới,
giảm công nhân hợp đồng, khuyến khích những người cao tuổi về hưu sớm, và
ép các xí nghiệp vừa và nhỏ làm thầu khoán phải giảm tối đa các chi phí sản xuất
phụ tùng. Kết quả là thất nghiệp gia tăng và các công nhân thường xuyên còn
được tuyển mộ phải làm thêm giờ song tiền lương lại không được tăng một cach
tương ứng. Chính vì thế trong suốt những năm 1990, những cơ hội tìm kiếm công
ăn việc làm tại các công sở nhà nước lẫn khu vực tư nhân cho những người dân ở
Nhật Bản ở độ tuổi lao động, đặc biệt là những sinh viên mới và đang chuẩn bị
tốt nghiệp ra trường, đã trở nên rất khó khăn. Đối với những ai lần đầu tiên đi tìm
kiếm công ăn việc làm thì quả thật là cơ hội rất mỏng manh. Bởi vì phần đông
các công ty Nhật Bản trong những năm này luôn ở trong tình trạng suy thoái, họ
phải co nhỏ lại quy mô họat động kinh doanh để tránh tổn thất và sa thải công
11


nhân. Một số nhỏ các công nhân được thuyên chuyển tới các xí nghiệp vừa và
nhỏ với những công việc mang tính chất tạm thời.
+ Tiến hành thu hẹp và giảm đầu tư vào nhiều khâu sản xuất cần nhiều lao động,
không còn cạnh tranh được với hàng nhập khẩu, đồng thời chuyển chúng sang
các nước Đông á. Đó là các nghành sản xuất phụ tùng ô tô, lắp ráp đồ điện, điện
tử, dệt… Hướng thích ứng này đã dẫn tới nguy cơ của sự “trống rỗng” nền công
nghiệp trong nước mà các sách báo đã đề cập đến rất nhiều. Theo các số liệu
thống kê của 14 nghành công nghiệp, tỷ lệ đầu tư ra nước ngoài trong những năm
giữa thập kỷ 90 bình quân đều đạt trên 27%, vượt xa mức 1,8% vào năm 1986.
Trong đó công nghiệp chế tạo tăng mạnh nhất. Ví dụ, đằu tư ra nước ngoài trong
ngành chế tạo ô tô đã tăng từ 4,8% năm 1986 lên 38,1% năm 1995 (Tạp chí
“Kinh tế hệ” số tháng 7/1996). Tỷ trọng sản xuất ở nước ngoài (chỉ mối quan hệ
giữatổng ngạch tiêu thụ của các xí nghiệp ở nước ngoài thuộc ngành chế tạo với

tổng ngạch tiêu thụ của ngành chế tạo trong nước) đã tăng từ 3% năm 1985 lên
6,4% năm 1990 và 7,4% năm 1993, trong đó nghành sản xuất máy điện tăng lên
12,6%, máy móc vận tải tăng lên 17,3% (Sách trắng đầu tư, Hội Chấn hưng mậu
dịch Nhật Bản năm 1995).
+ Tăng cường nhập khẩu các sản phẩm công nghiệp, bán thành phẩm, và linh
kiện, đặc biệt là những sản phẩm được sản xuất từ những cơ sở chế tạo của Nhật
Bản ở nước ngoài và nâng cao hơn nữa giá cả hàng xuất khẩu để bù lại những
thiệt hại do sư tăng giá của đồng Yên gây ra. Ví dụ trong năm 1995, nhiều công
ty xuất khẩu của Nhật Bản đã tăng giá hàng xuất khẩu từ 10 – 15%. Điều này đã
khiến cho hàng nhập khẩu dễ có điều kiện thâm nhập hơn vào thị trường Nhật
12


Bản trong khi đó hàng xuất khẩu từ Nhật Bản lại khó được chấp nhận hơn đối với
người tiêu dùng nước ngoài. Theo số liệu thống kê, xuất khẩu của Nhật Bản
trong name 1995 chỉ tăng có 2,6%so với 5,1% vào năm 1994, trong khi đó, nhập
khẩu tăng tới 9,2% so với 8,4% vào năm 1994. Do xuất khẩu giảm và nhập khẩu
tăng, cán cân mậu dịch thặng dư của Nhật Bản đã giảm đi đáng kể. Song điều
đáng nói là trong khi thặng dư mậu dịch với Mỹ và EU giảm đi thì thặng dư mậu
dịch của Nhật Bản với Châu á vẫn tiếp tục tăng nhanh, chứng tỏ Châu á ngày
càng trở thành một thị trường xuất khẩu quan trọng của Nhật Bản. Ví dụ, xuất
khẩu của Nhật Bản sang Châu á trong 6 tháng đầu năm 1995 đã lên tới 99,8 tỷ
đôla, cao hơn cả xuất khẩu của Nhật Bản sang Mỹ và EU cộng lại (97,3 tỷ đôla).
(Trịnh Ngọc - Kinh tế Nhật Bản phục hồi trong sự trì trệ. Nghiên cứu Nhật Bản,
số 1(5), 3/1996).
+ Tăng cường liên doanh, liên kết với nước ngoài trong việc nghiên cứu và phát
triển các sản phẩm mới. Đồng thời tến hành đào tạo lại lao động, hợp nhất các cơ
sở sản xuất không có hiệu quả, hoặc bán lại cho các nhà đầu tư nước ngoài…
Thứ ba, trong lĩnh vực tài chính, “Bing Bang” được coi là một trong những cuộc
cải cách có vị trí quan trọng hàng đầu. Đây là một cuộc cải cách toàn diện, sâu

sắc, và triệt để với mục tiêu cơ bản là: làm cho thi trường tài chính Nhật Bản
năng động hơn, linh hoạt hơn, tự do hơn, minh bạch, chuẩn mực hơn và có thể
sánh vai với những trung tâm tài chính lớn như New York và Luân Đôn. Những
nội dung chủ yếu của cuộc cải cách này là:
+ Mở rộng sự lựa chọn cho các nhà đầu tư và những người đi vay.
13


+ Cải tiến chất lượng phục vụ của các trung gian tài chính và thúc đẩy sự cạnh
tranh giữa các ngân hàng.
+ Phát triển một thị trường đem lại nhiều lợi ích hơn.
+ Thiết lập những khung khổ pháp lý và những quy định đáng tin cậy cho sự giao
dịch bình đẳng, minh bạch.
Trên cơ sở những hướng cải cách cơ bản nói trên, Chính phủ Nhật Bản đã ban
hành và thực hiện hàng loạt các chính sách và biện pháp cải cách cụ thể đối với
từng lĩnh vực của hệ thống tài chính. Trong đó, đặc biệt là các chính sách cơ cấu
lại Bộ Tài Chính, chính sách tăng cường vai trò của Ngân hàng trung ương Nhật
Bản, chính sách cơ cấu lại các ngân hàng thương mại, chính sách nới lỏng các
quy chế tạo điều kiện cho sự phát triển của các thị trường vốn độc lập và sự thâm
nhập vào các công việc kinh doanh lẫn nhau của các cơ quan tài chính nhằm tăng
cường khả năng cạnh tranh của chúng, các chính sách về lãi suất tín dụng, tỷ giá
đồng Yên, và thị trường chứng khoán, các chính sách về thuế, thu chi ngân sách
và bảo hiểm…(Hệ thống tài chính Nhật Bản: những đặc trưng cơ bản và cuộc cải
cách hiện nay; chủ biên Trần Quang Minh, Nxb KHXH, Hà Nội, 2003). Chi tiết
quá trình thực hiện cải cách tài chính “Bing Bang” của Nhật Bản được chỉ rõ
trong bảng sau:
Tiến trình thực hiện “Big Bang” của Nhật Bản
Các khoản mục 1997 1998 1999 2000 2001
1. Mở rộng sự lựa chọn cho các nhà đầu tư và các tổ chức tăng nguồn vốn
- Tự do hoá giao dịch vốn và kinh doanh noại hối trong nước cũng như

ngoài nước
14


- Thực hiện tài khoản chứng khoán chung
- Tự do hoá hoàn toàn các loại chứng khoán
- Giới thiệu việc bán uỷ thác đầu tư không cần qua quầy của ngân hàng và
các tổ chức khác
- Tăng khả năng thanh toán của ABS và các khoản nợ khác
- Mở rộng định nghĩa về chứng khoán
- Cải cách chế độ lương hưu
2. Cải tiến chất lượng các loại dịch vụ và đẩy mạnh cạnh tranh
- Khai thác sử dụng các công ty cổ phần
- Xoá bỏ những hạn chế trong hoạt động kinh doanh ở các chi nhánh của
các tổ chức tài chính
- Chuyển từ chế độ cấp giấy phép sang chế độ dăng ký đối với các công ty
chứng khoán
- Tự do hoá mức hoa ang của người môi giới
- Cho phép các ngân hàng phát hành thẳng trái phiếu và cổ phiếu
3. Sử dụng thị trường thân thiện, nhiều hơn
- Cải tiến mua bán ngoại tệ và xoá bỏ mức ấn dịnh cho các loại chứng
khoán có trong danh sách
- Tăng cường chức năng của thị trường đăng ký qua máy
- Xoá bỏ thuế giao dịch chứng khoán và thuế ở thị trường hối đoái
- Xoá bỏ một phần thuế của những người có JGBs
4. Cải tiến khung pháp lý cho việc trao đổi bình đẳng và minh bạch
- Thực hiện ngay các biện pháp hành động đúng
15



- Tăng cường chế độ công khai tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp
- Cải cách các tiêu chuẩn về kế toán: đánh gia kế toán thị trường bằng điểm

Chương ii: một số thành công bước đầu của cải cách kinh tế ở nhật bản
Có thể thấy tư sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực Đông á Nhật
Bản đã có những cố gắng xúc tiến mạnh hơn chương trình cải cách nền kinh tế
của mình. Trên thực tế cuộc khủng hoảng đã làm bộc lộ rõ những điểm hạn chế
trong bản thân nền kinh tế Nhật Bản, nhất là trong hệ thống Tài chính Ngân hàng
buộc Nhật Bản phải có sự cải cách toàn diện. Nhìn lại các cuộc cải cách trong
những năm gần đây ta thấy Nhật Bản không chỉ chú trọng vào phương diện tạo
cầu, kích cầu mà còn chú ý cả khía cạnh cung của nền kinh tế nhằm tạo ra một cơ
cấu kinh tế hợp lý trên cơ sởphát triển mạnh các ngành kinh tế kỹ thuật cao.
Trên phương diện cầu, Chính phủ Nhật Bản đã có nhiều chương trình kích thích
kinh tế hàng năm nhằm mở rộng đầu tư. Bên cạnh đó là những cố gắng tập trung
giải quyết các khoản nợ khó đòi, nhằm tạo sự lành mạnh trong hệ thống ngân
hàng, kích thích các hoạt động đầu tư tư nhân. Trong các chương trình cải cách
của Thủ tướng Nhật Bản trước ông Koizumi lại chú trọng kích thích đầu tư tư
nhân, hạn chế, giảm tài trợ đầu tư công cộng nhằm tiến tới cân bằng ngân sách.
Chẳng hạn theo dự toán ngân sách năm tài chính 2002, công trái được phát hành
không qua 30 nghìn tỷ Yên,giảm 10% ODA và giảm đầu tư công cộng 10%. Để
kích thích mạnh hơn đầu tư tư nhân chính phủ đã tập trung vào giải quyết nợ khó
đòi thông qua một số giải pháp mạnh có tính khả thi như bán lại nợ, cho doanh
16


nghiệp chịu nợ phá sản, ngân hàng tự huỷ bỏ một phần nợ. Cùng với đó thực hiện
giảm thuế để kích thích người dân tăng chi tiêu và đầu tư phát triển kinh tế.
Trên phương diện cung nhà nước chú ý đẩy mạnh cải cách cơ cấu và thể chế kinh
tế nhằm tạo môi trường thông thoáng cho các doanh nghiệp hoạt động. Các chính
sách Nhà nước tập trung chú trọng phát triển các nghành công nghệ cao đại diện

cho nền kinh tế mới – kinh tế tri thức. Xúc tiến chương trình phát triển tổng thể
vùng kinh tế nhằm gắn kết các khu vực trong nền kinh tế theo 4 trục chính: Đông
– Bắc, ven biển Nhật Bản, ven Thái Bình Dương và trục phía tây Nhật Bản, qua
đó phát huy lợi thế so sánh của từng vùng trong hoạt động kinh doanhhợp tac
quốc tế. Nhật Bản cũng đẩy mạnh tiến trình tự do hoá và hội nhập quốc tế. Bên
cạnh gia tăng các hoạt động hợp tác với ASEAN, Nhật Bản cũng từng bước mở
cửa thị trường nội địa và tự do hoá các hoạt động kinh doanh, thu hút nhiều hơn
dòng vốn nước ngoài đổ vào thị trường Nhật Bản.
Điều đáng chú ý trong các cuộc cải cáchgần đây là chú trọng phát triển kinh tế
theo hướng gia tăng nội nhu, láy nội nhu làm động lực phát triển.
I. một số thành công bước đầu của cải cách kinh tế Nhật Bản
Nhìn một cách tổng thể, cải cách kinh tế ở Nhật Bản đã thu được những kết quả
tương đối khả quan. Các cuộc cải cách này đa và đang dẫn tới những thay đổi
mạnh mẽ cơ cấu kinh tế Nhật Bản, làm cho khu vực tài chính Nhật Bản đã trở lên
có sức cạnh tranh mạnh hơn và, sự thâm nhập của nước ngoài vào nền kinh tế
Nhật Bản cũng trở nên ít khó khăn hơn. Các cuộc cải cách này cũng đã dẫn tới sự
cơ cấu lại các công ty và sự phát triển mạnh của các thị trường vốn độc lập. Hơn
10 năm trước dây, người Nhật Bản không thể nghĩ rằng sự xuất hiện của thị
17


trường vốn sẽ là một lực lượng quan trọng thúc đẩy sự cơ cấu lại nền kinh tế
Nhật Bản và làm thay đổi phong cách quản lý truyền thống trong các công ty của
Nhật Bản. Sự ra đời của một ban giám đốc độc lập và quyền lợi của các cổ đông
là những vấn đề đáng chu ý hiện nay ở các công ty Nhật Bản. Chế độ làm việc
suốt đời và trả lương theo thâm niên cũng đã trở nên không còn thích hợp nữa.
Nếu như trong những năm 1980, người ta không thể tuyển mộ sinh viên giỏi từ
một trường đại học có tiếng ở Nhật Bản vào làm việc cho một công ty mà không
phải là lớn hoặc không phải Bộ tài chính; và người Nhật Bản cũng không thích
thú vào làm việc trong các công ty nước ngoài, thì trong những năm gần đây, tình

hình đã hoàn toàn khác. Những sự thay đổi này, một phần chính là kết quả của
những cuộc cải cách kinh tế trong những năm 1990, đặc biệt là cuộc cải cách hệ
thống tài chính trong những năm gần đây của Nhật Bản.
1. Những tiến bộ trong việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
Kể từ khi nền kinh tế “bong bóng” bị sụp đổ, Chính phủ Nhật Bản đã ban hành
khá nhiều giải pháp kích thích cả gói với quy mô lớn cùng với các luật cải cách
tài chính và tỷ lệ lãi suất thấp nhằm chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Những giải pháp
này đã góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
Các nhà lãnh đạo kinh doanh của khu vực tư nhân đã phần nào lấy lại được lòng
tin trong việc đưa khu vực tư nhân thành khu vực đi đầu trong việc đem lại sự
phục hồi kinh tế cho Nhật Bản. Dưới tác động của các chính sách cải cách, các
tập đoàn công ty của Nhật Bản đã và đang tiến hành việc cơ cấu lại theo hướng
phù hợp với xu thế toàn cầu hoá kinh tế. Có 4 tín hiệu chứng tỏ các tập đoàn
18


công ty Nhật Bản đang tự chuyển đổi theo hướng một cơ cấu có khả năng cạnh
tranh mạnh hơn.
Thứ nhất là có sự thay đổi trong khâu quản lý theo hướng tăng cường vai trò của
những người nắm cổ phần. Theo hướng này, các tập đoàn công ty Nhật Bản được
đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của các cổ đông, và do đó các hoạt động kinh
doanh sẽ trở nên có hiệu quả hơn.
Thứ hai là việc thực hiện hệ thống tính toán thống nhất. Hệ thống này đã có tác
dụng quan trọng trong việc tăng cường sự minh bạch cũng như buộc các công ty
phải tập trung vào những khả năng cốt lõi của họ.
Thứ ba là các công ty đang xúc tiến việc nâng cao chất lượng lãnh đạo bằng cách
đưa vào các giám đốc từ bên ngoài. Bằng cách này các nhà quản lý có thể nghe
được nhiều ý kiến khác nhau và không thiên vị về chiến lược công ty của họ, cho
phép họ thực hiện những thay đổi làm tăng khả năng cạnh tranh hơn. Việc làm
này cũng góp phần tăng cường vai trò của lãnh đạo vì nó tách chức năng kiểm tra

khỏi chức năng hoạt động kinh doanh.
Thứ tư, việc quản lý các nguồn nhân lực cũng đang có sự thay đổi. Nhiều công ty
hiện nay nhấn mạnh vào khả năng làm việc hơn là sự thâm niên và thuê mướn
suốt đời. Ví dụ, theo một nghiên cứu, chỉ có 6,3% người Nhật cho rằng hệ thống
trả lương theo thâm niên cần được duy trì, trong khi đó 53,8% cho rằng tiền
lương cần được trả trên cơ sở công việc thực tế .
Bên cạnh những nhân tố kể trên, sự phát triển mạnh của đầu tư nước ngoài vào
Nhật Bản cũng là một động lực khác cho sự thay đổi cơ cấu các ngành. Đặc biệt
là cuộc cải cách tài chính Big Bang đã và đang dẫn tới những thay đổi cơ cấu sâu
19


sắc ở Nhật Bản. Khu vực tài chính Nhật Bản trở nên có sức cạnh tranh mạnh hơn
và sự thâm nhập của nước ngoài vào khu vực này cũng trở nên ít khó khăn hơn.
Theo các số liệu thống kê, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Nhật Bản trong
những năm gần đây đã tăng rất mạnh. Trong đó khoảng 34,1% tổng vốn FDI là
vào khu vực tài chính, và khoang 24% vào kỹ thuật thông tin và các ngành
thương nghiệp bán lẻ. FDI, ngoài các khoản tiền đầu tư, đã đưa vào Nhật Bản các
quan điểm của các nhà đầu tư và các kiểu quản lý công ty không chỉ mới mà còn
có thể áp dụng đối với các xí nghiệp Nhật Bản truyền thống. Nếu như trước đây
người Nhật Bản đã không thích thú làm việc trong các công ty nước ngoài ở Nhật
Bản thì trong những năm gần đây tình trạng này đã được cải thiện rất nhiều. Ví
dụ, nhiều người Nhật Bản đã hoan nghênh sự sát nhập của Nissan và Renault
nhằm cứu vãn sự sống còn của Nissan, trong khi thừa nhận rằng sự sống còn
không thể có được nếu không chấp nhận sự cơ cấu lại tập đoàn một cách đau đớn
như sa thải công nhân,…
Tất cả những nhân tố kể trên đã góp phần tạo ra một sự chuyển dịch đáng
kể trong nội bộ các ngành kinh tế của Nhật Bản. Nhiều ngành công nghiệp mới
đã ra đời và phát triển như: Thông tin liên lạc, viễn thông, điện tử và điện dân
dụng…, nhiều ngành công nghiệp truyền thống đã được điều chỉnh theo hướn thu

hẹp sản xuất, hoặc liên doanh liên kết, hoặc tăng cường năng lực sản xuất nhằ
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh như: ôtô, sắt thép, xây dựng…(Điều chỉnh
cơ cấu kinh tế Nhật Bản trong bối cảnh toàn cầu hoá, Chủ biên Vũ Văn Hà, Nxb.
KHXH, Hà Nội, 2002).
20


Có thể nói rằng, kể từ đầu thập kỷ 90 đến nay Nhật Bản đã và đang ở
trong một quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế sâu sắc. Nền kinh tế Nhật Bản
đang chuyển dịch theo hướng giảm sự can thiệp của Chính phủ và tăng cường sự
cạnh tranh của một nền kinh tế mở theo cơ chế thị trường, và theo hướng một nền
kinh tế mà sự tiến bộ của ký thuật thông tin đang được lan rộng một cách nhanh
chóng đem lại những khả năng cạnh tranh mới cho các công ty trên thị trường.
Trước và ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nông nghiệp và dệt là những
ngành đặc trưng của cơ cấu kinh tế Nhật Bản kiểu cũ. Trong những thập kỷ gần
đây, cơ cấu kinh tế Nhật Bản lại được đặc trưng bởi các công ty to lớn đã được
thiết lập một cách vững chắc trong nhiều ngành công nghiệp nặng (như luyện
kim, chế tạo máy, và hoá chất), hệ thống ngân hàng, và các công ty thương mại
tổng hợp lớn,… Và trong những năm gần đây, cơ cấu kinh tế này lại đang được
chuyển đổi theo hướng cải tổ cơ cấu và đầu tư vào kỹ thuật thông tin để có thể
hoạt động có hiệu quả trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ
trên thế giới. Bên cạnh những ngành nghề truyền thống đã và đang được cải tổ và
nâng cấp, có rất nhiều ngành nghề mới đang được hình thành trong nền kinh tế
Nhật Bản. Người ta gọi đó là “Kinh tế Nhật Bản kiểu mới”. Sự chuyển dịch cơ
cấu ngành chính là nhân tố quan trọngnhất tạo ra gương mặt mới của nền kinh tế
Nhật Bản.
2. Những thành tựu trong lĩnh vực cải cách tài chính.
Theo đánh giá chung, cuộc cải cách hệ thống tài chính Nhật Bản đã thu được
những kết quả bước đầu như: Vai trò và chức năng của hai cơ quan chủ yếu trong
hệ thống tài chính là Bộ Tài chính (MOF) và Ngân hàng Trung ương Nhật Bản

21


(BOJ) đã có sự thay đổi về cơ bản với việc tăng cường tính độc lập và quyền tự
quyết của BOJ trong việc quản lý và thực hiện chính sách tiền tệ; Luật Ngân
hàng mới đã có hiệu lực và đi vào hoạt động kể từ năm 1997; nhiều ngân hàng đã
tiến hành việc bán những uỷ thác đầu tư; các cơ quan tài chính đã có quyền chủ
động hơn trong việc giải quyết những vấn đề nảy sinh; và rất nhiều công ty kinh
doanh chứng khoán đã được thành lập và đi vào hoạt động. Việc hợp nhất, các
ngân hàng nhằm làm tăng sức mạnh tài chính và khả năng lợi nhuận đã được đẩy
mạnh. Sự thâm nhập của các ngân hàng thương mại và ngân hàng uỷ thác vào
kinh doanh bảo hiểm thông qua các chi nhánh cũng đã được thực hiện…
Sau hơn 5 năm triển khai và thực hiện, cuộc cải cách hệ thống tài chính Nhật
Bản bước đầu đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Cuộc cải cách này đã và
đang dẫn tới những thay đổi cơ cấu sâu sắc ở Nhật Bản. Khu vực tài chính Nhật
Bản đã trở nên có sức cạnh tranh hơn, sự thâm nhập của nước ngoài vào khu vực
này cũng trở nênít khó khăn hơn, các thị trường vốn độc lập cũng đã được phát
triển thêm một bước. Các cơ quan tài chính Nhật Bản đã hoàn toàn được tự do
trong các hoạt động của mình và các phương tiện quản lý tài sản đã được cải
thiện một cách có ý nghĩa, sự thâm nhập lẫn nhau về công việc kinh doanh của
các ngân hàng, các công ty chứng khoán và công ty bảo hiểm, cùng với xu hướng
hợp nhất các loại cơ quan này đã được đẩy mạnh, các thị trường vốn đã được
phát triển thêm một bước, đặc biệt là mạng lưới thị trường thông qua hệ thông
trao đổi thương mại điện tử và qua Internet; Sự liên doanh, liên kết với nước
ngoài và sự thâm nhập của các công ty ài chính nước ngoài vào Nhật Bản đã
được đẩy mạnh dưới các hình thức như: FDI, mua cổ phần, tham gia trực tiếp vào
22


công việc quản lý của các công ty Nhật Bản và các thị trường chứng khoán ở

Nhật Bản; Và chất lượng quản lý tín dụng của các cơ quan trong hệ thống tài
chính Nhật Bản đã được cải thiện rất đáng kể (Hệ thống tài chính Nhật Bản:
Những đăc trưng cơ bản và cuộc cải cách hiện nay; chủ biên Trần Quang Minh,
Nxb KHXH, Hà Nội, 2003).
II. những chính sách và biện pháp cải cách trong từng lĩnh vực của hệ thống tài
chính
Mặc dù đã từng có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế của Nhật
Bản, đặc biệt là trong thời kỳ tăng trưởng ngoạn mục (1955 – 1973), hệ thống tài
chính Nhật Bản mà trong đó các ngân hàng đóng vai trò trung tâm, kể từ cuối
thập kỷ 80 đến nay đa bộc lộ rất nhiều những yếu kém và bất cập, ảnh hưởng tiêu
cực đến sự phát triển kinh tế của đất nước. Trong suốt hơn một thập kỷ vừa qua,
Chính phủ Nhật Bản đã phải thực hiện khá nhiều chính sách và biện pháp nhằm
cơ cấu lại hệ thống tài chính thích ứng với những đòi hỏi của tình hình kinh tế
trong nước và bối cảnh quốc tế mới. Tuy nhiên, những giải pháp tình thế được
thực hiện trong những năm đầu thập kỷ 90 đã chứng tỏ rằng đó không phải là
những phương thuốc hữu hiệu đẻ chữa trị căn bệnh “khủng hoảng cơ cấu” kinh tế
nói chung và hệ thống tài chính của Nhật Bản nói riêng. Chỉ khi chương trình
“Big Bang” do Thủ tướng Hashimoto khởi sướng và được thực hiện kể từ tháng
11/1996, hệ thống tà chính Nhật Bản mới thực sự bước vào một cuộc cải cách
sâu sắc và toàn diện.
23


Đặc điểm nổi bật của hệ thống tài chính Nhật Bản là chủ yếu dựa vào ngân hàng
nên trước hết chúng ta sẽ đi vào các chính sách, biện pháp để cải cách ngân hàng
trung ương (NHTW) và ngân hàng thương mại (NHTM).
1. Các chính sách đối với NHTW và NHTM
Hệ thống tài chính Nhật Bản, đặc biệt là hệ thống ngân hàng, đã được ca ngợi có
vai trò sống còn trong phát triển kinh tế của Nhật Bản trước những năm 1990.
Rất nhiều ngân hàng Nhật Bản thời kỳ đó là những ngân hàng lớn nhất trên thế

giới: 9 trong số 10 ngân hàng hàng đầu thế giới xét về quy mô tài sản là những
ngân hàng Nhật Bản. Các ngân hàng này có những quỹ tiền gửi khổng lồ, chi phí
thấp và những đánh giá tín dụng cao nhất. Chính vì thế, Nhật Bản đã thay đổi hẳn
trong những năm 1990 với những món nợ khó đòi khổng lồ của các ngân hàng,
kinh tế triền miên trong vòng suy thoái, giảm phát liên tục trong những năm gần
đây. Vậy làm thế nào để có thể lập lại trật tự của hệ thống tài chính để ngân hàng
có thể làm tốt vai trò trung gian tài chính của mình trong việc thu hút vốn nhàn
rỗi và cung cấp vốn cho doanh nghiệp, thực sự đáp ứng những yêu cầu mới trong
qua trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá. Chương trình cải cách “Big Bang” đã
đưa ra những chính sách và biện pháp tương đối toàn diện để đổi mới nguyên tắc
hoạt động cũng như cơ cấu tổ chức hệ thống ngân hàng Nhật Bản.
a. Đối với NHTW
Như chúng ta đã biết, ngân hàng trung ương là một định chế quản lý nhà nước về
tiền tệ – tín dụng. Nó nằm trong bộ máy quyền lực quốc gia. Song, tuỳ theo điều
kiện lịch sử cụ thể của mỗi nước, HNTW có thể độc lập hay trực thuộc Chính
phủ. Chẳng hạn ở Mỹ và Đức, thực hiện thể chế NHTW độc lập với Chính phủ.
24


Trong thể chế này, Chính phủ không được can thiệp vào hoạt động của NHTW.
Nhưng ở Nhật, Anh, Pháp và một số nước khác thực hiện thể chế NHTW trực
thuộc Chính phủ, Chính phủ có ảnh hưởng quyết định đối với hoạt động của
NHTW.
Khác với tính chất quản lý nhà nước của các bộ, NHTW thực hiện việc quản lý
nhà nước qua các nghiệp vụ kinh doanh có đem lại lợi nhuận. Song, việc kinh
doanh này chỉ là phương tiện nâng cao hiệu suất của công tác quản lý, chứ không
phải là mục đích của hoạt động chính của NHTW.
Mục đích hoạt động của NHTW là cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế, điều hoà lưu
thông tiền tệ và quản lý hệ thống ngân hàng, nhằm bảo đảm lưu thông tiền tệ ổn
định, từ đó tạo diều kiện tăng trưởng kinh tế, tăng việc làm và kiềm chế lạm phát.

Với 3 chức năng cơ bản là: phát hành tiền tệ, ngân hàng của các ngân hàng và
ngân hàng của nhà nước, NHTW đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định và
phát triển kinh tế – xã hội như điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông, ổn định
sức mua của đồng tiền quốc gia.
Ngân hàng trung ương Nhật Bản (DOJ) ra đời vào năm 1886 theo sáng kiến của
Bộ trưởng Tài chính Masayoshi Matsuka. Đây là một phần trong chương trình
hiện đại hoá tài chính Nhật Bản của thời Minh Trị. Mục tiêu là để cải cách hệ
thống tiền tệ, thiết lập một đồng tiền chung trong cả nước, tạo cơ sở cho tài chính
quốc gia và thúc đẩy sự phát triển của ngân hàng nói chung. Gần 60 năm sau
Pháp lệnh BOJ được thay thế bằng một luật NHTW mới được thực hiện trong
thời kỳ Chính phủ do giới quân sự lắm quyền vào năm 1942. Sự sửa đổi lần đó
có thêm vào quyền hạn của NHTW trong chính sách tiền tệ, nhưng vẫn coi
25


HNTW là một bộ phận của Bộ Tài Chính. Sau Chiến tranh Thế giới thứ II, BOJ
hầu như không có sự thay đổi. Hai sáng kiến nhằm cải cách Luật NHTW – một
lần vào cuối những năm 1950 và một lần nữa vào năm 1965 đều không đem lại
kết quả. Vì lúc đó kinh tế đang tăng trưởng với tốc độ cao nên các chính trị gia
cũng như công chúng thấy không quan tâm nhiều tới sự thay đổi Luật NHTW.
Điều này mới chỉ được thực sự nghĩ tới khi nền kinh tế đã như một quả bóng
căng phồng vào cuối những năm 1980 và khi bong bóng nổ thì những tiếng kêu
cứu từ những tổ chức cho vay và của công chúng buộc Chính phủ phải có một
vài hành động để thay đổi chính sách tiền tệ và hệ thống tài chính. Một uỷ ban tư
vấn riêng của Thủ tướng Hashimoto và báo cáo đầu tiên được công bốvào tháng
11 năm 1996. Sau đó quá trình sửa đổi luật bắt đầu được Uỷ ban Nghiên cứu hệ
thống tài chính và Ban Cố vấn trong Bộ Tài chính tiến hành. Tháng 2 năm 1997
dự thảo luật được nội các chấp thuận và được 2 viện của Quốc hội thông qua vài
tháng sau đó. Với tiêu đề “Tiến tới sự độc lập của BOJ” báo cáo của Uỷ ban Tư
vấn đã tổng hợp ý kiến của các quan chức trong BOJ và Bộ Tài chính.

Luật NHTW mới của Nhật Bản ghi rõ NHTW được độc lập trong chính sách tiền
tệ và cụ thể hoá những vấn đề thuộc phạm vi của NHTW. Điều 1 của Luật đưa ra
2 mục tiêu của NHTW là quản lý tiền, ổn định giá cả, và đảm bảo cung cấp vốn
cho các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác, duy trì trật tự của hệ thống tài
chính. Quy định này cho thấy NHTW là trung tâm của hệ thống thanh toán cũng
như là tổ chức để duy trì “trật tự tài chính”. Điều 3 của Luật tuyên bố sẽ tôn trọng
quyền tự quyết của NHTW bằng sự độc lập trong quá trình ra quyết định và công
bố nội dung các quyết định. Luật cũng quy định chức năng và việc bổ nhiệm các

×