Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Thực trạng kinh tế các khu vực cửa khẩu và chính sách phát triển kinh tế đồng bộ của Nhà nước doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (543.21 KB, 103 trang )

Phần I: Khu kinh tế cửa khẩu và tác động của nó đối với việc phát triển vùng
Đông Bắc
I. Một số khái niệm về khu kinh tế cửa khẩu:
1. Khái niệm:
Thuật ngữ khu kinh tế cửa khẩu mới được dùng ở Việt Nam trong một số năm
gần đây khi quan hệ kinh tế-thương mại Việt Nam và Trung Quốc đã có những
bước phát triển mới, đòi hỏi phải có mô hình kinh tế phù hợp nhằm khai thác các
tiềm năng, thế mạnh kinh tế của hai nước thông qua các cửa khẩu biên giới. Bên
cạnh đó Việt Nam còn có biên giới với Lào và Campuchia, tuy họ là các quốc gia
nhỏ, còn khó khăn về kinh tế, nhưng lại có vị trí hết sức quan trọng là nằm trong
tiểu vùng sông Mêkông. Giữa các quốc gia thuộc tiểu vùng sông Mêkông đang
có nhiều dự án xây dựng cầu, đường thúc đẩy phát triển kinh tế theo tuyến hành
lang Đông-Tây trên cơ sở dòng chảy tự nhiên của sông Mêkông. Tât cả các điều
kiện thuận lợi trên chỉ có thể phát huy tốt nếu có các mô hình kinh tế thích hợp,
trong đó phải kể đến khu kinh tế cửa khẩu.
Để đưa ra được khái niệm về khu kinh tế cửa khẩu, cần phải dựa trên cơ sở của
nhiều khái niệm có liên quan. Khái niệm được đề cập đến đầu tiên là “giao lưu
kinh tế qua biên giới”, từ trước đến nay khái niệm về “giao lưu kinh tế qua biên
giới” thường được hiểu theo nghĩa hẹp là các hoạt động trao đổi thương mại, trao
đổi hàng hoá giữa cư dân sinh sống trong khu vực biên giới, hoặc giữa các doanh
nghiệp nhỏ đóng tại các địa bàn biên giới xác định, thuộc tỉnh có cửa khẩu biên
giới. Thương mại qua các cửa khẩu biên giới có thể được thực hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau: trao đổi hàng hoá qua các cặp chợ biên giới, nơi cư dân 2
bên biên giới thực hiện các hoạt động mua/bán hàng hoá trên cơ sở tuân thủ các
quy định của Nhà nước về tổng khối lượng hoặc tổng giá trị trao đổi. Địa điểm
cho các cặp chợ này do chính quyền của cả 2 bên thỏa thuận. Hoặc là các hoạt
động thương mại biên giới thực hiện dưới dạng trao đổi hàng hoá giữa hai xí
nghiệp nhỏ tại địa phương với các đối tác của mình ở bên kia biên giới. Thông
thường, đây là các hoạt động trao đổi hàng hoá với giá trị không lớn lắm. Trong
khi đó, hiểu theo nghĩa rộng, giao lưu kinh tế qua biên giới bao gồm các dạng
hoạt động trao đổi kinh tế, kĩ thuật qua các cửa khẩu biên giới, trong đó các hoạt


động trao đổi thương mại là một trong những yếu tố cấu thành. Trong vòng hơn
một thập kỉ vừa qua , nội dung của giao lưu kinh tế đã có những thay đổi lớn và
trở thành các hoạt động hợp tác kinh tế, kĩ thuật ngày càng đầy đủ và toàn diện
hơn. Trong đó, các hoạt động giao lưu kinh tế không chỉ đơn thuần là việc buôn
bán, trao đổi hàng hoá thông thường mà còn bao gồm cả các hoạt động hợp tác
kỹ thuật, xuất và nhập khẩu dịch vụ, thực hiện các liên doanh xuyên biên giới,
các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư của phía bên kia biên giới, buôn bán các
trang thiết bị kỹ thuật, liên doanh phát triển cơ sở hạ tầng, du lịch qua biên giới,
v v… Như vậy, có thể trao đổi hàng hoá đơn giản thành các hoạt động hợp tác
sản xuất kinh doanh. Tại một số nước (như Trung Quốc, Thái Lan) xu hướng này
ngày càng trở nên rõ ràng và trở thành hướng đi chính, dẫn tới việc thành lập các
khu mậu dịch tự do biên giới, hoăc thành lập các khu hợp tác kinh tế khu vực và
quốc tế.
Các lý thuyết kinh tế học phát triển đã chỉ rõ rằng giao lưu kinh tế qua biên giới
với tư cách là một hình thức mở cửa kinh tế giữa các nước láng giềng có thể
mang lại nhiều lợi thế cho các nước này. Sơ lược có thể đưa ra bốn lợi thế như
sau: Thứ nhất, các nước láng giềng có ưu thế về vị trí địa lý, khoảng cách nối liền
qua biên giới sẽ làm giảm nhiều chi phí giao thông vận tải và liên lạc; các vùng
biên giới lại thường là các vùng có nguồn tài nguyên dồi dào, sản vật quý đa
dạng, là những tiền đề tốt để phát triển thương mại và du lịch. Thứ hai, khu vực
các cửa khẩu biên giới trên bộ hiện còn chưa phải đối mặt với cạnh tranh thương
trường ở mức gay gắt như các vùng cửa khẩu hàng không hàng hải, mà chỉ là
một thị trường mới mở, mang tính chất bổ sung cho các nhu cầu của nhau. Thứ
ba, các nước láng giềng có trình độ phát triển không quá chênh lệch về cơ cấu
ngành nghề, sản phẩm, nguyên liệu, nhu cầu thị trường. Thứ tư, buôn bán biên
giới trên bộ có thể có những hình thức đa dạng hơn so với buôn bán qua các cửa
khẩu hàng không, hàng hải. Nhân dân vùng biên giới hai nước qua lại buôn bán,
giao lưu, làm thúc đẩy nhu cầu quan hệ, trao đổi chính thức ở cấp Nhà nước.
Giao lưu kinh tế tại khu vực các cửa khẩu biên giới là hình thức tiếp cận mới để
thực hiện mục tiêu mở rộng hợp tác kinh tế giữa các nước láng giềng. Cho đến

nay, lịch sử hợp tác kinh tế đã biết đến nhiều hình thức liên kết kinh tế thông
thường. Trong đó, ở trình độ cao, phải kể đến các hình thức như:
- Khu vực thương mại tự do
- Liên minh thuế quan
- Thị trường chung
- Liên minh kinh tế
Trong khi đó, tại các vùng, các địa phương có trình độ phát triển kinh tế còn
thấp, các hoạt động hợp tác kinh tế còn được thực hiện dưới nhiều dạng thức
khác nhau. Trong đó phải kể đến là:
- Các vùng tăng trưởng: là hình thức hợp tác kinh tế mới giữa các vùng nằm kề
nhau về mặt địa lý của các nước làng giềng, cho phép đạt được mục tiêu tăng
trưởng nhanh hơn về thời gian, thấp hơn về chi phí. Đồng thời, chúng còn có các
ưu điểm khác nhau cho phép khai thác các thế mạnh bổ sung của mỗi nước thành
viên, tận dụng hiệu quả kinh tế qui mô lớn.
- Các thỏa thuận về thương mại miễn thuế: cũng là một hình thức liên kết thương
mại được xem xét tại một số nước đang phát triển ở châu á (ví dụ: giữa ấn Độ và
Nêpan. Trung Quốc và một số nước láng giềng,vv…). Những thỏa thuận này có
thể dẫn đến việc thực hiện các qui định về miễn thuế quan cho một số loại hàng
hoá được trao đổi gữa các nước thành viên, và thậm chí có thể làm tiền đề cho
một liên minh thuế quan về sau.
- Các đặc khu kinh tế (như khu chế suất, khu công nghiệp tập trung) được áp
dụng tại nhiều nước Đông á và Đông-Nam á trong vài thế kỉ gần đây, và ở Việt
Nam hiện nay, cũng là một trong những hình thức đặc thù này.
Yếu tố chính qui định sự khác biệt về mức độ hợp tác và các hình thức được lựa
chọn là sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế của các nước đang thực hiện
liên kết. Tính đa dạng trong các loại hình và yếu tố quyết định sự cho sự lựa chọn
một mô hình cụ thể phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, những điều kiện
cần và đủ để quyết định hình thức này hay hình thức kia sao cho phù hợp hơn và
có hiệu quả hơn.
Do đó, thông qua các hình thức, các cấp độ phát triển khác nhau của liên kết kinh

tế, căn cứ theo đặc điểm của một loại hình kinh tế gắn liền với cửa khẩu, cho
phép áp dụng những chính sách riêng trong một phạm vi không gian và thời gian
xác định mà ở đó đ• có giao lưu kinh tế biên giới phát triển… sẽ hình thành khu
kinh tế cửa khẩu. Vì vậy, có thể hiểu khu kinh tế cửa khẩu là một không gian
kinh tế xác định, gắn với cửa khẩu, có dân cư hoặc không có dân cư sinh sống và
được thực hiện những cơ chế chính sách phát triển riêng, phù hợp với đặc điểm ở
đó nhằm đưa lại hiệu quả kinh tế-xã hội cao hơn do Chính phủ hoặc Thủ tướng
Chính phủ quyết định thành lập. Hay khu kinh tế cửa khẩu có thể được hiểu là
một vùng lãnh thổ bao gồm một hoặc một số cửa khẩu biên giới được Chính phủ
cho áp dụng một số chính sách ưu đãi, khuyến khích phát triển kinh tế-xã hội
nhằm tăng cường giao lưu kinh tế với các nước, tạo nguồn thu cho ngân sách
Nhà nước và đầu tư chuyển đổi cơ cấu kinh tế các địa phương có cửa khẩu.
2. Những điểm giống và khác nhau giữa khu kinh tế cửa khẩu với các khu kinh tế
khác.
Nội hàm của khái niệm về khu kinh tế cửa khẩu đã đề cập ở trên cho ta thấy, nó
có một số điểm giống và khác nhau so với một số mô hình kinh tế như khu công
nghiệp, khu chế xuất… Và thông qua sự so sánh này chúng ta sẽ có cái nhìn toàn
diện hơn về mô hình khu kinh tế cửa khẩu.
- Trên thế giới có nhiều cách hiểu và tiếp cận khác nhau về khu công nghiệp, khu
chế xuất, khu công nghệ cao. Đối với Việt Nam các khái niệm trên được hiểu
một cách thống nhất theo cơ chế KCN, KCX, KCNC ban hành kèm theo NĐ số
36/Chính phủ ngày 24/4/1997. Các khái niệm được hiểu như sau:
Khu chế xuất là khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho
sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới xác định không có
dân cư sinh sống, được hưởng một chế độ ưu tiên đặc biệt của Chính phủ, do
Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
- Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công
nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác
định, không có dân cư sinh sống, được hưởng một số chế độ ưu tiên của Chính
phủ hay địa phương, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành

lập. Khu công nghiệp là mô hình kinh tế linh hoạt hơn, hấp dẫn các nhà đầu tư
nước ngoài, là đối tượng đầu tư chủ yếu vào các khu công nghiệp vì họ hi vọng
vào thị trường nội địa, một thị trường mới, có dung lượng lớn để tiêu thụ hàng
hoá của mình. Hơn nữa, việc mở của thị trường nội địa cũng phù hợp với xu
hướng tự do hóa mậu dịch trên thế giới và khu vực… Việc cho phép tiêu thụ
hàng hoá tại thị trường trong nước không những tạo nên yếu tố kích thích cạnh
tranh sản xuất trong nước từ đó nâng cao khả năng xuất khẩu mà còn góp phần
tích cực đẩy lùi và ngăn chặn hàng nhập lậu.
- Khu công nghệ cao là khu tập trung các doanh nghiệp công nghệ kỹ thuật cao
và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao, gồm nghiên cứu -
triển khai khoa học – công nghệ, đào tạo và các dịch vụ có liên quan, có ranh giới
địa lý xác định được hưởng một số chế độ ưu tiên nhất định, do Chính phủ hoặc
Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
- Đặc khu kinh tế là một khu vực không gian kinh tế, mà ở đó thiết lập một chế
độ ưu tiên riêng, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ thành lập. Chế độ ưu
tiên này được hình thành nhờ một loạt các điều kiện ưu đãi nhất định (như được
miễn giảm các loại thuế, nới lỏng qui tắc thuế quan và ngoại hối…), nhằm thúc
đẩy các hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc nghiên cứu khoa học trong khu vực.
Như vậy, khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao là ba loại của đặc
khu kinh tế, chúng có những đặc điểm khác nhau xuất phát từ sự khác nhau về
mục đích, đối tượng tham gia hay mối liên kết của chúng đối với nền kinh tế.
Qua các khái niệm trên có thể thấy một số điểm giống và khác nhau giữa khu
kinh tế cửa khẩu với các loại hình kinh tế trên là:
- Điểm giống nhau, trước hết về tư cách pháp nhân, chúng được thành lập do
quyết định của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ và được hưởng một số chế
độ ưu đ•i của Chính phủ hoặc chính quyền địa phương,có một không gian kinh tế
hay một vị trí xác định. Ngoài ra, các hình thức kinh tế này đều nhằm mục đích
nâng cao hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế vùng, địa phương, thông qua việc
phát huy đặc điểm hoạt động của từng loại hình này đối với vùng, địa phương,
hay kinh tế cả nước.

- Điểm khác nhau cơ bản giữa khu kinh tế cửa khẩu với các hình thức kinh tế
này, là ở vị trí và điều kiện hình thành. Để thành lập khu kinh tế cửa khẩu trước
hết phải gắn với vị trí cửa khẩu, đây là khu vực có dân hoặc không có dân sinh
sống, có các doanh nghiệp trong nước ngoài. Hơn nữa, mực đích thành lập khu
kinh tế cửa khẩu nhằm ưu tiên phát triển thương mại, xuất nhập khẩu, dịch vụ, du
lịch và công nghiệp. Trong đó, qua trọng nhất là hoạt động thương mại, dịch vụ,
bao gồm: hoạt động xuất, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, vận chuyển hàng hoá quá
cảnh, kho ngoại quan, cửa hàng miễn thuế… Như vậy, nguồn hàng hóa trao đổi ở
đây có thể là tại chỗ, hoặc từ nơi khác đưa đến, khác với khu công nghiệp và khu
chế xuất. Do đó các chính sách ưu tiên cũng khác nhau, phù hợp với đặc thù của
vùng, địa phương nơi các loại hình này được thành lập.
II. Mô hình phát triển khu kinh tế cửa khẩu.
1. Mô hình không gian.
Các khu kinh tế cửa khẩu đều có đặc điểm chung về hành chính là nơi tiếp giáp
hai hay nhiều quốc gia, có vị trí địa lý riêng trên đất liền, biển, sông hồ…. nằm
trong tài liệu phân chia biên giới theo Hiệp Định và được Nhà nước cho áp đặt
một số chính sách riêng.
1.1. Nguyên tắc chung của mô hình không gian:
ơ- Tôn trọng chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải, thuỷ, thềm lục địa, vùng trời theo hiệp
định đã ký và các quy ước quốc tế.
- Các hoạt động ở khu vực phải xét đến yếu tố địa lý, tự nhiên để không làm tổn
hại đến lợi ích các bên về các mặt, chú ý đến lĩnh vực môi trường.
- Bảo đảm sự phối hợp tốt nhất các yếu tố tự nhiên để các bên cùng có lợi.
- Cần có sự bàn bạc cụ thể khi triển khai các hoạt động trong khu vực nhằm tạo
ra sự hợp tác các nguồn lực của các bên.
- Tìm kiếm các các yếu tố tương đồng, tìm kiếm và hướng tới các vị trí mà ở đó
có mối liên hệ tốt trong nội địa để bù đắp các thiếu hụt về nguồn lực, về trao đổi
hàng hoá.
- Tránh các vị trí bất lợi, vị trí để tội phạm hoạt động hoặc có thể xảy ra tranh
chấp, lấn chiếm, vị trí dễ nảy sinh mâu thuẫn.

1.2. Một số mô hình không gian:
Mô hình đường thẳng: Đây là mô hình tốt, một mặt giảm tập trung cao về biên
giới, đồng thời là nơi sử dụng hàng hoá nhập khẩu và tạo ra hàng xuất khẩu dựa
trên cơ sở lợi thế về mặt giao thông. Để đáp ứng về điều đó các bên phải có tuyến
đường bộ, đường sắt, đường sông, hoặc liền bờ biển, ngoài ra trên các tuyến giao
thông đó cần hình thành các, khu công nghiệp, đô thị, bến cảng ở mỗi bên với cự
ly hợp lý, có mối liên hệ kinh tế mật thiết với khu kinh tế cửa khẩu. Mô hình này
gần như đã tồn tại một cách “tự nhiên” trong lịch sử, từ một lối mòn dân chúng
qua lại sau đó nhu cầu trao đổi tăng giao thông phát triển trở thành cửa khẩu. Có
thể cho rằng mô hình này là cơ sở của các mô hình khác. (hình 1a)
Mô hình quát giao nhau ở cán: là mô hình dựa trên hai bên có hành loạt các đô
thị, khu công nghiệp, các vùng sản xuất nhưng cách biên giới một khoảng do tự
nhiên hoặc quy ước một cách phù hợp, việc trao đổi hàng hoá đều tập trung về
khu kinh tế theo đường giao thông gần nhất. Mô hình này có tính tập trung cao
về thương mại, có thể gọi là cảng khô hay khu thương mại tự do. (hình1b)
Mô hình quạt giao nhau ở cánh: là mô hình mà biên giới có các khu đô thị, khu
công nghiệp tập trung, hàng hoá hai bên được trao đổi một cách phân tán ở nhiều
cặp chợ biên giới. Mô hình này thích hợp với biên giới có địa hình phẳng đông
dân cư để có thể xây dựng các phố biên giới dài hàng km. (hình 1c)
Mô hình lan toả: là mô hình dựa trên cơ sở tập quán sinh hoạt của dân cư nên mô
hình này mang tính tự phát và phát triển theo yêu cầu lợi dụng các yếu tố tự
nhiên. Mô hình này thích hợp với các cặp chợ, thị trấn biên giới, hay các công
trình hạ tầng do hai bên hợp tác, hoặc sẵn có.
1c. Mô hình quạt giao ở cánh
1.3. Mô hình một khu kinh tế cửa khẩu:
Là mô hình căn cứ vào nhu cầu phát triển kinh tế của mỗi nước, khả năng giao
lưu với nước thứ ba nhờ hệ thống giao thông như đường bộ, sân bay bến cảng
đường thủy; dựa trên các điều kiện tự nhiên thuận lợi các nước sẽ bố trí các cặp
cửa khẩu quốc tế, quốc gia và địa phương.
Mô hình này được dựa trên một số các nguyên tắc như: thuận lợi cho việc kiểm

soát các phương tiện, người và hàng hoá qua lại, trong đó cần có sự phối hợp hỗ
trợ về các tiện ích công cộng như điện, nước, chiếu sáng, cây xanh, môi trường.
Ngoài ra cần có dịch vụ tốt cho sự lưu trú của người cũng như của hàng hoá và
các phương tiện quá cảnh, Có hai mô hình cụ thể sau:
- Mô hình đối xứng: là mô hình được xây dựng theo định hướng phát triển của
mỗi bên và thoả thuận quốc gia, mỗi bên xây dựng khu kinh tế cửa khẩu độc lập,
cạnh tranh phát triển, do vậy nó có nét đối xứng mỗi bên có kết cấu hạ tầng giống
nhau do đó chúng có những điểm bố trí tương đồng với nhau về kết cấu bao gồm:
khu dân cư, khu thương mại, khu sản xuất, khu vui chơi giải trí, khu hành chính.
Mô hình đặc biệt: đây là mô hình liên kết hai giai đoạn, tạo ra vùng lãnh thổ đặc
biệt, hai bên có thể thoả thuận bằng một hiệp ước, theo đó chỉ ra vùng lãnh thổ
hợp lý, có hàng rào, không có dân cư sinh sống. Điểm khác biệt về nguyên tắc
của mô hình là hình thành một công ty kinh doanh hạ tầng cho thuê toàn bộ các
tiện ích trong khu theo danh mục ngành nghề kinh doanh. Mô hình này có lợi thế
khai thác tốt nhất hạ tầng và có khả năng thu hút đầu tư quốc tế. Tuy nhiên cơ
chế qui định trách nhiệm và lợi ích mỗi bên cần được phân định một cách thật rõ
ràng.
Khu sản xuất (công ty liên doanh đầu tư phát triển và kinh doanh hạ tầng thuê
đất) Các cửa kiểm soát Khu hành chính Khu thương mại và dịch vụ
2. Mô hình thể chế.
2.1. Nguyên tắc chung:
- Tôn trọng luật pháp quốc tế, các hiệp định thoả thuận, quốc gia, khu vực trên cơ
sở bảo đảm hoà bình, thịnh vượng và cùng có lợi.
- Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
- Chủ động thông báo cho nhau cùng hợp tác, thiện chí giải quyết những vướng
mắc dựa trên sự tôn trọng truyền thống và tập quán, bản sắc văn hóa của mỗi dân
tộc.
- Tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư và dân chúng làm
ăn.
- Phân cấp giải quyết các vấn đề phát sinh thường xuyên cho các cấp chính quyền

khu vực theo nguyên tắc đối xứng.
Giữa các quốc gia có chung biên giới cần có sự trao đổi thông tin một cách
thường xuyên về tình hình xây dựng cơ chế, chính sách phát triển khu kinh tế cửa
khẩu của mỗi nước, để cùng phối hợp điều chỉnh và thực hiện cho phù hợp.
Những nội dung mà các bên cùng quan tâm là :
- Khảo sát thực tế nguồn lực trong khu vực qui ước như điều kiện tự nhiên, kinh
tế-xã hội, văn hóa, dân tộc và tập quán, các ưu thế và các hạn chế.
- Những vấn đề về cơ chế chính sách chung như đường lối, chủ trương, chính
sách, những văn bản pháp lý, các hiệp định, mô hình thể chế tại các khu vực cửa
khẩu.
- Các chính sách cụ thể trong hoạt động xuất nhập khẩu, các biểu thuế và thủ tục
hải quan, xuất nhập cảnh đối với người và phương tiện; những văn bản quy định
về đầu tư nước ngoài vào khu vực này, cũng như các biện pháp đảm bảo an ninh,
trật tự và các biện pháp bảo vệ môi trường cho sự phát triển khu kinh tế cửa
khẩu.
- Các văn kiện thỏa thuận dự kiến đưa ra trao đổi và phân cấp hợp tác. Các dự án
đầu tư hỗn hợp và danh sách các đối tác trực tiếp tham gia.
2.2. Vùng giao thoa các chính sách khuyến khích
Các khu kinh tế cửa khẩu thuộc khu vực hành chính đến cấp cơ sở (thôn, tổ dân
phố) được chính quyền Trung ương phân cấp quản lý theo hướng khuyến khích
phát triển hơn các vùng khác nhưng không phải khu hành chính riêng như các
đặc khu kinh tế vì vậy khu kinh tế cửa khẩu là vùng giao thoa chính sách.
2.3. Một cửa áp dụng cho hình thức phân cấp quản lý :
Một trong những vấn đề được mọi nguời quan tâm và lo ngại đó là vấn đề trong
việc ra vào khu kinh tế cửa khẩu và xuất nhập cảnh. Cần phải có sự công khai
công việc và thống nhất trong các đơn vị làm dịch vụ về vấn đề thu lệ phí.
Các khu kinh tế cửa khẩu có nhiều hình thức và phân cấp quản lý khác nhau
nhưng đều theo nguyên tắc một cửa cho các hoạt động đầu tư và thương mại.
- Cửa khẩu độc lập, hình thành theo điều ước quốc tế mà chính phủ nước sở tại
phê chuẩn giao cho ngành hải quan quản lý có qui chế riêng.

- Khu thương mại tự do trong đó có khu công nghiệp tự do cấp tỉnh hoặc cấp
quốc gia, khu vực này không có dân cư, hàng hoá vào được miễn thuế, việc
chuyển đổi hàng hoá như thay đổi nhãn hiệu, bao bì, lắp ráp,… không chịu sự
giám sát của hải quan và khi tái xuất hoặc nhập khẩu phải lập sổ sách chịu sự
giám sát của hải quan, phải nộp thuế.
Khu kinh tế cửa khẩu cấp tỉnh trong đó có khu thương mại tự do như trên, có dân
cư và có đặc quyền riêng về đầu tư và thương mại, ở vùng thuận lợi có sân bay,
bến cảng có thể hình thành đặc khu kinh tế với vùng lãnh thổ rộng, thiết chế hành
chính riêng.
3. Mô hình của một khu kinh tế cửa khẩu không có dân.
Cửa khẩu mỗi nước có bốn cửa. Xu hướng tự do hoá thương mại, hàng hóa, trong
danh mục thoả thuận được tự do vào khu, chỉ thu phí và phía bên kia miễn thuế
nhập khẩu. Chỉ kiểm soát hàng hoá xuất ra khỏi khu để vào nội địa việc này phụ
thuộc chính sách của mỗi nước.
Thu phí theo danh mục niêm yết đối với hàng hoá từ nội địa vào khu và từ phía
bên kia nhập vào khu.
Quy định loại hàng hoá sản xuất kinh doanh trong khu được miễn kiểm soát của
hải quan, không phải chịu bất kì loại thuế nào nhưng phải trả tiền thuế đất và các
dịch vụ theo mức cao hơn nội địa, chịu thuế khi xuất khỏi khu vào nội địa; kê
khai nộp lệ phí khi xuất sang bên kia
Có cửa thì chỉ có một cửa thu thuế và ba cửa thu phí. Thu lệ phí vào một lần
trong đó có lệ phí sử dụng các tiện ích công cộng trong khu không phải trả tiền
như bãi đỗ xe trong ngày, vệ sinh công cộng cho cá nhân, bảo đảm an ninh trật
tự… và được miễn thuế, lệ phí khi mang hàng hoá theo cá nhân về nội địa và khi
xuất cảnh.
Sơ đồ 4: Sơ đồ khu kinh tế cửa khẩu không có dân.
III. Vai trò và vị trí của các khu kinh tế cửa khẩu
Khu kinh tế cửa khẩu (KKTCK) ở Việt Nam ra đời phù hợp với quan điểm đổi
mới mở cửa, hội nhập nền kinh tế thế giới của Đảng và Nhà nước trong những
năm trở lại đây. Khu kinh tế cửa khẩu đầu tiên ở Việt Nam là KKTCK Móng Cái

được thành lập ngày 18/9/1996 theo Quyết định 675 /TTg của Thủ tướng Chính
phủ. Trong thời gian qua, hoạt động của khu KTCK đã đóng một vai trò hết sức
quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế của tỉnh, của vùng khi có KTCK
nói riêng và của cả nước nói chung. Đối với những nước có nền kinh tế hàng hóa
chưa phát triển như Việt Nam thì việc phát triển khu kinh tế cửa khẩu sẽ mở rộng
quy mô thị trường, tăng cường giao lưu hàng hóa, kích thích sản xuất và tăng tính
cạnh tranh cho các sản phẩm hàng hóa. Ngoài ra việc phát triển khu KTCK sẽ tạo
bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế mới theo hướng tích cực, tăng tỉ trọng công
nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng nông nghiệp trong tổng GDP. Với những đóng
góp không nhỏ đối với phát triển kinh tế xã hội trong thời gian qua các khu
KTCK đã ngày càng khẳng định rõ vai trò và vị trí của mình.
1. Đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân
Các khu kinh tế cửa khẩu được hình thành nhằm mục đích phát huy lợi thế về
quan hệ kinh tế-thương mại cửa khẩu biên giới, thu hút các kênh hàng hoá, đầu
tư, thương mại, dịch vụ và du lịch từ các nơi trong cả nước từ nước ngoài vào nội
địa thông qua cơ chế chính sách ưu đãi tại các khu kinh tế cửa khẩu. Chính sự thu
hút này đã làm cho các ngành, các địa phương trong cả nước, tùy theo quy mô,
sự hấp dẫn của cơ chế chính sách ưu đãi thực hiện sự chuyển dịch sản xuất, lưu
thông hàng hoá cho phù hợp. Bên cạnh đó khi mô hình khu kinh tế cửa khẩu
được phát huy tốt sẽ tạo ra sự lưu thông hàng hoá giữa trong và ngoài nước nhằm
khai thác thị trường rộng lớn của nước bạn. Hơn nữa, trong các lĩnh vực công
nghiệp, dịch vụ và và du lịch cũng có những đòi hỏi tương tự, cần phải mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế để nhanh chóng hội nhập với các nước trong khu vực và
trên thế giới. Điều này càng có ý nghĩa đối với nền kinh tế hàng hoá chậm phát
triển, thị trường còn nhỏ hẹp, sức mua thấp, khả năng cạnh tranh trước mắt của
nền kinh tế còn thấp kém như Việt Nam.
Việc hình thành khu kinh tế cửa khẩu đã làm phong phú thêm tính đa dạng hóa
của các loại hình khu kinh tế đặc biệt như khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
kinh tế mở được xây dựng tại nước ta trong thời kì đổi mới vừa qua. Và cũng
chính việc hình thành các khu kinh tế cửa khẩu đã hình thành một mô hình phát

triển kinh tế nhằm khơi dậy và phát huy khu kinh tế cửa khẩu tiềm năng của địa
bàn có điều kiện đặc thù là có các cửa khẩu.
Khu KTCK có sức thu hút đầu tư khá mạnh mẽ không chỉ các nhà đầu tư trong
nước mà cả các nhà đầu tư nước ngoài. Để mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng
trưởng kinh tế nhằm thực hiện kế hoạch phát triển vùng của Chính phủ. Bên cạnh
đó, khu KTCK góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra một hệ
thống cơ sở hạ tầng mới, hiện đại, có giá trị lâu dài ở địa phương. Mặt khác, khu
KTCK còn góp phần làm tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương giảm bớt sự
phụ thuộc, trông chờ vào ngân sách Nhà nước. Hơn nữa còn đóng góp cho ngân
sách Nhà nước ở cửa khẩu có doanh thu lớn, qua đó nâng cao được tỉ lệ tích luỹ
đầu tư cho tương lai, đồng thời nâng cao đời sống của đồng bào vùng biên giới
thông qua việc tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng khu KTCK, nâng cao dân trí
đồng bào biên giới thông qua việc tiếp xúc với các hoạt động kinh tế, thị trường,
qua đó lan toả tới đồng bào biên giới các địa bàn xa hơn.
Bên cạnh đó, quá trình phát triển các khu KTCK tác động thúc đẩy mạnh mẽ quá
trình giao lưu kinh tế giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Nó có tác dụng như chiếc cầu nối kinh tế Việt Nam với kinh tế thế giới, nhằm
đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế, góp phần quan trọng trong việc thực hiện
quan điểm phát triển giai đoạn 2001-2002 mà Đảng ta đã đề ra trong Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ IX là: “Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tựchủ
với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”.
2. Đối với sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Khu KTCK hình thành sẽ tạo ra sự phân công lao động theo hướng chuyển lao
động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp, tạo
điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương theo hướng phát triển các
ngành thương mại, dịch vụ, du lịch, công nghiệp, hỗ trợ phát triển đối với dịch
vụ trong nước thông qua việc đẩy mạnh giao lưu kinh tế với các nước láng giềng;
tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, kiểm tra giám sát các hoạt động,
phát hiện và xử lý các vi phạm. Điều đó thể hiện khi môi trường kinh tế phát
triển thuận lợi khu KTCK cũng là nơi thể hiện sự giao thoa về các chính sách

kinh tế đối ngoại củ các quốc gia có đường biên giới chung. Vì vậy những nhu
cầu về kinh tế cả cho sản xuất và tiêu dùng trong phạm vi hẹp, trực tiếp phục vụ
cho nhu cầu tại chỗ của địa phương, vùng lân cận; trong phạm vi rộng nó sẽ trực
tiếp đáp ứng nhu cầu của địa phương, các vùng trong cả nước thông qua sự luân
chuyển các kênh hàng hóa từ khu vực KTCK đến các nơi và ngược lại theo sự
vận động của quan hệ cung cầu và giá cả trên thị trường đối với các chủng loại
hàng hóa trao đổi ở đây. Do đó với phạm vi ảnh hưởng càng lớn, khu KTCK
càng phát triển, nó sẽ tác động càng mạnh mẽ tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, thúc đẩy phân công lao động, làm cho thị trường được thông suốt trong cả
nước, khai thác tối đa những tiềm năng và thế mạnh của vùng.
Ngoài ra đối với một số tỉnh miền núi biên giới phía Đông Bắc nơi có khu
KTCK nó còn góp phần đẩy nhanh xu hướng đô thị hoá, hình thành những thị
trấn, thị tứ, các khu thương mại dịch vụ …
3. Đối với quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hoá đất nước
Phát triển các khu KTCK là một trong những chủ trương đúng đắn của Đảng và
Nhà nước ta nhằm xây dựng một mô hình kinh tế mới, thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Các khu KTCK thúc đẩy quá trình hiện đại
hoá thông qua việc ứng dụng công nghệ mới và trình độ quản lý hiện đại trong
hoạt động thương mại, dịch vụ và sản xuất, tạo ra những yếu tố để liên kết các
doanh nghiệp đầu tư trong nước cũng như ngoài nước, góp phần tích cực vào
việc nâng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ; thực hiện phân công
lao động góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá.
4. Đối với phát triển xã hội
Sự tác động đối với kinh tế kinh tế của các khu kinh tế cửa khẩu cũng thực chất
là tác động đến phát triển xã hội, nhằm hướng tới mục tiêu phát triển xã hội là
nâng cao phúc lợi xã hội cho con người. Các khu KTCK còn góp phần giải quyết
vấn đề việc làm tạo sự ổn định cho cuộc sống của nhân dân qua việc đào tạo và
nâng cao tay nghề cho lực lượng lao động xã hội, hình thành nhiều trung tâm tạo
việc làmmới, phát triển kinh tế gắn văn minh, tiến bộ và công bằng xã hội. Với

sự tác động có tính lan toả mạnh mẽ thì các khu KTCK sẽ thúc đẩy phát triển xã
hội rất hiệu quả, đặc biệt là các vùng biên giới cửa khẩu còn đang gặp rất nhiều
khó khăn.
5. Đối với an ninh quốc phòng
Việc hình thành các khu kinh tế cửa khẩu sẽ thu hút dân cư đến làm ăn, sinh
sống, tạo thành những khu tập trung dân cư, một số đô thị biên giới góp phần làm
tăng thêm tiềm lực kinh tế, quốc phòng tại tuyến biên giới. Đời sống của nhân
dân tại địa bàn các khu kinh tế cửa khẩu sẽ được thay da đổi thịt tạo thêm lòng
tin về chính quyền và về các chính sách của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra, các lực
lượng công an, hải quan, biên phòng tại khu kinh tế cửa khẩu được tăng cường
năng lực cũng như trang thiết bị, do đó hoạt động bảo vệ biên giới, chủ quyền
Quốc gia, đảm bảo an ninh, quốc phòng sẽ được nâng cao về nhiều mặt.
Như vậy việc thành lập khu KTCK có tác động nhiều mặt đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước như tổ chức lại cơ cấu kinh tế vùng lanh thổ, bố trí
dân cư, nâng cao mức sống nhân dân, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội
cho khu vực.
IV. Kinh nghiệm phát triển khu KTCK ở một số nước
Có thể nhận thấy rằng hầu hết các quốc gia có sử dụng các loại hình kinh tế này
đều nhận thấy vai trò to lớn của nó trong thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hóa nhờ
tính đặc thù về cơ chế, chính sách của từng mô hình kinh tế. Mức độ ảnh hưởng
và phạm vi tác động thường tỉ lệ thuận với quy mô phát triển của từng loại mô
hình này về giá trị, tỉ trọng đóng góp trong GDP cũng như hiệu quả toàn diện về
mặt kinh tế - xã hội do phát triển các loại hình kinh tế này mang lại. Sự tác động
của các khu kinh tế cửa khẩu tới việc phát triển kinh tế có được là nhờ các chức
năng đặc thù về ưu đãi xuất, nhập khẩu, các cơ chế chính sách khuyến khích về
công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, du lịch. phát triển các loại hình này cũng
đồng nghĩa với việc thúc đẩy xuất, nhập khẩu công nghiệp, nông nghiệp, du lịch
và dịch vụ phát triển, đây là cơ sở kinh tế hàng hóa trong nước phát triển.
1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Sau hơn 20 năm mở cửa, tuy đa bắt đầu được khai phát một cách tích cực, khu

vực biên giới Trung Quốc nhìn chung vẫn lạc hậu và có khoảng cách xa với các
vùng ven biển. Việc kiên trì theo đuổi đường lối mở cửa và những biến đổi trong
phát triển kinh tế ở Trung Quốc và thế giới đã buộc nước này phải điều chỉnh và
hoàn thiện chính sách này theo hướng đẩy nhanh mở cửa vùng biên giới nội địa
để phối hợp phát triển với các vùng duyên hải. Chính vì vậy, đã có một số chính
sách phát triển mới ra đời: chính sách cải cách mở cửa không chỉ dựa vào nguồn
tài chính của chính phủ trung ương mà còn “nới quyền, nhường lợi” cho các địa
phương, xí nghiệp, và các chính sách ưu đãi khác để phát triển kinh tế tại các khu
vực lãnh thổ khác nhau. Các chính sách này được thực hiện với những nội dung
không giống nhau, tuỳ thuộc vào đặc thù của từng khu vực.
Việc mở cửa vùng biên giới đất liền nhằm khai thác thị trường, tiêu thụ hàng
công nghiệp địa phương và cung cấp nguyên vật liệu cho ngành công nghiệp
Trung Quốc, thực hiện “tam khứ nhất bổ” (Tam khứ: xuất khẩu hàng hóa, lao
động, thiết bị, kỹ thuật; Nhất bổ: lấy về những mặt hàng thiếu hoặc khan hiếm ở
Trung Quốc) cũng là một trong số những chính sách mới kể trên. Tư tưởng chủ
đạo của Trung Quốc trong việc mở cửa vùng biên giới là cho phép các tỉnh hợp
tác kinh tế trực tiếp với các nước láng giềng, theo nhiều hướng, nhiều hình thức
và nhiều con đường, tuỳ điều kiện cụ thể của từng tỉnh đó.
* Chính sách biên mậu của Trung Quốc
Hoạt động kinh tế biên mậu (KTBM) là kết quả tất yếu khách quan của quá trình
hợp tác và giao lưu kinh tế giữa các quốc gia có chung đường biên giới với nhau.
Đây cũng là một trong những hình thức thương mại truyền thống của Trung
Quốc. Là một bộ phận hữu cơ trong hoạt động thương mại quốc tế của Trung
Quốc, KTBM đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh
tế của các khu vực biên giới nói riêng cũng như tăng cường và mở rộng quan hệ
hợp tác kinh tế nói chung.
Quá trình phát triển kinh tế biên mậu của Trung Quốc
Trung Quốc là một nước có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc triển khai và xúc
tiến hoạt động biên mậu (HĐBM). Dựa vào lợi thế có đường biên giới trải dài và
tiếp giáp với nhiều quốc gia, HĐBM của Trung Quốc có một lịch sử phát triển

lâu đời. Sau khi nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (PRC) được thành lập.
Chính phủ Trung Quốc đã lần lượt ký kết các hiệp định thương mại với Liên Xô
(cũ), Việt Nam, Triều Tiên, ấn Độ và các quốc gia có chung đường biên khác từ
những năm đầu của thập kỷ 50. Tuy nhiên, trong thập kỷ 60 và 70, hoạt động này
đã bị tạm ngưng một thời gian do một số vấn đề trong và ngoài nước. Đến đầu
thập kỷ 80, cùng với sự cải cách và mở cửa của Trung Quốc cũng như việc nối
lại quan hệ chính trị với các quốc gia có chung đường biên. HĐBM lại được tiếp
tục và chuyển sang giai đoạn phát triển mới:
- Giai đoạn khôi phục và mở rộng (1982-1991)
Năm 1982, các tỉnh biên giới phía Bắc Trung Quốc đã nối lại quan hệ thương
mại với vùng miền Đông Liên xô (cũ). Năm 1988, Chính phủ Trung Quốc đã ban
hành một số chính sách ưu đãi đối với HĐBM. Nhờ đó tạo điều kiện thúc đẩy
hoạt động thương mại các tỉnh biên giới của Trung Quốc, làm cho phạm vi và
quy mô của HĐBM đa được mở rộng đáng kể trong giai đoạn này.
- Giai đoạn phát triển (1992-1995):
Năm 1992, Trung Quốc đã thực hiện một số chính sách để đẩymạnh việc trao đổi
hàng hóa với Liên Xô (cũ) vàcác nước Đông Âu. Năm 1993, lầm đầu tiên kim
ngạch xuất nhập khẩu trong HĐBM (gồm cả hình thức trao đổi hàng) đạt mức
cao nhất là hơn 5 tỷ USD. Tuy nhiên, do sự bất ổn của thị trường cùng với việc
xuất hiện các sản phẩm xuất khẩu kém chất lượng đã buộc Chính phủ Trung
Quốc phải thực hiện các biện pháp để ổn định lại trật tự trong HĐBM vào năm
1994.
- Giai đoạn điều chỉnh và tiêu chuẩn hoá (1996 đến nay)
Để đảm bảo sự ổn định trong hoạt động thương mại, Chính phủ Trung Quốc đ•
ban hành Quy định về các vấn đề liên quan đến HĐBM vào năm 1996. Nhờ việc
ban hành quy định này đã chuẩn hoá sự quản lý đối với HĐBM. Trong thời gian
điều chỉnh ban đầu,hoạt động này đã bị giảm sút nhưng sau đó được phục hồi từ
năm 1999 và duy trì được mức độ tăng trưởng ổn định sau năm 2000.
Nhìn chung, kim ngạch xuất nhập khẩu trong hoạt động KTBM của Trung Quốc
biến động theo mô hình tăng trưởng làn sóng. Năm 1993, kim ngạch xuất nhập

khẩu trong hoạt động KTBM đã đạt mức kỷ lụclà5,512 tỷ USD, chiếm tới 2,63%
trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Tuy trong thời gian sau đó
(1994-1998) đã có sự giảm sút nhưng đến năm 1999, kim ngạch xuất nhập khẩu
qua biên giới của Trung Quốc lại đạt được quy mô như năm 1993. Và xu thế tăng
trưởng này tiếp tục được duy trì đều đặn từ sau năm 2000. Ước tính, năm 2003
tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua biên giới đạt khoảng 71 tỷ USD (tăng hơn
35% so với năm 2002). chiếm 1% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả
nước. Các hàng hóa xuất khẩu chủ yếu trong hoạt động KTBM của Trung Quốc
là các sản phẩm nông sản như: gạo. rau, hoa quả, các sản phẩm dệt may, sản
phẩm công nghiệp nhẹ ,… trong khi Trung Quốc chủ yếu nhập khẩu nguyên liệu
thô như gỗ, thép, bột giấy, khoáng sản, các kim loại không chứa sắt, phân bón …
Các hình thức trao đổi trng hoạt động KTBM của Trung Quốc rất phong phú và
đa dạng, và phụ thuộc vào đặcđiểm kinh tế - xã hội của các quốc gia có chung
đường biên giới. Nhìn chung, theo quy định của Chính phủ Trung Quốc, hai hình
thức chủ yếu trong trao đổi KTBM là:
- Hình thức trao đổi hàng hóa của dân cư vùng biên giới: Hình thức trao đổi này
được chính phủ quy định trong phạm vi 20km tính từ đường biên giới với một
giá trị hạn mức trao đổi tối đa. Hình thức này được sử dụng phổ biến, thuận tiện
với nhiều ưu đai về thuế quan nhằm hỗ trợ cho các tỉnh biên giới phát triển cũng
như tạo điều kiện cải thiện đời sống nhân dân.
- Hình thức thương mại tiểu ngạch: Là hoạt động buôn bán giữa các doanh
nghiệp Trung Quốc với các doanh nghiệp hoặc tổ chức kinh doanh các nước có
chung đường biên giới tại khu vực cửa khẩu. Hình thức này được tập trung quản
lý thống nhất và chịu sự điều chỉnh của các chính sách thương mại.
2. Thái Lan
Thái Lan có đường biên giới khá dài, các hoạt động trao đổi kinh tế - thương mại
cửa khẩu biên giới khá sôi động trong thời gian qua với các nước láng giềng là
Campuchia, Myanmar, Lào, Malaysia. Có thể thấy rằng, thông qua việc khai thác
lợi thế thương mại cửa khẩu biên giới, hàng hóa của Thái Lan đã xâm nhập rất
mạnh sang các nước láng giềng. Nhìn chung, các hoạt động này được thực hiện

dưới hai hình thức chủ yếu là thương mại chính thức và thương mại phi chính
thức. Thương mại biên giới chính thức là các hoạt động biên giới theo các quy
định của luật pháp (các quy chế, hoặc các hiệp định, thoả thuận đã được hai
chính phủ ký kết). Các hoạt động này thường phải chịu những khoản thuế quan
nhất định, được ghi chép trong hệ thống sổ sách của các cơ quan có thẩm quyền
về xuất nhập khẩu.
Thương mại biên giới phi chính thức bao gồm các hoạt động giao lưu thương mại
qua đường biên giới không phải qua (hoặc trốn tránh) các thủ tục hải quan,
thường là nhằm mục tiêu trốn chạy việc kiểm soát thương mại, hay trốn thuế hải
quan và các sắc thuế khác, kể cả thuế thu nhập. Việc trốn tránh các thủ tục hải
quan ở các vùng biên giới này được thực hiện dễ dàng nhờ các điều kiện thuận
lợi về vị trí địa lý và quan hệ gần gũi của dân chúng ở hai bên đường biên.
Phần lớn các hàng xuất khẩu theo đường phi chính thức từ Thái Lan là các hàng
tiêu dùng, các dụng cụ gia đình, thuốc tây, các loại xe gắn máy và phụ tùng.
Hàng nhập khẩu phi chính thức vào Thái Lan là đá quý, các hàng lương thực
thực phẩm sơ chế hoặc chưa chế biến,. các dụng cụ điện gia dụng, rượu mùi,
thuốc lá, gia súc và các hàng nông sản. Theo ước tính, hiện nay kim ngạch
thương mại phi chính thức chiếm khoảng từ 1/3 đến trên 1,0 lần so với thương
mại chính thức giữa Thái Lan và lào, lớn gấp đôi thương mại chính thức giữa
Thái Lan và Myanmar và giữa Thái với Malaysia. Điều cần chú ý là các hàng hóa
được buôn bán theo con đường phi chính thức này bao gồm cả những sản phẩm
được chế tạo từ những nước khác chứ hông chỉ là từ nước láng giềng có đường
biên giới với Thái Lan (ví dụ như rượu, thuốc lá, các đồ điện gia dụng …).

Nguồn: Văn phòng thư ký thường trực Bộ Thương mại Thái Lan
Các hình thức tổ chức kinh tế biên mậu của Thái Lan khá đa dạng và phong phú,
với sự thông thoáng và đơn giản trong nhiều thủ tục hải quan. Nhờ có sự ưu đãi
hợp lý của Nhà nước với mức độ quan tâm phù hợp đã càng tạo ra sự hấp dẫn
trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực dịch vụ và du lịch đang trong đà tăng
trưởng mạnh. Với nhiều thoả thuận ở cấp quốc gia trongviệc phát triển quan hệ

thương mại biên giới, theo hướng khai thác tốt hơn những đặc điểm kinh tế - xã
hội củakhu kinh tế cửa khẩu, tìm kiếm các mô hình kinh tế linh hoạt hơn với các
chính sách cởi mở nhằm tăng cường trao đổi giao lưu thương mại giữa các nước,
mở rộng và phát triển nhiều hình thức hoạt động kinh tế k hác. Để từ đó hình
thành một số vùng kinh tế, gắn với các cửa khẩu tạo điều kiện phát triển nhanh
hơn để lôi kéo các khu vực lân cận cùng phát triển thông qua sự phát triển có tính
chất lan toả.
3. Về Tây Âu và Bắc Mỹ
Có thể nhận thấy rằng hầu hết các quốc gia có sử dụng các loại hình kinh tế này
đều nhận thấy vai trò to lớn của nó trong thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hóa nhờ
tính đặc thù về cơ chế, chính sách của từng mô hình kinh tế. Mức độ ảnh hưởng
và phạm vi tác động thường tỉ lệ thuận với quy mô phát triển của từng loại mô
hình này về giá trị, tỉ trọng đóng góp trong GDP cũng như hiệu quả toàn diện về
mặt kinh tế - xã hội do phát triển các loại hình kinh tế này mang lại. Sự tác động
của các khu kinh tế cửa khẩu tới việc phát triển kinh tế có được là nhờ các chức
năng đặc thù về ưu đãi xuất, nhập khẩu, các cơ chế chính sách khuyến khích về
công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, du lịch. phát triển các loại hình này cũng
đồng nghĩa với việc thúc đẩy xuất, nhập khẩu công nghiệp, nông nghiệp, du lịch
và dịch vụ phát triển, đây là cơ sở kinh tế hàng hóa trong nước phát triển.
Hình thức quan hệ thương mại qua biên giới đã được một số nước sử dụng thành
công. ở Bắc Mỹ, lợi dụng những những điểm khác biệt về chế độ thuế giữa Mỹ
và Canada, Mỹ đã chủ động mở nhiều điểm bán hàng giữa biên giới hai nước,
khai thác những điểm hạn chế về thuế quan để thu lợi cho mình. Hơn nữa, trong
quan hệ hai nước, Mỹ và Canada đã phối hợp xây dựng hàng loạt các xí nghiệp
gia công, chế tác theo hình thức liên doanh trên tuyến biên giới. Một số nước
khác cũng sử dụng hình thức này, như quan hệ Mêhicô và Mỹ, với nhiều thị
trường tự do được xây dựng, trong đó có những ưu đãi về cơ chế chính sách, thuế

×