Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Tài liệu Thực trạng thị trường quyền chọn ở Việt Nam và giải pháp phát triển doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.54 KB, 37 trang )

Chương 2: Thực Trạng Thò trường quyền chọn và các giải pháp phát
triển
1

Nhóm…… | Giảng viên HD: ThS Hồ Văn Dũng
This part made by Nguyen Huu Tinh:


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN Ở VIỆT NAM VÀ GIẢI
PHÁP PHÁT TRIỂN
2.1. Thực trạng thò trường quyền chọn
Sau khi có cái nhìn tổng quan về quyền chọn và thò trường quyền chọn,
câu hỏi đặt ra là: Ở Việt Nam hiện nay, thò trường quyền chọn đã phát triển
như thế nào? Bất kỳ thò trường nào muốn đi vào vận hành thò cũng cần có một
hệ thống cơ sở pháp lý để chi phối, điều chỉnh và kiểm soát. Vậy hệ thống cơ
sở pháp lý cho thò trường quyền chọn ngoại tệ và chứng khoán đã phát triển
như thế nào? Đã bao quát thò trường hết chưa hay vẫn còn thiếu hụt trầm
trọng? Chương 2 của bài tiểu luận này sẽ làm rõ điều đó.
2.1.1. Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các giao dòch quyền chọn trên
thò trường ngoại tệ và chứng khoán ở Việt Nam
a. Đối với giao dòch Options ngoại tệ
(1) Cơ sở pháp lý liên quan đến chính sách quản lý ngoại hối:
Trong thời gian qua, thò trường ngoại hối phát triển với nhiều nghò đònh,
quyết đònh, văn bản hướng dẫn
Cụ thể các văn bản pháp luật của Nhà nước bao gồm:
o Nghò đònh 05/2001/NĐ-CP ngày 17/1/2001 về quản lý ngoại hối,
quyết đònh 648/2002-2004/QĐ-NHNN về cơ chế thỏa thuận tỷ
giá kỳ hạn giữa NHTM với khách hàng trên cơ sở chênh lệch lãi
suất;
o Quyết đònh 1452/2004/QĐ-NHNN về điều chỉnh giao dòch hối


đoái của tổ chức tín dụng đối với khách hàng
o Đặc biệt là pháp lệnh ngoại hối có hiệu lực từ ngày 1/6/2006,
pháp lệnh này như một khuôn khổ thống nhất về quản lý ngoại hối.
Chương 2: Thực Trạng Thò trường quyền chọn và các giải pháp phát
triển
2

Nhóm…… | Giảng viên HD: ThS Hồ Văn Dũng
This part made by Nguyen Huu Tinh:


Theo đó, NHNN nới lỏng kiểm soát ngoại tệ, tự do hóa các giao dòch,
tăng quyền tự chủ cho các NHTM và TCTD, làm cho thò trường ngoại
tệ diễn ra uyển chuyển và linh hoạt hơn.
Cơ chế điều hành tỷ giá cũng đã có những thay đổi đáng kể. Vào tháng
5/2004, Ngân hàng Nhà nước đã bãi bỏ các trần cố đònh về tỷ giá kỳ hạn để
thay bằng chênh lệch lãi suất. Tháng 7/2006, NHNN bỏ biên độ giao dòch đô la
Mỹ tiền mặt, cho Eximbank thí điểm cơ chế mua bán ngoại tệ mặt theo tỷ giá
thỏa thuận.
Biên độ giao dòch USD không ngừng được mở rộng, ngày 10/3/2008 biên độ
được xác đònh là +/-1%, sau đó được nâng lên thành +/-2%, và gần đây nhất đã
được nâng lên +/-3%. Việc nới lỏng biên độ tỷ giá góp phần phản ánh chính
xác quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thò trường, đồng thời chính việc này đã làm
rủi ro hối đoái không ngừng tăng lên.
Giai đoạn năm 1998-2008, với sự thông thoáng hơn trong cơ chế chính sách,
thò trường ngoại hối có nhiều khởi sắc với hoạt động mua bán trao đổi ngoại tệ
sôi động hơn, tạo cơ hội để mở rộng quan hệ hợp tác giữa các ngân hàng trong
nước và nước ngoài. Những chính sách này đã mở ra nhiều nghiệp vụ mới đặc
biệt là các nghiệp vụ phái sinh ngoại hối như kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn,
…giúp doanh nghiệp có nhiều sự lựa chọn để bảo hiểm rủi ro tỷ giá, đồng thời

góp phần đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại các NHTM.
(2) Cơ sở pháp lý về giao dòch quyền chọn giữa các ngoại tệ với nhau:
Ngày 10/01/1998, trên cơ sở nhận thức sự cần thiết thúc đẩy giao dòch ngoại
hối phát triển, thống đốc NHNN đã ký quyết đònh 17/1998/QĐ_NHNN ban
hành quy chế giao dòch hối đoái (quyết đònh 17). Quy chế này đã tạo cơ sở pháp
lý cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM, tạo công cụ phòng ngừa
rủi ro tỷ giá và lãi suất, đồng thời tăng cường sự quản lý và giám sát của
NHNN về lónh vực ngoại hối. Tuy nhiên, với quyết đònh này thì giao dòch ngoại
hối chỉ mới được thực hiện thông qua các công cụ giao ngay kỳ hạn và hoán
đổi.
Chương 2: Thực Trạng Thò trường quyền chọn và các giải pháp phát
triển
3

Nhóm…… | Giảng viên HD: ThS Hồ Văn Dũng
This part made by Nguyen Huu Tinh:


Ngày 12/02/2003, công văn số 135/NHNN-QLNH về giao dòch quyền chọn
ngoại tệ, trước tiên là quyền chọn giữa ngoại tệ với ngoại tệ chính thức ra đời.
Eximbank là NHTM đầu tiên thực hiện thí điểm nghiệp vụ này. Trong đó, công
văn này đã quy đònh cụ thể nhằm triển khai thực hiện giao dòch quyền chọn
ngoại tệ ở các ngân hàng như về đối tượng tham gia, đồng tiền giao dòch, thời
hạn giao dòch, giới hạn số dư…
Sau 7 năm đi vào hoạt động, đến cuối năm 2004, quyết đònh 17/1998/QĐ-
NHNN (quyết đònh 17) đã phát sinh những hạn chế. Vì vậy, ngày 10/11/2004,
thống đốc NHNN đã ký quyết đònh số 1452/2004/QĐ-NHNN về giao dòch hối
đoái của các TCTD để thay thế quyết đònh 17 và khắc phục những hạn chế
này. Quyết đònh này có những điểm mới như chính thức cho phép tất cả các
TCTD được phép thực hiện các giao dòch hối đoái đều được quyền thực hiện

giao dòch quyền chọn ngoại tệ mà không cần phải xin phép NHNN. Qua đó,
thời điểm này NHNN đã chấm dứt thời gian thí điểm nghiệp vụ này. Đồng
thời, quy đònh kỳ hạn của giao dòch quyền chọn giữa các ngoại tệ với nhau do
tổ chức tín dụng được phép và khách hàng tự thỏa thuận. Quy đònh này là một
sự chuyển biến lớn trong cung cách quản lý các hoạt động giao dòch ngoại hối
giúp thò trường quyền chọn nước ta ngày càng đa dạng hơn. Bên cạnh đó, quyết
đònh này cho phép các cá nhân được phép tham gia ngoài các TCTD, tổ chức
kinh tế, tổ chức khác và NHNN. Đây thực sự là một cơ hội cho các nhà đầu tư
cá nhân có thêm một sân chơi mới trên thò trường tiền tệ.
(3) Cơ sở pháp lý về giao dòch quyền chọn giữa ngoại tệ và VND
Ngày 18/4/2005, NHNN đã có công văn số 326/NHNN_QLNH cho phép
ACB triển khai thí điểm giao dòch quyền chọn giữa ngoại tệ và VNĐ. Theo
công văn này, NHNN đã đưa ra những quy đònh cụ thể về các loại ngoại tệ
được giao dòch, cơ sở tính phí quyền chọn, thời hạn giao dòch, đối tượng giao
dòch… những quy đònh này là cơ sở để triển khai thực hiện thí điểm nghiệp vụ
quyền chọn giữa ngoại tệ và VNĐ tại các NHTM khác dưới sự cho phép của
NHNN.
Chương 2: Thực Trạng Thò trường quyền chọn và các giải pháp phát
triển
4

Nhóm…… | Giảng viên HD: ThS Hồ Văn Dũng
This part made by Nguyen Huu Tinh:


Ngày 29/8/2006, NHNN cũng đã ban hành công văn số 7404/NHNN-KTTC.
Nội dung chính của công văn này gồm có các hướng dẫn cụ thể, chi tiết về
nguyên tắc và nội dung kế toán đối với các nghiệp vụ hối đoái kỳ hạn, nghiệp
vụ hoán đổi tiền tệ, nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ, để giải quyết vấn đề hạch
toán kế toán nghiệp vụ phái sinh tiền tệ tại các NHTM.

b. Đối với giao dòch Options trên thò trường chứng khoán
Từ khi thò trường chứng khoán ra đời ngày 20-7-2000, các văn bản pháp lý
để tạo lập, vận hành và quản lý thò trường được các cơ quan nhà nước ban
hành khá nhiều. Nhưng nhìn chung, những thiếu sót, bất cập vẩn còn rất lớn,
thò trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn rất non trẻ, đang trên con đường
phát triển và trưởng thành. Ngày 29-6-2006, luật chứng khoán chính thức được
Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua và có hiệu lực thi hành từ 1-1-
2007, đánh dấu bước chuyển mình của thò trường chứng khoán Việt Nam, tạo
một đường băng cất cánh cho thò trường.
Đáng chú ý nhất là trong giai đoạn thò trường suy giảm mạnh từ khoảng
cuối q I đến thời gian gần đây, UBCK nhà nước đã lần lượt giảm biện độ dao
động giá cổ phiếu, chứng chỉ q xuống còn +/-1% đối với HOSE và +/-2% đối
với HASTC. Sau một thời gian ngắn thò trường phục hồi nhẹ, UBCK đã cho
phép nâng biên độ lên +/-2% đối HOSE và +/-3% đối với HASTC, sau đó lại
tiếp tục được nâng lên +/-3% đối với HOSE và +/-4% đối với HASTC.
Gần đây nhất, ngày 14/8/2008, UBCK nhà nước ban hành công văn số
1650/UBCK-PTTT về việc điều chỉnh biên độ giá cổ phiếu, chứng chỉ quỹ. Theo
đó, biên độ giao dòch giá của cổ phiếu, chứng chỉ quỹ là +/-5% đối với HOSE và
+/-7% đối với HASTC, điều này sẽ làm cho giá cả chứng khoán giao động mạnh
hơn, phản ánh đúng cung cầu hơn, nhưng rủi ro cho các nhà đầu tư sẽ nhiều
hơn, mở ra cơ hội cho việc sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro như quyền
chọn cổ phiếu để bảo hiểm cho các nhà đầu tư.
Thế nhưng, cho đến nay, vẫn chưa có một văn bản pháp lý chính thức nào
qui đònh, hướng dẫn hay cho phép thực hiện về quyền chọn cổ phiếu tất cả chỉ
Chương 2: Thực Trạng Thò trường quyền chọn và các giải pháp phát
triển
5

Nhóm…… | Giảng viên HD: ThS Hồ Văn Dũng
This part made by Nguyen Huu Tinh:



mới ở giai đoạn dự thảo, ngoại trừ một số công văn cho phép một số tổ chức thí
điểm triển khai nghiệp vụ này như VCBS…
c. Đánh giá chung về cơ sở pháp lý đối với giao dòch Options
Như vậy, có thể thấy, các văn bản pháp lý liên quan đến chính sách quản lý
ngoại hối và quyền chọn ngoại tệ được ban hành là khá nhiều nhưng chúng
vẫn chưa quy đònh cụ thể và thúc đẩy được các giao dòch mua bán quyền chọn
phát triển, nó chỉ mang tính tức thời bổ sung cho thò trường ngoại hối, cũng
giống như chúng ta chỉ ban hành văn bản luật khi thò trường cần thực hiện các
giao dòch này trong ngắn hạn, chứ chưa đưa ra các bộ luật chuẩn quy đònh cụ
thể, thống nhất như luật công cụ bảo hiểm phái sinh chẳng hạn. Như vậy, sẽ
gây khó khăn cho các tổ chức tài chính và các doanh nghiệp kinh doanh xuất
nhập khẩu, các nhà đầu tư… trong việc hoạch đònh các chiến lược dài hạn để
kinh doanh trên thò trường.
Đối với quyền chọn cổ phiếu chúng ta dường như chưa có văn bản pháp luật
nào quy đònh, hướng dẫn cụ thể việc thực hiện giao dòch quyền chọn trên thò
trường chứng khoán, ngoại trừ một số công văn cho phép vài tổ chức thí điểm
triển khai nghiệp vụ này như công ty chứng khoán Vietcombank (VCBS)… Với
yêu cầu cấp thiết hiện nay, những lúc thò trường chứng khoán giảm sâu, các
nhà đầu tư hoang mang, bán đổ bán tháo cổ phiếu vì họ chưa thể áp dụng các
công cụ để bảo vệ mình. Như vậy, việc ban hành các văn bản luật liên quan
đến quyền chọn cổ phiếu và thành lập thò trường của chúng hiện nay đang là
nhu cầu cấp thiết đòi hỏi các cơ quan chức năng sớm thực hiện .
Nói tóm lại , cơ sở pháp lý cho sự hình thành và phát triển các giao dòch
quyền chọn ngoai tệ cũng như các quyền chọn cổ phiếu có một lỗ hổng lớn so
với nhu cầu thực tế, mà không thể một sớm một chiều có thể khỏa lấp được.
Các cơ quan chức năng cần tập trung nghiên cứu, tham khảo nhằm ban hành
các văn bản pháp luật liên quan để dần xóa bỏ lỗ hổng pháp lý lớn này, đưa
thò trường quyền chọn ngoại tệ và quyền chọn cổ phiếu vào đường băng của sự

phát triển.
Chương 2: Thực Trạng Thò trường quyền chọn và các giải pháp phát
triển
6

Nhóm…… | Giảng viên HD: ThS Hồ Văn Dũng
This part made by Nguyen Huu Tinh:


2.1.2. Thực trạng về giao dòch Options ngoại tệ và chứng khoán tại
Việt Nam trong thời gian qua
Thời gian qua ở Việt Nam, quyền chọn ngoại tệ dường như là công cụ phái
sinh được thò trường hoan nghênh và đón nhận nhiều nhất do những ưu điểm
vốn có của nó trong bối cảnh tỷ giá luôn ở trạng thái tăng giảm liên tục. Trong
khi đó, quyền chọn cổ phiếu chỉ mới được thí điểm bước đầu ở VCBS.
2.2.1.1 Quyền chọn ngoại tệ
Gồm quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ và quyền chọn ngoại tệ với nội tệ
(VNĐ)
(1) Quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ
Về phía ngân hàng tham gia
Trong giai đoạn thí điểm, các ngân hàng thương mại (NHTM) muốn thực
hiện giao dòch quyền chọn ngoại tệ phải là ngân hàng đã được phép kinh
doanh ngoại hối, có vốn tự có tối thiểu là 200 tỷ VNĐ kinh doanh ngoại tệ có
lãi trong ít nhất 5 năm gần nhất và doanh số mua bán ngoại tệ của năm trước
tối thiểu là 1 tỷ USD. Ngoài ra, NHTM phải lập ra quy trình nghiệp vụ quyền
chọn ngoại tệ và trình cho thống đốc ngân hàng nhà nước (NHNN) chấp thuận
bằng văn bản cho thực hiện thí điểm.
Theo công văn số 135/NHNN-QLNH, cho phép Eximbank là ngân hàng đầu
tiên trong cả nước được thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ với
ngoại tệ. Sau Eximbank, NHNN cũng cho phép 7 ngân hàng khác thực hiện thí

điểm nghiệp vụ này, gồm có hai ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Viet Nam
là Citibank, HSBC chi nhánh TPHCM và 5 ngân hàng trong nước là BIDV,
ACB, Vietcombank, ICB, và Argribank.
Đặc điểm giao dòch
Nguyên tắc chính của loại quyền chọn này là các doanh nghiệp và cá nhân
được quyền đặt mua hay đặt bán USD với VNĐ thông qua một tỷ giá do khách
Chương 2: Thực Trạng Thò trường quyền chọn và các giải pháp phát
triển
7

Nhóm…… | Giảng viên HD: ThS Hồ Văn Dũng
This part made by Nguyen Huu Tinh:


hàng tự chọn, được gọi là tỷ giá thực hiện. Đặc biệt, quyền chọn USD và VNĐ
đáp ứng cho cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu trong đó quyền chọn mua áp
dụng cho nhà nhập khẩu và quyền chọn bán áp dụng cho nhà xuất khẩu, trong
đó:
o Người mua quyền chọn là các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam.
o Người bán quyền chọn là các NHTM.
o Đồng tiền giao dòch: giao dòch bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi.
o Kiểu quyền chọn: kiểu Mỹ hoặc Châu Âu.
Về doanh số giao dòch
Tính đến tháng 6/2004, mặc dù lợi ích trong việc sử dụng các công cụ bảo
hiểm rủi ro đã thấy rõ như một nhu cầu cấp thiết, nhưng số lượng hợp đồng
được ký kết chỉ dừng lại con số 50 hợp đồng quyền chọn với doanh số thực hiện
hơn 50 triệu USD của Eximbank ký với các doanh nghiệp kinh doanh xuất
nhập khẩu trong thời gian thí điểm nghiệp vụ quyền chọn, còn 6 ngân hàng
còn lại không ký được hợp đồng nào.
Từ 2004 đến 2007, mặc dù không còn giới hạn về số lượng NHTM tham gia

giao dòch quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ nhưng thực tế cho thấy các hoạt
động mua bán này chưa thực sự sôi động, chỉ tập trung vào chi nhánh các ngân
hàng nước ngoài như HSBC hay Citibank và một số ít NHTM Việt Nam như
Eximbank, Techcombank, còn lại các ngân hàng vẫn không có giao dòch.
Với nghiệp vụ này, chắc chắn tương lai sẽ được mở rộng bởi khi đó VNĐ sẽ
có cơ hội tiếp cận với thò trường tài chính thế giới. Vò thế của VNĐ và Việt
Nam cũng qua đó mà tăng lên. Tuy nhiên, vì đang trong giai đoạn thí điểm
nên các ngân hàng này bò giới hạn bởi thời gian thực hiện. Sau 4 năm hoạt
động, công cụ phòng ngừa rủi ro đã có những bước phát triển nhưng vẫn chưa
thu được kết quả như mong muốn, và hầu hết các doanh nghiệp vẫn chưa thiết
tha với các nghiệp vụ này lắm. Dù gặp phải một số khó khăn trong việc áp
dụng, song các công cụ này đang là nhu cầu cấp thiết cho các doanh nghiệp và
Chương 2: Thực Trạng Thò trường quyền chọn và các giải pháp phát
triển
8

Nhóm…… | Giảng viên HD: ThS Hồ Văn Dũng
This part made by Nguyen Huu Tinh:


là cơ hội cho các ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh trong giai đoạn
hiện nay.
(2) Quyền chọn ngoại tệ với nội tệ (VNĐ)
Về phía ngân hàng tham gia giao dòch
Tháng 4/2005 NHNN Việt Nam đã bắt đầu cho triển khai thực hiện thí
điểm giao dòch quyền chọn giữa ngoại tệ với VNĐ. ACB là ngân hàng đầu tiên
được thí điểm nghiệp vụ này, với mức tối đa giá trò hợp đồng là 10 triệu USD
và mức tối thiểu là 10.000 USD (quy đổi ngoại tệ khác tương đương mức này
cho quyền chọn giao dòch giữa các ngoại tệ khác và VNĐ).
Tiếp theo ACB là ngân hàng Techcombank với giá trò hợp đồng là 8 triệu

USD-100.000 USD và chỉ được thực hiện với quyền chọn Châu Âu. BIDV được
phép thí điểm từ ngày 22/8/2005 và kể từ đây không còn quy đònh giới hạn cho
giá trò hợp đồng quyền chọn. Ngoài ra, còn có các ngân hàng như Eximbank,
GPbank cũng tham gia nghiệp vụ này. Như vậy, tính đến tháng 5/2008, đã có 7
ngân hàng được phép thực hiện giao dòch quyền chọn giữa ngoại tệ và VNĐ.
Đặc điểm giao dòch
Cũng giống với giao dòch giữa quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ, quyền chọn
ngoại tệ với VNĐ yêu cầu các NHTM muốn thực hiện nghiệp vụ này phải có đề
án chi tiết quy trình nghiệp vụ, phương án phòng ngừa rủi ro, và được NHNN
chấp nhận bằng văn bản. Quy đònh về tỉ giá thực hiện như sau:
o Đối với hợp đồng quyền chọn USD/VNĐ: tỷ giá này không vượt quá tỷ
giá kỳ hạn USD/VNĐ cùng thời hạn.
o Đối với hợp đồng quyền chọn giữa ngoại tệ khác với VNĐ: tỷ giá do
ngân hàng và khách hàng tự thỏa thuận.
Doanh số giao dòch
Mặc dù được triển khai từ năm 2005, nhưng doanh số mua bán thực tế của
các NHTM không đáng kể, hầu hết các giao dòch đều được tiến hành theo kiểu
Chương 2: Thực Trạng Thò trường quyền chọn và các giải pháp phát
triển
9

Nhóm…… | Giảng viên HD: ThS Hồ Văn Dũng
This part made by Nguyen Huu Tinh:


Mỹ vì điều kiện thanh toán linh hoạt hơn. Qua kết quả thăm dò, các ngân
hàng như ACB, Techcombank, BIDV, VIB dù là những ngân hàng tham gia các
nghiệp vụ này từ rất sớm nhưng họ chỉ mới thực hiện được một số hợp đồng
với doanh số không đáng kể.
Riêng Vietcombank và Eximbank được xem là hai ngân hàng mạnh về lónh

vực này nhưng doanh số hoạt động vẫn không cao. Tính trong năm 2006-2007
Vietcombank chỉ đạt khoảng 37,53 triệu USD (chiếm chưa đến 0,1% tổng doanh
số giao dòch ngoại tệ), Eximbank đạt 128,12 triệu USD (chiếm khoảng 0,8%
trong tổng số giao dòch ngoại tệ).
Qua thực tế trên, chúng ta thấy rằng giao dòch quyền chọn giữa ngoại tệ và
VNĐ chưa phát triển. Nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận rằng với kết
quả ban đầu trong giai đoạn thí điểm này là một dấu hiệu đáng mừng góp
phần tạo tiền đề cho sự phát triển sau này.
2.2.1.2 Quyền chọn chứng khoán (cổ phiếu)
Trong giai đoạn thí điểm hiện nay, UBCK chỉ cho công ty chứng khoán
VCBS thí điểm triển khai nghiệp vụ quyền chọn cổ phiếu, với đối tượng giao
dòch là giữa VCBS và các nhà đầu tư (kể cả cá nhân và tổ chức). Thế nhưng, do
là một nghiệp vụ mới nên rất ít các nhà đầu tư biết đến và sử dụng dòch vụ
này, các con số về hợp đồng, doanh thu của tổ chức thực hiện VCBS hầu như là
không đáng kể.
2.2.1.3. Đánh giá chung về thực trạng sử dụng options ngoại tệ và cổ
phiếu ở Việt Nam thời gian qua
Ở Việt Nam, các nghiệp vụ phái sinh nói chung và options nói riêng mới bắt
đầu được sử dùng từ đầu những năm 2000. Tuy nhiên, các nghiệp vụ options
này còn mang tính thí điểm và đơn lẻ. Số lượng giao dòch của các công cụ này
còn hết sức khiêm tốn:
- Về quyền chọn ngoại tệ: NHNN đã cho phép thực hiện thí điểm đối với
Eximbank, VIB, Vietcombank; ACB, BIDV, Techcombank, NHTMCP Quân đội,
Chương 2: Thực Trạng Thò trường quyền chọn và các giải pháp phát
triển
10

Nhóm…… | Giảng viên HD: ThS Hồ Văn Dũng
This part made by Nguyen Huu Tinh:



nhưng doanh số về hoạt động này vẫn không đáng kể so với doanh số các hoạt
động truyền thống. Mặc dù thò trường các công cụ tài chính phái sinh, quyền
chọn ngoại tệ đã hình thành ở Việt Nam, nhưng còn rất nhỏ bé và chưa phổ
biến.
- Về quyền chọn cổ phiếu: Thò trường chứng khoán Việt Nam đã ra đời
được 8 năm, nó đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển thăng trầm, thò trường
lên xuống thất thường, rủi ro cho các nhà đầu tư là khá lớn, nhu cầu phòng
ngừa rủi ro đã trở thành cấp thiết. Thế nhưng, quyền chọn cổ phiếu vẫn chưa
chính thức được ra đời ở nước ta để hỗ trợ cho sự phát triển của thò trường
chứng khoán. Thò trường vẫn mới ở trong giai đoạn chuẩn bò, thí điểm nhỏ lẻ,
những kết quả thu được hầu như chỉ là con số không.
Như vậy, điểm lại những mốc chính xuất hiện của các công cụ phái sinh
cũng như quyền chọn ở Việt Nam, dễ nhận thấy rằng nó chưa được thò trường
đón nhận như là một công cụ không thể thiếu trong phòng ngừa rủi ro. Theo
báo cáo tại hội thảo khoa học về “giải pháp phát triển thò trường phái sinh ở
Việt Nam” năm 2007, doanh số mua bán ngoại tệ trên thò trường giữa các ngân
hàng với khách hàng ngày càng tăng lên: Năm 2004 tăng 30%, từ năm 2005-
2007 trung bình tăng khoảng 20%/năm. Trong đó, các giao dòch giao ngay
chiếm từ 90-95%, các giao dòch quyền chọn ngoại tệ chỉ chiếm từ 1-5%, một tỉ
trọng rất nhỏ.
2.3. Đánh giá triển vọng thò trường options ngoại tệ và options cổ phiếu ở Việt Nam
2.3.1. Những thuận lợi của việc phát triển thò trường options ngoại tệ
và options cổ phiếu ở Việt Nam
2.3.1.1. Đối với quyền chọn ngoại tệ
(1) Về phía ngân hàng
Theo kết quả khảo sát của NHNN Việt Nam - chi nhánh TP HCM năm
2006 thì 100% các ngân hàng đều thừa nhận rằng hiện tại họ rất quan tâm
đến vấn đề rủi ro tỷ giá. Qua cuộc khảo sát này chúng ta nhận thấy rằng các
Chương 2: Thực Trạng Thò trường quyền chọn và các giải pháp phát

triển
11

Nhóm…… | Giảng viên HD: ThS Hồ Văn Dũng
This part made by Nguyen Huu Tinh:


ngân hàng ngày càng chú trọng đến sự phát triển cung cấp các giao dòch ngoại
hối mặc dù NHNN vẫn can thiệp và giữ tỷ giá tương đối ổn đònh. Việc phát
triển các nghiệp vụ này ngoài mục đích giúp các doanh nghiệp hiểu rõ hơn
đồng thời áp dụng các công cụ options để quản lý rủi ro, đây còn là cơ hội cạnh
tranh cho các NHTM đa dạng hóa sản phẩm cung cấp, đồng thời đón trước
được nhu cầu cấp thiết trong việc sử dụng các công cụ này trong thời gian tới
của doanh nghiệp.
(2) Về phía doanh nghiệp
Theo kết quả của công trình nghiên cứu khoa học tháng 12/2006 của sở
khoa học và công nghệ TPHCM kết hợp trường ĐH Kinh Tế TPHCM với đề tài
“ Hoàn thiện các giải pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá nhằm chuẩn bò hội nhập
kinh tế khu vực và thế giới” đã cho thấy: Trong số các doanh nghiệp khảo sát,
có khoảng 5,3% doanh nghiệp chưa hề biết đến và chưa nhận thức đầy đủ về
rủi ro tỷ giá, khoảng 24% có nghe và biết đến nhưng hầu như không quan tâm,
gần 30% chưa nhận thức được tầm quan trọng của rủi ro tỷ giá, 70% có nhận
thức được vấn đề rủi ro tỷ giá nhưng trong đó chỉ có khoảng 30% là thực sự lo
lắng về rủi ro tỷ giá.
Kết quả này đã phản ánh thực trạng các doanh nghiệp Việt Nam trong
thời gian trước đây, còn ỷ lại vào sự che chở của cơ quan nhà nước, do vậy các
doanh nghiệp đã không quan tâm đến vấn đề rủi ro tỷ giá đúng mức, nhưng
trong thời gian hiện tại với sự thay đổi của tỷ giá hối đoái và những rủi ro
trong quá trình hội nhập đã buộc các doanh nghiệp phải chú trọng quan tâm
đến các công cụ phòng ngừa rủi ro như options để tự bảo vệ mình.

Báo cáo tại hội thảo khoa học 2007 về “giải pháp phát triển thò trường
phái sinh ở Việt Nam (bảng 2.1)” cũng đã chỉ ra rằng: Có đến gần 80% doanh
nghiệp được khảo sát cho biết họ chưa hoặc ít tham gia giao dòch quyền chọn
ngoại tệ. Tỷ lệ doanh nghiệp có biết đến và sử dụng hợp đồng quyền chọn
ngoại tệ thường xuyên cũng vào khoảng 21%. Qua các con sổ trên, phần nào đã
phản ánh chính xác về thực trạng sử dụng các giao dòch quyền chọn ngoại tệ
tại Việt Nam. Song song đó, điều này đã chỉ ra rằng các doanh nghiệp bước
đầu đã thấy được sự cần thiết trong việc áp dụng công cụ này.
Bảng 2.1: Kết quả khảo sát về việc sử dụng công cụ options ngoại tệ
Chương 2: Thực Trạng Thò trường quyền chọn và các giải pháp phát
triển
12

Nhóm…… | Giảng viên HD: ThS Hồ Văn Dũng
This part made by Nguyen Huu Tinh:



Doanh
nghiệp chưa
biết
Doanh
nghiệp ít sử
dụng
Doanh nghiệp
thường xuyên sử
dụng
Tổng
cộng
Quyền

chọn ngoại
tệ
21%
58%
21%
100%
Qua các khảo sát, có thể thấy rằng: Các doanh nghiệp ngày càng quan
tâm đến việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá và có nhu cầu sử dụng các sản phẩm
phái sinh như quyền chọn ngoại tệ để bảo vệ chính mình. Bên cạnh đó, các
NHTM cũng đang chuẩn bò mọi thứ có thể và sẵn sàng cạnh tranh đáp ứng
nhu cầu sử dụng các cung cụ phái sinh của khách hàng, đặc biệt là quyền chọn
ngoại tệ. Điều này cho thấy tiềm năng phát triển rất lớn của nghiệp vụ này
trong tương lai khi vấn đề tỷ giá ngày càng được tự do hóa.
2.3.1.2.Đối với quyền chọn cổ phiếu
Quyền chọn cổ phiếu hiện vẫn chưa được phép áp dụng chính thức ở Việt
Nam, UBCK chỉ cho phép thí điểm ở một vài tổ chức như VCBS…Nhưng trong
bối cảnh TTCK suy giảm mạnh mẽ như thời gian qua, khi mà các nhà đầu tư
đòi hỏi một sự ổn đònh, giảm thiểu rủi ro cho thò trường chứng khoán, bộ
trưởng Bộ Tài Chính đã ban hành quyết đònh số 745 về chương trình hành
động thực hiện mục tiêu ổn đònh thò trường, kiềm chế lạm phát năm 2008.
Trong đó, Bộ Tài Chính cũng đã đưa 5 kế hoạch trọng tâm nhằm ổn đònh thò
trường chứng khoán:
o Một là, thực thi các giải pháp phát triển thò trường chứng khoán có
tổ chức đồng thời với việc hạn chế rủi ro của thò trường tự do.
Nghiên cứu ban hành quy đònh về phát hành chứng khoán riêng
lẻ.
o Hai là, nghiên cứu để sửa đổi các quy đònh theo hướng nâng cao
tiêu chuẩn đối với phát hành chào bán chứng khoán, cấp phép
thành lập công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ.
o Ba là, sửa đổi hoặc bổ sung các quy đònh liên quan đến nhà đầu tư

nước ngoài trên thò trường chứng khoán, quy chế hoạt động và cung
cấp dòch vụ; thành lập công ty quản lý quỹ 100% vốn nước ngoài,
các biện pháp kiểm soát dòng vốn đầu tư nước ngoài.
Chương 2: Thực Trạng Thò trường quyền chọn và các giải pháp phát
triển
13

Nhóm…… | Giảng viên HD: ThS Hồ Văn Dũng
This part made by Nguyen Huu Tinh:


o Bốn là, xây dựng đề án giải pháp, phòng ngừa rủi ro và xử lý
khủng hoảng trên thò trường chứng khoán.
o Năm là, đổi mới cơ chế quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh
nghiệp khác, cơ chế góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước
ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam, tổ chức kiểm tra, giám sát
chặt chẽ và đánh giá hiệu quả hoạt động tài chính của các tập đoàn
kinh tế, các tổng công ty và doanh nghiệp nhà nước để kòp thời
phát hiện, chấn chỉnh để báo cáo và đề xuất với thủ tướng chính
phủ các biện pháp tăng cường quản lý và hướng dẫn hoàn thiện về
tổ chức và hoạt động của các tập đoàn kinh tế.
Rõ ràng, qua nỗ lực nhằm vực dậy TTCK, chúng ta thấy rằng UBCK nhà
nước và các cơ quan chính phủ đang có xu hướng quan tâm đến việc xây dựng
đề án giải pháp phòng ngừa rủi ro và xử lý khủng hoảng trên thò trường chứng
khoán, và phương án thành lập thò trường phái sinh chứng khoán. Đặc biệt,
việc thành lập thò trường quyền chọn cổ phiếu trong giai đoạn hiện nay đang
là một giải pháp khả thi. Hiện nay, các thò trường toàn cầu nói chung và thò
trường Việt Nam nói riêng, mọi người đều lo ngại về vấn đề quản lý rủi ro, và
đây cũng là thời điểm tốt để một thò trường chứng khoán non trẻ, với nhiều
biến động về giá trong thời gian qua như Việt Nam có thể xem xét đến việc áp

dụng những hình thức giao dòch quyền chọn này. Việc triển khai quyền chọn cổ
phiếu sẽ tạo cơ hội cho TTCK vực dậy trong những giai đoạn khó khăn như
thời gian vừa qua.
Hơn nữa, TTCK Việt Nam đã phát triển đủ lớn và đáp ứng những yêu
cầu cơ bản cho việc áp dụng quyền chọn cổ phiếu: Đó là tính thanh khoản trên
thò trường chứng khoán ngày càng cao; hàng hóa tăng mạnh cả về số lượng lẫn
chất lượng; đã xuất hiện nhiều công ty cổ phần đại chúng lớn, sắp tới đây sẽ
tiến hành cổ phần hóa gắn kết niêm yết trên thò trường chứng khoán các công
ty hàng đầu, các tổng công ty lớn như: các ngân hàng quốc doanh
(Vietcombank, BIDV, Incombank…), tổng công ty bưu chính viễn thông
(Vinaphone, Mobifone), tập đoàn dầu khí Petrolimex; biên độ giá đã được mở
rộng trở lại (+/-5% đối với HOSE và +/-7% đối với HASTC), thò trường OTC
dần được tập trung hóa, các dự thảo về việc “Cho phép một nhà đầu tư mở
nhiều tài khoản giao dòch”, “Được mua bán nhiều lần một mã chứng khoán
trong cùng một phiên”… đang được soạn thảo. Ngoài ra, thò trường chứng khoán
Chương 2: Thực Trạng Thò trường quyền chọn và các giải pháp phát
triển
14

Nhóm…… | Giảng viên HD: ThS Hồ Văn Dũng
This part made by Nguyen Huu Tinh:


Việt Nam ngày càng nhận được sự quan tâm và tham gia giao dòch rất lớn của
các nhà đầu tư, các tổ chức lớn nước ngoài…
Thiết nghó, đây là thời điểm chín muồi để triển khai quyền chọn cổ phiếu
vào giao dòch trên thò trường chứng khoán Việt Nam, là cơ hội tốt để áp dụng
và phát triển thò trường này với sự hỗ trợ từ phía các cơ quan nhà nước và các
bộ ngành có liên quan. Việc áp dụng này rất phù hợp với xu thế chung của thế
giới, đánh dấu bước chuyển mình của thò trường chứng khoán nói riêng và

TTTC Việt Nam nói chung.
Có thể thấy, các chủ thể tham gia thò trường ngoại hối cũng như thò
trường chứng khoán đã ngày càng nhận thức rõ hơn về lợi ích của các công cụ
phái sinh nói chung, quyền chọn nói riêng và sẵn sàng đón nhận đón nhận sự
ra đời của một thò trường options hỗ trợ cho việc kinh doanh cũng như đầu tư
của riêng mình. Thêm vào đó là sự quan tâm, hỗ trợ từ các cơ quan nhà nước
ngày càng cao đối với thò trường quyền chọn. Đây có thể xem như là thuận lợi
lớn nhất cho sự phát triển của thò trường quyền chọn ngoại tệ và quyền chọn
cổ phiếu trong tương lai.
2.3.2. Những cơ hội của việc phát triển thò trường options ngoại tệ và
options cổ phiếu ở Việt Nam
Từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, nền kinh tế đã có nhiều bước
chuyển biến tích cực hơn, tiềm năng phát triển của nền kinh tế còn rất lớn. Để
khai thác tiềm năng này, các yêu cầu về minh bạch, cơ chế, chính sách thông
thoáng… ngày càng được chú trọng và thực hiện quyết liệt hơn.
2.3.2.1. Các yêu cầu ngày càng cao về công khai và minh bạch hóa thông tin
Ngày nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, tính cạnh tranh ngày
càng cao, vấn đề công khai hóa, minh bạch hóa thông tin thò trường, nền kinh
tế ngày càng được đòi hỏi, yêu cầu cao hơn. Việc thành lập thò trường options
nói chung và thò trường options ngoại tệ, cổ phiếu nói riêng ở Việt Nam sẽ giúp
các hoạt động này diễn ra nhanh và mạnh mẽ hơn. Khi đó, các nhà đầu tư sẽ
có cơ hội tiếp cận thò trường một cách công bằng hơn so với trước đây, chúng ta
sẽ giảm được độc quyền, sự phân biệt và các giao dòch bí mật trong thò trường,
đồng thời nâng cao hiệu quả trong hoạt động quảng bá sản phẩm của các ngân
hàng, công ty chứng khoán…
Chương 2: Thực Trạng Thò trường quyền chọn và các giải pháp phát
triển
15

Nhóm…… | Giảng viên HD: ThS Hồ Văn Dũng

This part made by Nguyen Huu Tinh:


2.3.2.2. Cơ chế, chính sách thông thoáng hơn khi Việt Nam đã tham gia vào
WTO
Ở Việt Nam, do chưa từng phải chòu ảnh hưởng lớn từ cuộc khủng hoảng
tài chính tiền tệ. Do chính sách quản lý các giao dòch vốn những năm trước
đây còn chủ yếu dựa vào cơ chế hành chính, tự phong toả là chính, mức độ tự
do hoá rất hạn chế , nên việc áp dụng các công cụ options ngoại tệ và options
cổ phiếu còn chưa trở thành nhu cầu cấp thiết. Tuy nhiên, hiện nay nền kinh
tế Việt Nam đã và đang thực sự trở thành nền kinh tế thò trường đầy đủ, đang
có rất nhiều thay đổi về mặt chính sách.
Mở cửa thò trường vào không gian WTO, áp dụng các luật chơi chung với
quốc tế, lãi suất đã được tự do hoá; lộ trình tự do hoá tài chính đã đi qua rất
nhiều bước và trên thực tế, các luồng vốn đã tương đối tự do chảy vào và chảy
ra khỏi Việt Nam cả trực tiếp và gián tiếp với qui mô, tần suất ngày càng lớn;
chính sách tỷ giá cũng từng bước linh hoạt theo tín hiệu thò trường Những
bối cảnh trên đã, đang là những nhân tố khách quan thúc đẩy các bên tham
gia thò trường tài chính Việt Nam phải đổi mới tư duy, nhận thức về vai trò
của thò trường phái sinh nói chung và thò trường options ngoại tệ, cổ phiếu nói
riêng trong công tác phòng ngừa rủi ro của mình.
2.3.2.3 Sự gia tăng mạnh mẽ của dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam cả trong
hiện tại và tương lai
Nhìn một cách tổng thể, những năm gần đây và nhất là trong những
năm hậu WTO, chỉ riêng các doanh nghiệp nước ngoài đã, đang và sẽ đưa vào
Việt Nam một lượng vốn ngoại tệ khổng lồ để đầu tư, đặc biệt là trong trong
giai đoạn 2007-2008. Trong số đó có không ít doanh nghiệp FDI chỉ bán hàng
trong nước, thu tiền đồng. Họ phải bán ngoại tệ (chủ yếu vẫn là USD) thu VNĐ
để thanh toán cho các chi phí, hoặc dùng lượng ngoại tệ này để nhập máy móc
thiết bò từ nước ngoài. Sau một thời gian, khi có lợi nhuận, họ được chuyển tiền

về nước và cần dùng VNĐ mua ngoại tệ chuyển ra Trong quá trình đó rủi ro
tỉ giá là một điều luôn tiềm ẩn đối với các doanh nghiệp này. Khi đó, công cụ
options ngoại tệ sẽ giảm thiểu đến mức thấp nhất rủi ro tỷ giá nếu được sử
dụng trong những trường hợp này, giúp các doanh nghiệp tránh được khoản
thiệt hại do tăng hoặc giảm giá ngoại tệ (nếu có). Thế nhưng chúng vẫn chưa
được sử dụng nhiều ở Việt Nam. Vì vậy, việc phát triển thò trường option ngoại
Chương 2: Thực Trạng Thò trường quyền chọn và các giải pháp phát
triển
16

Nhóm…… | Giảng viên HD: ThS Hồ Văn Dũng
This part made by Nguyen Huu Tinh:


tệ chắc chắn sẽ tạo nhiều cơ hội cho các dòng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào
Việt Nam.
Tương tự, đối với thò trường chứng khoán, việc có một công cụ phòng
ngừa rủi ro khi thò trường chứng khoán tăng giảm đột ngột sẽ giúp các nhà đầu
tư nước ngoài mạnh dạn hơn khi đầu tư vào thò trường chứng khoán. Qua đó,
việc hình thành và phát triển thò trường quyền chọn cổ phiếu sẽ thúc đẩy dòng
vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài chảy vào Việt Nam nhanh và mạnh hơn thông
qua kênh chứng khoán, khi mà các nguồn vốn FII này đã và đang khởi động để
tham gia vào thò trường chứng khoán Việt Nam.
Ngay NHNN Việt Nam cũng thường xuyên có một q dự trữ ngoại hối
khá lớn chưa được sử dụng hết, tăng trưởng tự nhiên và chủ yếu là dự trữ đồng
USD đang yếu đi khá mạnh theo thời gian, nhưng chưa có một cơ chế đủ rõ
ràng để trao quyền phán quyết cho nhà quản lý sử dụng thích ứng các công cụ
options với các đối tác trong nước và nước ngoài trong quá trình quản lý và
phát triển q. Do đó, thò trường options ngoại tệ và options cổ phiếu sẽ là
kênh đầu tư mới, tạo nhiều sự lựa chọn hơn cho các nhà đầu tư, ngay cả các cơ

quan quản lý quỹ ngoại hối nhà nước.
Tóm lại, Việt Nam đã tham gia vào sân chơi toàn cầu, dòng vốn đầu tư
nước ngoài chảy vào Việt Nam ngày càng lớn, các yêu cầu, tiêu chuẩn về phát
triển kinh tế ngày càng được đòi hỏi cao hơn, tự do hóa, sự công khai, minh
bạch hóa ngày càng trở thành nhu cầu thiết yếu. Khi đó, yêu cầu đặt ra là phải
cần những công cụ thò trường để thực hiện hóa, đẩy nhanh tiến trình theo yêu
cầu từ bên ngoài và chính nội tại bên trong của nền kinh tế cũng như để ổn
đònh hóa thò trường, nền kinh tế. Thò trường options, đặc biệt là options ngoại
tệ và options cổ phiếu có lẻ là một trong những công cụ hiệu quả nhất để thực
hiện, đón đầu các cơ hội này.
2.4. Những khó khăn, hạn chế của việc phát triển thò trường options ngoại tệ và
options cổ phiếu ở Việt Nam hiện nay
2.4.1. Đối với tầm quản lý vó mô
o Khó khăn trong việc điều chỉnh cũng như ban hành văn bản pháp luật
phù hợp thò trường.
Chương 2: Thực Trạng Thò trường quyền chọn và các giải pháp phát
triển
17

Nhóm…… | Giảng viên HD: ThS Hồ Văn Dũng
This part made by Nguyen Huu Tinh:


Đối với cơ quan cấp vó mô nhà nước việc ban hành một văn bản pháp
luật phù hợp và tạo tính thuận lợi dễ dàng khi thực hiện trong thực tế,
để tạo sự yên tâm giao dòch cho các nhà đầu tư không phải là việc có thể
thực hiện một sớm một chiều. Song trong thời gian qua, chúng ta đã có
thời gian thí điểm chuẩn bò, chúng ta biết chúng ta đang đứng ở đâu, và
chúng ta đang gặp thách thức, khó khăn nào, vậy tại sao chúng ta lại
không bắt tay vào khắc phục những nhược điểm trên.

o Khó khăn bước đầu của UBCK nhà nước và các cơ quan quản lý là việc
nắm bắt và đưa ra các luật lệ phù hợp để phát triển thò trường options.
Hiện nay chúng ta chỉ mới có luật chứng khoán và một số văn bản quyết
đònh việc thực hiện các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ, hoán đổi lãi suất,
quyền chọn ngoại tệ… Các văn bản pháp luật này vẫn còn chưa đủ sức để
quy đònh rõ và hướng dẫn các tổ chức tài chính và các nhà đầu tư thực
hiện các công cụ phái sinh cũng như quyền chọn, đặc biệt là quyền chọn
ngoại tệ và cổ phiếu.
o Đối với các tổ chức tài chính cung cấp dòch vụ quyền chọn ngoại tệ và
quyền chọn cổ phiếu (ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán…)
2.4.2. Khó khăn trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng và công nghệ
o Trong thời gian qua, vấn đề công nghệ áp dụng tại các công ty chứng
khoán rất khác nhau, chúng ta chưa có sự đồng bộ về công nghệ. Ví dụ
như việc UBCK nhà nước quy đònh các công ty chứng khoán phải liên kết
với các ngân hàng để quản lý tiền của nhà đầu tư, việc thực hiện này
cũng tương đối chậm, vì việc trang bò hệ thống công nghệ rất tốn kém và
qui đònh mới cũng gây ra một số khó khăn trong công tác quản lý tài
khoản khách hàng. Đối với nghiệp vụ options, việc trang bò hệ thống kỹ
thuật công nghệ càng phức tạp và tốn kém hơn, đặc biệt là khi muốn kết
nối với sàn giao dòch quyền chọn tập trung sau này, nếu doanh nghiệp
không tính toán kỹ, có thể gây ra thua lỗ lớn.
o Tương tự đối với các NHTM, việc trang bò các hệ thống kết nối, thông tin
đến khách hàng khá là phức tạp, các phần mềm đònh giá quyền chọn,
phân tích thò trường… đều có giá rất cao, mà không phải ngân hàng nào
cũng có thể trang bò được. Điều này sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng
sản phẩm quyền chọn ngoại tệ và khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp cung ứng dòch vụ.
Chương 2: Thực Trạng Thò trường quyền chọn và các giải pháp phát
triển
18


Nhóm…… | Giảng viên HD: ThS Hồ Văn Dũng
This part made by Nguyen Huu Tinh:


2.4.3. Khó khăn trong công tác đào tạo nguồn nhân lực
Thò trường options Việt Nam hiện nay chưa phát triển, chúng ta chỉ đang
cho phép áp dụng một số công cụ tài chính phái sinh như các hợp đồng quyền
chọn ngoại tệ tại ACB, Vietcombank, Sacombank…và quyền chọn vàng tại ACB.
Vì vậy, nguồn nhân lực Việt Nam chưa được chuẩn bò kỹ về kiến thức và khả
năng chuyên môn. Hầu hết các ngân hàng, công ty chứng khoán… chưa có đội
ngũ nhân lực vững chuyên môn và kiến thức để phổ biến công cụ options đến
các nhà đầu tư, doanh nghiệp. Họ hầu như chỉ được thuyên chuyển qua từ các
bộ phận khác.
Hiện nay, số người biết, hiểu và sử dụng thành thạo các công cụ phái
sinh cũng như quyền chọn ngoại tệ và quyền chọn cổ phiếu là rất ít. Chúng ta
chỉ tổ chức các buổi hội thảo khuyến khích các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
Việt Nam và các nhà đầu tư chứng khoán áp dụng các công cụ options ngoại tệ
và options cổ phiếu để tự bảo vệ mình, nhưng hầu như chưa tổ chức các khóa
đào tạo chuyên sâu về quyền chọn và phòng ngừa rủi ro đến các doanh nghiệp
và nhà đầu tư.
2.4.4. Đối với tâm lý của các doanh nghiệp Việt Nam
Về phía các doanh nghiệp sử dụng quyền chọn, có một thực tế đáng lo
ngại ở nước ta. Ví dụ, một doanh nghiệp thậm chí biết rõ là sẽ có rủi ro khi tỉ
giá có thể tăng mạnh do lạm phát tăng cao và biết rõ nếu ký mua một hợp
đồng quyền chọn mua ngoại tệ sẽ đỡ thiệt hơn nhiều. Nhưng chỉ vì tư duy và
cách làm ăn truyền thống, các doanh nghiệp sợ rằng nếu đưa ra quyết đònh
này, nhưng chẳng may có một điều kiện khách quan nào đó làm cho tỉ giá thò
trường giảm xuống trái với xu hướng ban đầu, gây thiệt hại một khoản phí
quyền chọn ban đầu, không những uy tín, mà đòa vò của người ra quyết đònh đó

cũng bò lung lay. Còn nếu mọi dự báo đúng như thực tế thì bản thân người
quyết đònh đó cũng không được lợi lộc gì. Đa số các doanh nghiệp Việt Nam
hiện không qui đònh rõ ràng trách nhiệm, quyền lợi của lãnh đạo và nhân viên
trong đơn vò. Trong khi trên thế giới, các công ty có chính sách quản lý rủi ro
rất cụ thể, họ luôn qui đònh quyền phán quyết mức rủi ro tài chính rõ ràng với
từng vò trí lãnh đạo và từng khu vực hay từng quốc gia nếu đó là công ty xuyên
quốc gia. Chính điều này đã làm cho các giao dòch quyền chọn nói chung và các
quyền chọn ngoại tệ, cổ phiếu nói riêng còn rất hạn chế trong thực tế.
Chương 2: Thực Trạng Thò trường quyền chọn và các giải pháp phát
triển
19

Nhóm…… | Giảng viên HD: ThS Hồ Văn Dũng
This part made by Nguyen Huu Tinh:


2.4.5. Đối với các nhà đầu tư
Là những rủi ro phải đối mặt trong việc dự đoán tỷ giá, giá cả chứng
khoán và xu hướng thò trường. Các công cụ tài chính đều có hai mặt, một mặt
các nhà đầu tư có thể phòng ngừa rủi ro, mặt khác đi kèm với nó là rủi ro.
Ví dụ như mua một hợp đồng options ngoại tệ để bảo vệ đồng tiền thanh
toán, hay mua quyền chọn một cổ phiếu, nhà đầu tư có thể gặp rủi ro lớn nếu
không biết dự đoán tỷ giá, giá cổ phiếu đúng theo xu hướng thò trường. Thò
trường chứng khoán vốn chẳng bao giờ dễ dự đoán, điều đó càng đúng với một
thò trường chứng khoán Việt Nam còn non trẻ và chứa đựng nhiều yếu tố bất
ổn như hiện nay.
Việc thiếu hiểu biết về quyền chọn và khả năng phân tích sẽ gây ra rất
nhiều khó khăn và rủi ro khi sử dụng của các nhà đầu tư, khi nhiều nhà đẩu tư
gặp rủi ro thì có thể gây ra những bất ổn cho thò trường. Đây cũng là một
trong những trở ngại lớn làm hạn chế sự phát triển của thò trường quyền chọn

ngoại tệ và quyền chọn cổ phiếu ở Việt Nam, khi trình độ cũng như khả năng
phân tích của các nhà đầu tư và doanh nghiệp còn nhiều hạn chế.
2.5. Nguyên nhân của những hạn chế
2.5.1. Nguyên nhân từ thò trường
Nguyên nhân chủ yếu là do mức độ phát triển của thò trường tiền tệ,
ngoại hối, chứng khoán…của nước ta còn thấp, đôi khi nó nằm ngoài các rủi ro
từ tầm tác động của các “cơn gió lớn”, “cơn bão” tài chính quốc tế. Cùng với đó
là tư duy kinh doanh truyền thống còn phổ biến. Trong thực tế, những biến
động về tỷ giá, giá chứng khoán được dự báo khá “chắc chắn” và giống nhau
giữa các đối tượng có mặt trên thò trường tài chính và những “sai lệch” dễ dự
báo đó được các bên “cân đối” ngay vào giá của sản phẩm chính như tỷ giá, giá
cả cổ phiếu.
Việt Nam chưa phải chòu ảnh hướng lớn từ những cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ, nên việc sử dụng các công cụ phái sinh chưa trở thành nhu cầu
bức xúc. Tuy nhiên, nền kinh tế đang thực sự trở thành nền kinh tế thò trường
đầy đủ, mở cửa thò trường, áp dụng các luật chơi chung với quốc tế, lãi suất
được tự do hoá, các luồng vốn được tự do chảy vào và chảy ra khỏi Việt Nam…
Chương 2: Thực Trạng Thò trường quyền chọn và các giải pháp phát
triển
20

Nhóm…… | Giảng viên HD: ThS Hồ Văn Dũng
This part made by Nguyen Huu Tinh:


các nhà lập chính sách về TTTC Việt Nam cần sớm bày tỏ quan điểm để xây
dựng và đề xuất hệ thống chính sách khuyến khích phát triển thò trường các
công cụ tài chính phái sinh “ăn theo” như quyền chọn ngoại tệ và cổ phiếu bên
cạnh thò trường chính thức như thò trường ngoại hối, thò trường chứng khoán…
Thêm vào đó, do mức độ hiệu quả của thò trường ngoại hối và thò trường

chứng khoán còn yếu nên các giao dòch quyền chọn nói chung không minh bạch
và gây thiệt hại cho nhà đầu tư, doanh nghiệp nếu thiếu thông tin. Đây cũng là
một trong những lý do chính khiến các nhà đầu tư còn dè dặt áp dụng đối với
các công cụ quyền chọn ngoại tệ và quyền chọn cổ phiếu.
2.5.2. Nguyên nhân từ sự điều tiết tỉ giá USD/VNĐ
Trên thò trường ngoại hối, tỷ giá USD/VNĐ không dao động mạnh, do có
sự điều tiết từ phía NHNN khiến cho tỷ giá ổn đònh theo chiều hướng đi lên để
khuyến khích xuất khẩu. Với xu hướng tỷ giá này, các nhà đầu tư luôn muốn
thực hiện quyền chọn mua ngoại tệ để kiếm lợi nhuận chứ không mua quyền
chọn bán. Do đó, từ sự giao dòch một chiều này, sẽ tạo ra những rủi ro cho
ngân hàng khi bán quyền chọn ngoại tệ. Để giảm rủi ro, ngân hàng phải tăng
phí bán quyền chọn khiến cho quyền chọn càng không có điều kiện thực hiện
và không còn muốn mua quyền chọn nữa. Vòng luẩn quẩn này gây khó khăn
cho cả nhà đầu tư và phía ngân hàng.
2.5.3. Nguyên nhân từ biên độ giao dòch USD, cổ phiếu
Đối với các giao dòch mua bán USD, do chính sách neo VNĐ vào đồng
USD nên biên độ giao động giá của USD được NHNN qui đònh là +/-0.5%. Ngày
20-3-2008, biên độ giao động giá của USD đã được NHNN cho phép nâng lên là
+/-1%, và gần đây nâng lên +/-2%.
Tương tự, đối với thò trường chứng khoán, chính sách quản lý có xu
hướng tránh biến động mạnh của TTCK. Do đó, trên các sàn giao dòch chứng
khoán tập trung, biên độ dao động của giá cổ phiếu được giới hạn ở một mức cố
đònh. Cụ thể, các cổ phiếu niêm yết ở Sở giao dòch chứng khoán TP.HCM
(HOSE) có biên độ được qui đònh là +/-5% và Trung tâm giao dòch chứng khoán
Hà Nội (HASTC) là +/-7%. Biên độ này đôi khi còn được điều chỉnh thấp hơn
khi thò trường suy giảm mạnh.
Chương 2: Thực Trạng Thò trường quyền chọn và các giải pháp phát
triển
21


Nhóm…… | Giảng viên HD: ThS Hồ Văn Dũng
This part made by Nguyen Huu Tinh:


Biên độ dao động như vậy đồng nghóa với rủi ro đối với tỉ giá và giá cổ phiếu
giảm đi đáng kể, hạn chế phần nào tâm lý phòng ngừa rủi ro của các nhà đầu
tư, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Do đó, làm hạn chế sự phát triển của thò
trường quyền chọn, đặc biệt là quyền chọn ngoại tệ và quyền chọn cổ phiếu.
2.5.4. Nguyên nhân từ vấn đề hạch toán kế toán
Hiện nay, trong hạch toán kế toán dường như chỉ chú trọng tới phần
lãi/lỗ thực tế phát sinh, trong khi phần lãi/lỗ dự kiến, chưa phát sinh thì dường
như chưa được quan tâm.
Chẳng hạn, doanh nghiệp mua một hợp đồng phái sinh, cụ thể là một
hợp đồng quyền chọn trò giá 1 tỷ đồng và bút toán ghi sổ 1 tỷ đồng nhưng
ngày mai, ngày kia, giá trò "hàng hóa" đã mua chỉ còn 800 triệu đồng hoặc lên
1,5 tỷ đồng thì sổ sách kế toán vẫn chỉ thể hiện 1 tỷ đồng. Thực tế này đã
không những không phản ánh hết giá trò thực trong hệ thống sổ sách kế toán
mà còn là kẽ hở của tình trạng "lãi giả, lỗ thật" và ngược lại trong báo cáo kế
toán của doanh nghiệp.
Thiết nghó, từ thực tế này, để giải quyết những rào cản hiện nay đối với
công cụ phái sinh, cũng như quyền chọn, không chỉ xét từ góc độ từ các NHTM
hay doanh nghiệp mà rất cần sự hợp lực từ phía các cơ quan quản lý như Bộ
Tài chính (tháo gỡ vướng mắc về thuế và chế độ ghi sổ kế toán) và của NHNN
trong việc ban hành các văn bản pháp lý, tổ chức hội thảo hay hướng dẫn các
nghiệp vụ cụ thể.
2.5.5. Nguyên nhân từ cách tính phí quyền chọn
Trên thò trường ngoại hối, đối với quyền chọn ngoại tệ, hiện nay hầu hết
các ngân hàng ở Việt Nam do một số hạn chế, vẫn chưa thể tự mình đứng ra
phát hành hay cung cấp các quyền chọn ngoại tệ trực tiếp cho khách hàng, mà
chỉ đóng vai trò như một trung gian môi giới quyền chọn giữa các ngân hàng

lớn khác và khách hàng. Thường là theo yêu cầu của khách hàng, các ngân
hàng sẽ liên hệ với các ngân hàng đối tác ở nước ngoài (thường là các ngân
hàng lớn), hoặc thậm chí là một ngân hàng lớn trong nước để mua một quyền
chọn rồi bán lại cho khách hàng của mình. Qui trình này dẫn đến một hệ quả
là các ngân hàng muốn có lợi nhuận thì tiền phí (giá) của quyền chọn ngoại tệ
tính cho khách hàng phải theo công thức sau:
Chương 2: Thực Trạng Thò trường quyền chọn và các giải pháp phát
triển
22

Nhóm…… | Giảng viên HD: ThS Hồ Văn Dũng
This part made by Nguyen Huu Tinh:


Giá (phí) quyền chọn ngoại tệ tính cho khách hàng = Giá phí quyền chọn
ngoại tệ mua của các NH đối tác (trong và ngoài nước) + chi phí để phục vụ
hợp đồng options ngoại tệ này + khoảng chênh lệch lợi nhuận cho ngân hàng.
Cách tính phí (giá) quyền chọn như trên đã làm đội chi phí thực hiện
một hợp đồng quyền chọn ngoại tệ của khách hàng, làm cho họ cảm thấy mua
một hợp đồng quyền chọn ngoại tệ không còn có lợi do chi phí qua cao, không
hiệu quả. Điều này cũng đã trở thành một lực càn cho các giao dòch quyền chọn
ngoại tệ cũng như thò trường quyền chọn phát triển ở Việt Nam trong hiện
tại.
2.5.6. Nguyên nhân từ trình độ nhận thức của nhà đầu tư
Theo các chuyên gia tài chính, do sản phẩm quyền chọn khá phức tạp
nên hiện nay, các doanh nghiệp và nhà đầu tư trong nước vẫn ngại sử dụng.
Thêm vào đó, hiểu biết của doanh nghiệp và nhà đầu tư về các sản phẩm này
vẫn còn khá hạn chế.
Trong khi đó, các tổ chức cung cấp, đặc biệt là ngân hàng, công ty chứng
khoán vẫn còn yếu trong tuyên truyền, tiếp cận khách hàng. Lãnh đạo của một

ngân hàng quốc doanh cho biết: “lý do một phần vì doanh thu của các sản
phẩm quyền chọn ngoại tệ vẫn còn hạn chế nên các ngân hàng chưa quan tâm
đúng mức tới việc quảng bá sản phẩm.”
Tham gia thò trường tài chính Việt nam còn thiếu các doanh nghiệp và
nhà đầu tư am hiểu về lợi ích cũng như kỹ thuật tính toán lợi nhuận từ các loại
nghiệp vụ này. Các nhà môi giới chuyên nghiệp, các trung gian tài chính đủ
năng lực tổ chức thò trường options còn quá ít trên thò trường tiền tệ, ngoại
hối, thò trường chứng khoán Việt Nam nên chúng ta chưa thể thúc đẩy họ tham
gia mạnh mẽ vào thò trường options.
Bản thân các khách hàng nói chung, các doanh nghiệp Việt Nam nói
riêng còn dè dặt áp dụng công cụ options. Như ví dụ từ Ngân hàng HSBC mặc
dù hoạt động tại Việt Nam đã hơn 6 năm với trên 1.000 doanh nghiệp là
khách hàng “ruột”, nhưng sau 2 năm được phép sử dụng các công cụ options,
mới chỉ có một vài doanh nghiệp trong số hàng ngàn doanh nghiệp khách
hàng đó dám ứng dụng nghiệp vụ này. Chỉ riêng việc thực hiện một giao dòch
hoán đổi giữa hai đồng tiền, ngân hàng này cũng mất tới nửa năm để giải
Chương 2: Thực Trạng Thò trường quyền chọn và các giải pháp phát
triển
23

Nhóm…… | Giảng viên HD: ThS Hồ Văn Dũng
This part made by Nguyen Huu Tinh:


thích, thoả thuận. Các hợp đồng quyền chọn ngoại tệ cũng thường phải mất
một vài tháng mới được ký kết.
Theo HSBC, việc xúc tiến các dòch vụ phái sinh quản lý rủi ro cho khách
hàng là doanh nghiêp vẫn đang được ngân hàng này tích cực khuyến khích.
Với Techcombank, các nghiệp vụ options vẫn còn ít được khách hàng áp dụng,
thậm chí có công cụ chưa có khách hàng nào giao dòch.

Thống kê của ngân hàng thanh toán quốc tế cho thấy, đến hết 2006, số
dư hợp đồng giao dòch options trên thò trường tài chính quốc tế tương đương
417 tỷ USD. Thế nhưng, con số này ở Việt Nam rất ít được nhắc tới vì quá
khiêm tốn, mặc dù đây là công cụ bảo hiểm rủi ro tài chính phổ biến trên thế
giới.
2.6. Giải pháp phát triển thò trường quyền chọn ở Việt Nam
Đối với các cơ quan Nhà nước
Trước những thuận lợi, cơ hội cũng như khó khăn, thách thức. Thò trường
quyền chọn cần những giải pháp đồng bộ để có thể tạo lập và phát triển. Mà
trước tiên là các giải pháp vó mô từ các cơ quan nhà nước.
Dưới góc độ những người tạo lập, quản lý, giám sát thò trường quyền chọn
ngoại tệ và quyền chọn cổ phiếu, các cơ quan nhà nước, đặc biệt là NHNN, Bộ
Tài Chính, UBCK cần cùng nhau phối hợp thực hiện một số giải pháp sau để
có thể bước đầu đònh hình và phát triển thò trường này trong tương lai.
2.61. Xây dựng, điều chỉnh khung pháp lý cho thò trường quyền chọn
ngoại tệ và quyền chọn cổ phiếu
Dựa trên cơ sở nghiên cứu luật về thò trường chứng khoán phái sinh của
các nước trên thế giới kết hợp kinh nghiệm quản lý trong quá trình hình
thành và phát triển các giao dòch phái sinh, đặc biệt là các giao dòch quyền
chọn trên thò trường ngoại hối, thò trường tiền tệ ở nước ta trong thời gian qua,
để từng bước xây dựng khung pháp lý cho các giao dòch quyền chọn, tiến đến
hình thành luật và quy chế giao dòch quyền chọn chính thức.
Chương 2: Thực Trạng Thò trường quyền chọn và các giải pháp phát
triển
24

Nhóm…… | Giảng viên HD: ThS Hồ Văn Dũng
This part made by Nguyen Huu Tinh:



Bước đầu nhà nước cần điều chỉnh các nghò đònh, qui chế, hướng dẫn… về
chứng khoán và thò trường chứng khoán, bổ sung những khái niệm cơ bản về
chứng khoán phái sinh nói chung, quyền chọn nói riêng. Trong tương lai, có
thể soạn thảo và ban hành luật chứng khoán phái sinh và thò trường phái sinh
để chuẩn hóa hơn các nội dung đã được qui đònh trong luật chứng khoán. Trong
đó, cần đặc biệt chú trọng đến các khái niệm, qui đònh về quyền chọn và các
giao dòch quyền chọn. Cụ thể, đối với quyền chọn ngoại tệ và quyền chọn cổ
phiếu có thể thực hiện như sau:
(1) Đối với thò trường quyền chọn ngoại tệ
Đồng bộ hóa các văn bản pháp lý liên quan: Hiện nay, các văn bản
pháp lý quy đònh, chi phối các giao dòch quyền chọn không nhiều,
thiếu các văn bản hướng dẫn thực hiện từ NHNN cũng như các văn
bản pháp lý cấp cao nhằm chi phối, điều tiết, hướng dẫn thực hiện các
giao dòch quyền chọn ngoại tệ. Đó là một trong những lý do khiến các
nhà doanh nghiệp và nhà đầu tư không yên tâm khi tham gia vào thò
trường này. Vì vậy, cơ quan ban hành các chính sách nhà nước cần
ban hành những quy đònh pháp luật cụ thể cho việc sử dụng các công
cụ quyền chọn ngoại tệ, một nghiệp vụ mới, phức tạp rất cần có sự
hướng dẫn chi tiết từ phía NHNN trong thời gian tới.
Nới rộng các điều kiện giao dòch quyền chọn ngoại tệ: Cho phép cả
doanh nghiệp và cá nhân tham gia giao dòch quyền chọn ngoại tệ, đặc
biệt là quyền chọn giữa ngoại tệ và VNĐ. Mở rộng kỳ hạn giao dòch
và hạn mức doanh số giao dòch so với quy đònh thí điểm. Cho phép các
tổ chức tín dụng khác ngoài ngân hàng thực hiện giao dòch quyền chọn
ngoại tệ nhằm gia tăng số lượng các nhà cung cấp, nâng cao tính cạnh
tranh cho thò trường. Trong thời gian tới, khi thò trường đạt đến một
mức độ phát triển nhất đònh và VNĐ được tự do chuyển đổi thì NHNN
nên cho phép các doanh nghiệp tham gia vào giao dòch với tư cách vừa
là người mua vừa là người bán để góp phần thúc đẩy giao dòch quyền
chọn phát triển.

(2) Đối với quyền chọn cổ phiếu
Chương 2: Thực Trạng Thò trường quyền chọn và các giải pháp phát
triển
25

Nhóm…… | Giảng viên HD: ThS Hồ Văn Dũng
This part made by Nguyen Huu Tinh:


Hiện tại, UBCK có thể cho phép nhiều công ty chứng khoán hoặc các
NHTM hơn thí điểm nghiệp vụ quyền chọn cổ phiếu ngoài VCBS. Từ
đó, xem xét các thuận lợi, khó khăn, bất cập trong quá trình thí điểm
để ban hành các văn bản (nghò đònh, qui chế, thông tư, công văn )
hướng dẫn, điều tiết, quản lý thò trường hiệu quả hơn; tiến tới giai
đoạn ban hành các văn bản pháp luật cho việc áp dụng chính thức
nghiệp vụ này trên toàn thò trường chứng khoán.
2.6.2. Nới lỏng vai trò điều hành của Nhà Nước vào thò trường tài
chính
Hoạt động giao dòch phải thật sự có ý nghóa trong điều kiện tình hình biến
động của thò trường hoàn toàn khách quan. Các nhà đầu tư, doanh nghiệp,
những người kinh doanh chứng khoán, ngoại tệ,… dựa vào những phán đoán về
diễn biến của thò trường, họ sẽ lựa chọn các phái sinh, quyền chọn thích hợp
để thực hiện những mục tiêu cụ thể của mình là kinh doanh hay hạn chế rủi
ro.
Trong bối cảnh hội nhập ở nước ta hiện nay, theo lộ trình hội nhập mà nước
ta đã cam kết với tổ chức thương mại hế giới (WTO), nhà nước cần nới lỏng
dần chính sách can thiệp trực tiếp vào thò trường. Đối với thò trường ngoại
hối, nhà nước nên dần thực hiện chính sách tự do hóa tỉ giá bằng cách dần
dần nới rộng biên độ giao động của VNĐ với USD từ +/-1% lên +/-2%, và hiện
nay đã là +/-3%. Đến một thời điểm thích hợp, có thể xóa bỏ biện độ giao

động tỉ giá hướng đến tự do hóa chuyển đổi tiền đồng Việt Nam. Tương tự như
thế, đối với thò trường chứng khoán tập trung, biên độ giao động của chứng
khoán cũng cần được nâng dần theo mức độ phát triển của thò trường từ mức
+/-5% ở HOSE và +/-7% ở HASTC hiện nay. Điều này sẽ đảm bảo tỉ giá, giá cả
cổ phiếu phản ảnh đúng cung cầu trên thò trường. Khi đó, rủi ro đối với các
giao dòch ngoại hối, chứng khoán sẽ dần hiện rõ, gây ra những thiệt hại lớn
hơn, buộc các doanh nghiệp, cá nhân, nhà đầu tư phải quan tâm đến các hợp
đồng quyền chọn để bảo hiểm, giảm thiểu rủi ro cho chính mình.
Mặt khác, trên thò trường vốn chính sách tự do hóa bước đầu lãi suất tín
dụng mang lại những hiệu quả tích cực, lãi suất ngày càng mang tính khách
quan, phản ánh tương đối được thực trạng cung cầu vốn của thò trường. Với sự

×