Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

Quy định hạn ngạch và rào cản thuế quan cho sản phẩm gia công việt nam khi chúa nhận được sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.97 KB, 43 trang )

Lời mở đầu
Hoa kỳ là một thị trường lớn, đa dạng và phức tạp, sau 10 năm bình thường hoá
quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, thị trường này đã phát triển rất nhanh.
Chuyến thăm lịch sử của Thủ tướng Phan Văn Khải không chỉ điểm lại sự phát triển
quan hệ hợp tác trong 10 năm bình thường hoá quan hệ giữa hai nước mà mục đích
chính là tìm kiếm các giải pháp, xác định phương hướng để đưa quan hệ 2 nước
bước lên một tầm cao mới. Điều này được cụ thể hoá thông qua hàng loạt các cuộc
tiếp xúc cấp cao của Thủ tướng Phan Văn Khải với Tổng thống Bush, Thượng viện,
Hạ viện Hoa Kỳ, giới doanh nghiệp, giới truyền thông và các tầng lớp xã hội. Các
cuộc gặp cấp cao là để thế giới, nước Mỹ và người Mỹ hiểu đúng đắn hơn, về đất
nước Việt Nam, con người Việt Nam.
Thành công của chuyến thăm còn là sự xác nhận mối quan hệ giữa hai nước là đối
tác tin cậy - hợp tác về nhiều mặt - ổn định lâu dài trên nguyên tắc tôn trọng lẫn
nhau. Đây là tiền đề để hai nước thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ về nhiều mặt trong đó
có quan hệ thương mại. Quan hệ kinh tế thương mại hai nước sau 10 năm bình
thường hoá đã phát triển rất nhanh về nhiều lĩnh vực thể hiện sự nghiệp đổi mới
kinh tế của ta và hội nhập sâu sắc vào thương mại thế giới, góp phần thúc đẩy quá
trình đàm phán gia nhập W.T.O của Việt Nam. Để tạo điều kiện phát triển hơn nữa
một số mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, em xin đi sâu nghiên cứu đề
tài: "Thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ khi Việt Nam chưa
gia nhập W.T.O và còn áp dụng hạn ngạch (quota)".
Nội dung của đề tài được chia làm 3 chương:
Chương 1: Thị trường Hoa Kỳ và cơ hội xuất khẩu của Việt Nam
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ
Chương 3: Một số ý kiến đề xuất để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào thị
trường Hoa Kỳ.
Dệt may là mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn vào thị trường Hoa Kỳ, là mặt
hàng có nhiều tiềm năng nhưng đang bị cạnh tranh gay gắt. Em hy vọng rằng đề tài
sẽ góp phần quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ.
Chương 1: Thị trường hoa kỳ và cơ hội xuất khẩu của Việt Nam
1. Đánh giá thị trường Hoa Kỳ và phân tích tiềm năng rộng lớn của thị trường Hoa


Kỳ đối với sản phẩm chế tạo từ các nước đang phát triển nói chung và sản phẩm dệt
may Việt Nam nói riêng
Hoa Kỳ là một cường quốc hàng đầu thế giới cả về kinh tế, khoa học công nghệ, có
tài nguyên rất phong phú. Hiện nay với dân số khoảng trên 293 triệu người, trong
đó 75% sống ở thành thị, tổng sản phẩm quốc nội trên 10.000 tỷ USD, thu nhập
bình quân đầu người hàng năm là 36.000 USD hàng năm Hoa Kỳ nhập khẩu trên
1.300 tỷ USD, chiếm khoảng 1/5 tổng kim ngạch nhập khẩu trên toàn thế giới. Việc
thâm nhập thị trường Hoa Kỳ - một thị trường rộng lớn nhất thế giới với mức thu
nhập cao và nhu cầu tiêu dùng đa dạng về nhiều chủng loại hàng hoá với khối lượng
lớn - thị trường tiêu thụ hàng hoá của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng như bất cứ
quốc gia nào trên thế giới. Đúng như lời nhận xét về thị trường Hoa Kỳ, Đại Sứ -
Trưởng phái đoàn Việt Nam tại Liên Hợp Quốc đã nói: "…đây là thị trường không
đáy….". Khi nghiên cứu về thị trường này có thể khái quát những đặc điểm nổi bật
như sau:
Thứ nhất, tính mở cửa khá cao của thị trường:
Điều này được thể hiện ở chỗ quy chế xuất - nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ phù
hợp với những nguyên tắc cơ bản của tổ chức Thương mại thế giới (W.T.O). Hoa
Kỳ là nước nhập khẩu lớn các mặt hàng có hàm lượng lao động cao như dệt may,
giầy dép, đồ dùng gia đình…. , trong đó có những mặt hàng tiêu dùng thông thường
hầu như Hoa Kỳ không còn sản xuất nữa. Hoa Kỳ phải nhập các mặt hàng này từ
các nước Châu á, đặc biệt là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Các sản phẩm chế
tạo, có hàm lượng vốn và công nghệ cao được nhập từ Châu Âu và Nhật Bản. Ngoài
ra Hoa Kỳ cũng nhập khẩu hàng hoá từ rất nhiều nước ở các Châu lục khác. Điều
này cũng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể tìm thấy
chỗ đứng tại thị trường Hoa Kỳ.
Thứ hai, tính quy chuẩn và thống nhất cao độ của sản phẩm đưa vào thị trường Hoa
Kỳ.
Hàng hoá xuất khẩu vào Hoa Kỳ đòi hỏi thực hiện nghiêm túc và chặt chẽ, nhất là
đảm bảo các yêu cầu chất lượng một cách nghiêm ngặt và đồng bộ. Các nhà nhập
khẩu Hoa Kỳ luôn có ấn tượng và đòi hỏi có uy tín phải được đặt lên hàng đầu từ

khi bắt đầu có mối quan hệ hợp tác. Hàng hoá nhập khẩu vào Hoa Kỳ thường phải
có khối lượng lớn, đúng quy chuẩn, đảm bảo đúng thời hạn, và không phương hại
lợi ích kinh tế của các Công ty Hoa Kỳ. Từ đó cho thấy chỉ nên lựa chọn và tập
trung đầu tư vào một số mặt hàng và ngành hàng xuất khẩu chủ lực, không dàn trải.
(Ngay cả mặt hàng thủ công mỹ nghệ cũng cần đảm bảo tính thống nhất và có khối
lượng đủ lớn).
Thứ ba, tính pháp lý cao của các quan hệ thị trường.
Môi trường pháp lý của Hoa Kỳ là hết sức phức tạp, nhiều khi có sự khác biệt giữa
luật của Liên Bang, Bang và còn cả những quy định riêng biệt của chính quyền địa
phương. Hệ thống pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Hoa
Kỳ được thực thi khá tốt vì thế hàng hoá bán ra ở đây phải được bảo hành tốt và an
toàn trong thời gian cam kết để tạo uy tín và niềm tin. Do đó việc hiểu biết các vấn
đề pháp lý liên quan là điều kiện mấu chốt khi xâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ và
việc sử dụng các Công ty tư vấn nói chung trong đó có Công ty tư vấn Hoa Kỳ là
điều cần chú trọng.
Thứ tư, tính thống nhất, ổn định cao của hệ thống phân phối.
Hệ thống phân phối hàng hoá ở Hoa Kỳ phát triển ở trình độ cao, có tổ chức hoàn
chỉnh, nếu không dựa vào các hệ thống phân phối hiện có thì không thể đưa hàng
hoá vào thị trường này (không có buôn bán tiểu ngạch hoặc buôn bán đường biên
như có thể thấy trong một số trường hợp khác). Người dân Mỹ có thói quen mua
sắm tại các siêu thị hay cửa hàng lớn. Hệ thống phân phối này vừa là cơ hội, vừa là
thách thức lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi thâm nhập thị trường Hoa Kỳ.
Nếu chưa tham gia vào các kênh phân phối lớn thì không những không phát triển
được thị trường mà còn cản trở đến thị phần tiêu thụ và gặp những vướng mắc vào
hệ thống luật pháp của Mỹ. Muốn đi đúng kênh các doanh nghiệp Việt Nam cần
phải lựa chọn được nhà phân phối có uy tín và đảm bảo được số lượng và quy cách
hàng hoá đúng với thị hiếu và yêu cầu của khách hàng Mỹ.
Thứ năm, thị trường có sức cạnh tranh rất cao.
Hoa Kỳ là nước nhập khẩu lớn nhất thế giới, trên thị trường Hoa Kỳ có đầy đủ các
nhà cung cấp lớn nhỏ ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, vì thế mức độ cạnh tranh

là vô cùng gay gắt. Trong cuộc cạnh tranh này, giá cả và chất lượng là hai yếu tố cơ
bản, nhưng không thể không tính đến những yếu tố khác như bao bì, mẫu mã, xuất
xứ, nhãn hiệu sản phẩm…. Đối với doanh nghiệp Việt Nam thì đây là những vấn đề
còn mới mẻ. Theo các luật sư Mỹ, vụ kiện cá ba sa đối Việt Nam nặng về khía cạnh
chính trị và là điều khó tránh khỏi. Đây là bài học đắt giá cho các doanh nghiệp Việt
Nam và sẽ còn có nhiều vụ kiện khác có thể xảy ra nữa trong quá trình buôn bán
với thị trường Hoa Kỳ.
Thứ sáu, các hiệp hội kinh doanh có vai trò không nhỏ.
ở Hoa Kỳ có rất nhiều hiệp hội của các nhà kinh doanh, các hiệp hội này có vai trò
lớn trong việc hướng dẫn và phối hợp hoạt động của các doanh nghiệp với lợi ích
cộng đồng doanh nghiệp tại Hoa Kỳ, trong đó có doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều đó
cho thấy rằng việc thiết lập quan hệ với các hiệp hội kinh doanh ở Hoa Kỳ là con
đường hữu hiệu để tiếp cận và xâm nhập thị trường Hoa Kỳ, thúc đẩy hoạt động đầu
tư của các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam .
Thứ bảy, lực lượng người Việt Nam ở nước ngoài tại Hoa Kỳ có vai trò quan trọng
trong việc xúc tiến thương mại và đầu tư tại Hoa Kỳ.
Lực lượng người Việt tại Hoa Kỳ rất đông lên đến 1,3 triệu người có khả năng hòa
nhập với dân cư sở tại, nhưng tính cộng đồng chưa cao. Vai trò cầu nối của người
Việt là hết sức quan trọng nhưng trong thực tế còn cần được rèn luyện và thử thách.
Phong cách làm việc và phương thức hợp tác giữa họ với doanh nghiệp trong nước
còn nhiều điều phải được rút kinh nghiệm. Tiềm năng lực lượng sinh viên Việt Nam
đang du học tại Hoa Kỳ chưa được quan tâm đúng mức, tính cộng đồng Việt Nam
rất yếu nên khả năng thực hiện công tác xúc tiến và đầu tư bị hạn chế. Bởi vậy một
mặt phải thận trọng tránh vội vàng khi tiếp xúc với các doanh nghiệp Hoa Kỳ. Giai
đoạn đầu cần có sự môi giới của Việt kiều. Mặt khác phải tìm và lựa chọn được
khách hàng tin cậy, thu hút nhiều doanh nghiệp có uy tín vào kinh doanh và đầu tư
ở Việt Nam.
Thứ tám, chi phí dịch vụ trong cơ cấu giá thành sản phẩm chiếm tỷ trọng cao.
Hàng hoá đưa vào bán lẻ tại Hoa Kỳ khá cao bởi chi phí dịch vụ lớn làm hạn chế cơ
hội thâm nhập của các doanh nghiệp Việt Nam khi vào thị trường Hoa Kỳ.

Thứ chín, hệ thống tư vấn tại Hoa Kỳ giữ vai trò quan trọng đặc biệt là tư vấn pháp
luật.
Đây là đòi hỏi khách quan bởi đặc điểm của thị trường này, chi phí tư vấn tại Hoa
Kỳ rất cao. Các doanh nghiệp Việt Nam phải biết sử dụng tư vấn của các Công ty tư
vấn pháp luật Hoa Kỳ, mặt khác đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nhanh
chóng xây dựng được những Công ty tư vấn của Việt Nam có trình độ chuyên môn
ngang tầm quốc tế như các công ty Hoa Kỳ.
Việt Nam đang thực hiện một chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, thị
trường Hoa Kỳ có tầm quan trọng đặc biệt, là điểm đến của các sản phẩm chế tạo
xuất khẩu. Với việc dành cho Việt Nam quyền xuất khẩu sang Hoa Kỳ trên cơ sở
MFN, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã mở ra những cơ hội to lớn để
phát triển hàng xuất khẩu của Việt Nam. Để có thể tận dụng được cơ hội, biến khả
năng thành hiện thực, tức là có thể thực sự thâm nhập được vào thị trường rộng lớn,
phức tạp và xa xôi như Hoa Kỳ, Việt Nam cần hoạch định một chính sách tổng thể
với các giải pháp đồng bộ cả về phía Nhà nước và doanh nghiệp. Thực tế cho thấy
Hoa Kỳ không chỉ là thị trường xuất khẩu lớn nhất mà còn thông thoáng nhất thế
giới đối với sản phẩm chế tạo từ các nước đang phát triển. Nhập khẩu hàng hoá của
Hoa Kỳ từ Châu á là 422 tỷ USD (năm 2000), nhiều hơn 50% so với nhập khẩu EU
từ Châu á. Năm 2000, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đã tăng 128% so
với năm 2001, trong khi đó mức xuất khẩu cùng kỳ nói chung của Việt Nam ra thị
trường thế giới chỉ tăng 10%. Mức xuất khẩu các sản phẩm chế tạo trước đây đã bị
hạn chế bởi thuế suất cao của Hoa Kỳ trước Hiệp định Thương mại, đã tăng đặc biệt
nhanh với tốc độ 50% năm. Trong các sản phẩm chế tạo, sản phẩm xuất khẩu tăng
mạnh nhất là hàng may mặc, tăng tới 900 triệu USD trong năm 2002 (gấp 18 lần so
với kim ngạch xuất khẩu trong năm 2001). Năm 2002 cũng ghi nhận sự tăng lên
nhanh chóng của nhiều mặt hàng xuất khẩu khác như đồ điện (270%), đồ gỗ (50%),
hàng hoá du lịch (5422%) và các mặt hàng công nghiệp hỗn hợp khác 847% không
có gì đáng ngạc nhiên khi Hoa Kỳ là một thị trường xuất khẩu chủ yếu của các nước
đang phát triển đặc biệt là hàng công nghiệp chế tạo vì Hoa Kỳ chỉ đứng thứ hai sau
EU về quy mô (được xác định bằng GNP tổng thu nhập quốc gia). Tuy nhiên đối

với hàng xuất khẩu Châu á, Hoa Kỳ còn lớn hơn EU. Theo bảng 1 dưới đây, nhập
khẩu hàng hoá của Hoa Kỳ từ Châu á năm 2000 là 422 tỷ USD, nhiều hơn 50% so
với nhập khẩu EU từ Châu á
Phần lớn hàng nhập khẩu của Hoa Kỳ từ Châu á đều là hàng công nghiệp chế tạo,
tổng kim ngạch lên tới gần 400 tỷ USD trong năm 2000, nhiều hơn 60% về giá trị
so với kim ngạch nhập khẩu tương ứng của EU từ Châu á. Về các mặt hàng sử dụng
nhiều lao động (ví dụ như hàng may mặc và hàng công nghiệp chế tạo tiêu dùng các
loại), nhập khẩu của Hoa Kỳ từ Châu á cao hơn nhập khẩu của EU từ Châu á từ 70
đến 80%.
May mặc là một trong những mặt hàng chủ yếu mà các nước đang phát triển xuất
khẩu với khối lượng lớn, và đối với hầu hết các nước, Hoa Kỳ là thị trường chủ yếu
trước tiên. Với sức tiêu thụ khổng lồ, Hoa Kỳ luôn là thị trường hấp dẫn và quan
trọng của ngành may mặc các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Có thể nói rằng kinh tế Mỹ là nền kinh tế hàng đầu thế giới, đó là điều không thể
phủ nhận. Nó lớn gấp 2,5 lần so với nền kinh tế của Nhật Bản, 6 lần so với Đức và
8 lần so với Trung Quốc - Với thị trường tiêu thụ hàng hóa rất đa dạng và phong
phú - Hoa Kỳ đã trở thành "miền đất hứa" cho bất kỳ doanh nghiệp nào cũng như
bất kỳ quốc gia nào trên thế giới muốn xuất khẩu hàng hoá vào Hoa Kỳ. Hiện nay,
Việt Nam chúng ta cũng đã trở thành bạn hàng thương mại lớn thứ 44 của Hoa Kỳ
và là nước xuất khẩu lớn thứ 38 vào thị trường này, trong đó hàng dệt may xuất
khẩu tăng rất nhanh. Dệt may là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào thị
trường Hoa Kỳ năm 2004 đạt 2,7 tỉ USD chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam vào thị trường này và tăng 5,56% so với cùng kỳ năm trước. Mỹ là
thị trường tiêu thụ lớn cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam được thể hiện qua
bảng 4 dưới đây:
2. Những cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam khi
thâm nhập thị trường Hoa Kỳ.
a. Những cơ hội.
Nhìn chung, kết quả xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ là rất khả
quan và đã tác động tích cực đến phương thức sản xuất kinh doanh của các doanh

nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp dệt may, đã mở ra cho họ một tầm
nhìn mới, một hướng đi mới, không những phát huy các thị trường truyền thống
như Nhật Bản và EU mà còn hướng tới thị trường mới đầy tiềm năng như Hoa Kỳ
bởi các yếu tố sau:
Thứ nhất, Hoa Kỳ là một quốc gia đa sắc tộc, đa nền văn hóa, sự phân hóa giàu
nghèo khá rõ…. điều này tạo nên nhu cầu hết sức phong phú, nhất là nhu cầu hàng
tiêu dùng (dệt may, giày dép…) rất đa dạng và do đó hàng hoá của Việt Nam vẫn có
nhiều cơ hội chiếm lĩnh thị trường khổng lồ này, đặc biệt là hàng dệt may một mặt
hàng nhập khẩu với khối lượng lớn của Hoa Kỳ. Các đơn đặt hàng từ Hoa Kỳ có qui
mô lớn hơn nhiều so với các thị trường khác, kể cả Châu Âu và Nhật Bản, một phần
vì Hoa Kỳ có lượng dân số đông trên 293 triệu người, một phần là do đặc điểm và
tính cách của người Mỹ là "càng lớn càng tốt" khác hẳn với cung cách kinh doanh
của người Châu á thường ban đầu mới quan hệ buôn bán họ chỉ đặt đơn hàng với
khối lượng nhỏ sau đó nếu tốt thì mới đặt với số lượng lớn. Nói như thế không có
nghĩa là người Mỹ dễ dàng trong chuyện mua bán mà họ rất chặt chẽ và khắt khe
trong việc soạn thảo và ký kết hợp đồng. Vì thế khi làm ăn với các doanh nghiệp
Mỹ, cần phải xem xét các hợp đồng một cách cẩn thận. ở Mỹ, một hợp đồng được
ký kết bởi các bên liên quan sẽ có sức mạnh toàn năng, trong khi đó một thỏa thuận
miệng thì hầu như không có giá trị
Thứ hai, hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ (Bilateral
Trade agreement - BTA) được ký kết tháng 7/2000 đã góp phần tích cực thúc đẩy
xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ tăng nhanh. Chỉ qua hơn 1 năm
thực hiện BTA, thị trường Hoa Kỳ đã trở thành thị trường xuất khẩu số một của
Việt Nam . Hoa Kỳ đang nhập trên 22% hàng xuất khẩu của Việt Nam . Hoa Kỳ
vừa là thị trường xuất khẩu số 1 vừa là thị trường xuất siêu lớn nhất của Việt
Nam.Các ngành kinh tế Việt Nam đang tạo được đà phát triển mới như may mặc,
giày dép, thủy sản, đồ gỗ, hàng điện tử, thủ công mỹ nghệ… BTA vừa ràng buộc,
vừa làm cơ sở để Việt Nam bổ sung, điều chỉnh và hoàn thiện toàn bộ hệ thống luật
pháp của mình, làm cho hệ thống luật pháp Việt Nam đồng bộ, thống nhất, ổn định
và tương thích với hệ thống luật pháp quốc tế hiện đại tạo điều kiện thuận lợi cho

việc trao đổi buôn bán hàng hoá giữa hai nước nói riêng và quốc tế nói chung dễ
dàng hơn. Hơn thế nữa BTA sẽ tạo cho Việt Nam những bước đi trong hội nhập
quốc tế vững vàng, tự tin và hiệu quả hơn và khai thác tốt hơn khả năng của nền
kinh tế nhiều thành phần, nền kinh tế thị trường, giúp Việt Nam sớm gia nhập
W.T.O . Việc áp dụng qui chế MFN (Most Favoured Nation) trong hiệp định
thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường
Hoa Kỳ tăng lên nhanh chóng. Thuế nhập khẩu hàng hoá Việt Nam giảm bình quân
từ 40 - 70% xuống còn 3-7%, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đã tăng ngoạn
mục: từ 50 triệu USD năm 2001 lên 2,5 tỷ USD năm 2003 và 2004. Ưu đãi lớn nhất
của qui chế MFN là giảm và miễn thuế các sản phẩm từ những nước chưa được
hưởng qui chế MFN vào Hoa Kỳ chịu thuế xuất - nhập khẩu gần 6 đến 12 lần sản
phẩm xuất khẩu của các nước được hưởng qui chế này. Nhờ được hưởng quy chế
MFN nên nhiều nước và l•nh thổ đang phát triển ở Châu á đã thành công trên còn
đường phát triển kinh tế với tiến độ rất nhanh, điển hình là Singapore, Thái Lan,
Hàn Quốc, Đài Loan,… Việc dành được quy chế MFN trong hiệp định BTA đã
mở ra triển vọng cho Việt Nam được hưởng quy chế GSP (Generalized System of
Preferences) của Hoa Kỳ .Các nước được hưởng quy chế GSP của Hoa Kỳ sẽ được
phép xuất khẩu một số sản phẩm vào thị trường Hoa Kỳ với ưu đãi thuế quan bằng
O. Hiện có hơn 100 nước được hưởng quy chế GSP của Hoa Kỳ trong đó có Thái
Lan, Malaysia, Philipine, ấn Độ,… Và nếu Việt Nam được hưởng GSP thì hàng dệt
may Việt Nam sẽ có cơ hội để cạnh tranh với hàng dệt may của Trung Quốc, Hồng
Kông, Đài Loan…trên thị trường Hoa Kỳ.
Thứ ba, Hoa Kỳ hiện tại là một thị trường lớn cho ngành công nghiệp dệt may Việt
Nam, đây là triển vọng khá sáng sủa bởi vì nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may của
Hoa Kỳ rất lớn. Tổng giá trị nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ vào năm 2002 là
72.18 tỉ USD, vào năm 2003 là 77.43 tỉ USD… Hoa Kỳ là nước nhập khẩu hàng
hoá với khối lượng và quy mô lớn, quan điểm trong chính sách kinh tế của họ là
nhập siêu hàng hoá và xuất siêu dịch vụ. Do vậy, Việt Nam chúng ta cần phải tích
cực hơn nữa trong việc hoạch định các chiến lược để thâm nhập và mở rộng thị
trường này đặc biệt là các doanh nghiệp dệt may - dự định biến Hoa Kỳ thành thị

trường xuất khẩu chính trong tương lai.
b. Những thách thức đối với các doanh nghiệp dệt may khi thâm nhập thị trường
Hoa Kỳ.
* Các đối thủ cạnh tranh của Việt Nam rất lớn như: Trung Quốc, Hồng Kông, Đài
Loan, ấn Độ… đây là những quốc gia dẫn đầu về xuất khẩu hàng dệt may vào thị
trường Hoa Kỳ cũng như EU… kể từ ngày 1/1/2005, các nước Trung Quốc, ấn
Độ… được bãi bỏ hạn ngạch khi xuất khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ. Ngoài ra các
nước này còn được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập GSP (Generalized System of
Preferences) của Hoa Kỳ nên sức cạnh tranh hàng dệt may của họ rất lớn, mà điển
hình là Trung Quốc có số lượng hàng dệt may xuất khẩu vào Hoa Kỳ cũng như Eu
với một kỷ lục chưa bao giờ có kể từ khi Trung Quốc được gia nhập vào W.T.O
cách đây 3 năm. Hàng dệt may giá rẻ do Trung Quốc sản xuất đã và đang thống trị
thị trường quốc tế. Mức tăng trưởng mặt hàng này của Trung Quốc quá nhanh sau
1/1/2005. Các loại áo sơ mi cotton và quần tăng 1.250% trong quý I/2005, đặc biệt
là quần cotton tăng 1.500%, đồ lót tăng 300%. Khối lượng hàng dệt may giá rẻ do
Trung Quốc sản xuất đã và đang ồ ạt thâm nhập thị trường Mỹ và EU làm cho hàng
nghìn các doanh nghiệp, cũng như công nhân các nước này phải đóng cửa và nghỉ
việc. Theo hiệp hội quốc tế các nghiệp đoàn tự do (ICFTU), ngành dệt may thế giới
đang đứng trước nguy cơ mất 40 triệu việc làm sau khi chế độ hạn ngạch dệt may
dỡ bỏ báo cáo của ICFTU cho rằng, việc xoá bỏ hạn ngạch dệt may dẫn đến nhiều
nước chuyên xuất khẩu hàng dệt may theo hạn ngạch như: Bangladesh, Campuchia,
Philipine,Việt Nam, Nam Phi, Dominica, Goatemala và Morixơ… phải đối đầu với
cuộc cạnh tranh hàng dệt may của Trung Quốc và ấn Độ giá rẻ.
* Hạn ngạch (quota) có thể nói là vấn đề bức xúc nhất cho các doanh nghiệp dệt
may Việt Nam hiện nay. Xuất khẩu dệt may của Việt Nam đã bị hạn ngạch khống
chế ở mức 1,8 tỉ USD (tương đương với 400 triệu đơn vị sản phẩm). Sức cạnh tranh
thấp do bị áp đặt hạn ngạch đã làm giảm từ 5-7% thậm chí 10% khả năng xuất khẩu
so với các nước đã dỡ bỏ hạn ngạch. Tình trạng bị áp đặt hạn ngạch cũng làm cho
xuất khẩu mặt hàng dệt may giảm xuống rõ rệt: từ 1.824 triệu USD trong 10 tháng
đầu năm 2003 giảm xuống còn 1.563 triệu USD trong 10 tháng đầu năm 2004, giảm

15%. Như vậy, các nước Trung Quốc, ấn Độ, vừa không bị áp đặt hạn ngạch, lại
vừa được hưởng lượng ưu đãi thuế quan phổ cập trong khi Việt Nam đối với thị
trường Hoa Kỳ vẫn bị áp đặt hạn ngạch và việc điều hành hạn ngạch cũng còn nhiều
bất cập sẽ trở thành thách thức, khó khăn lớn cho hàng dệt may Việt Nam thâm
nhập vào thị trường Hoa Kỳ.
*Hàng hoá của Việt Nam vẫn bị phân biệt đối xử về thuế và các biện pháp phi thuế
quan như bị áp dụng các điều khoản tự vệ, chống bán phá giá mà Hoa Kỳ sẽ sử
dụng, đặc biệt là đối với hàng dệt may của Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ là một
rào cản lớn cho hàng dệt may Việt Nam thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ.
* Hàng dệt may Việt Nam cũng chưa phong phú về chủng loại, số lượng nhỏ chất
lượng thấp, giá thành cao, nên sức cạnh tranh và tiêu thụ không mạnh. Tỷ lệ gia
công qua nước thứ ba cao, nên lợi nhuận thấp và không phù hợp với tập quán kinh
doanh của Hoa Kỳ. Đây là khó khăn lớn nhất mà các doanh nghiệp Việt Nam đang
gặp phải, họ đã phải sử dụng mô hình CMT để thâm nhập thị trường Hoa Kỳ, trong
mô hình này, các Công ty Việt Nam nhận đơn đặt hàng từ các nước trung gian khác
như Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc đây là những nước sẽ thực hiện mọi công
việc tiếp thị và tài chính cung cấp thiết kế và nguyên liệu cho Công ty Việt Nam để
may thành thành phẩm và chuyển đi sang thị trường Hoa Kỳ. Bởi vậy, các doanh
nghiệp Việt Nam cần phải thay đổi chiến lược sản xuất kinh doanh của mình và
phải thu hút đầu tư trực tiếp của các Công ty Hoa Kỳ và nước ngoài để xây dựng
các cơ sở sản xuất hiện đại, quy mô lớn, giá thành hạ, chất lượng cao thì mới thu
được lợi nhuận cao và có khả năng cạnh tranh được với các quốc gia khác khi xuất
khẩu hàng vào Hoa Kỳ.
* Hiệp định đa sợi cũng là một rào cản cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam khi
thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ. Vì hiệp định đa sợi khuyến khích các nước xuất
khẩu sản phẩm dệt may có nguyên phụ liệu được sản xuất tại nước xuất khẩu, trong
đó nguyên - phụ liệu đang là vấn đề nan giải cho ngành dệt may Việt Nam, hiện tại
ngành may Việt Nam đang phải nhập khẩu từ 70 - 80% nguyên - phụ liệu từ nước
ngoài. Mặc dù trong những năm qua, chính phủ rất quan tâm đến phát triển diện tích
trồng bông, nhưng do khí hậu và thổ nhưỡng nước ta chưa phù hợp, nên diện tích và

sản lượng bông trong những năm qua, tuy có tăng nhưng không đáng kể. Đặc biệt,
vụ bông vừa qua, diện tích trồng bị thu hẹp, làm sản lượng giảm 20% so với những
vụ trước. Nguyên nhân là do người nông dân chuyển sang trồng cây khác, hạn hán
kéo dài đã làm nhiều vùng trồng bông mất trắng hàng nghìn hecta, không cho thu
hoạch. Còn phụ liệu trong nước cũng đã có một số nhà máy sản xuất nhưng không
đáng kể chỉ đáp ứng được khoảng 20 - 25% nhu cầu của ngành.
* Khó khăn nữa là trong việc chiếm lĩnh và giữ mặt hàng dệt may vào thị trường
Hoa Kỳ nếu Việt Nam chưa là thành viên của W.T.O cuối năm 2005 thì các nhà
nhập khẩu Hoa Kỳ sẽ rút đơn đặt hàng của họ cho các thành viên khác của W.T.O
* Năng lực quản lý, kỹ thuật sản xuất và đảm bảo xuất khẩu ổn định, việc thực hiện
liên doanh, hợp tác, liên kết trong sản xuất để giữ vững thị phần hàng may mặc còn
khó khăn.
3. Vai trò của công tác xúc tiến thương mại để thâm nhập thị trường Hoa Kỳ
Để thâm nhập thị trường rộng lớn này, công tác xúc tiến thương mại là rất quan
trọng và phải được quan tâm ở cấp Nhà nước và từng doanh nghiệp.
* Về phía Nhà nước cần xây dựng các chương trình xúc tiến xuất khẩu.
Nếu cả Nhà nước và doanh nghiệp có sự hợp tác chặt chẽ hơn nữa trong công tác
xúc tiến thương mại thì em nghĩ rằng để đưa sản phẩm dệt may cuả đất nước mình
vào Hoa Kỳ là không khó. Nhà nước đã giao cho Bộ thương mại xây dựng cụ thể
chương trình XK hàng dệt may vào Hoa Kỳ, đầu tư vốn cho công tác nghiên cứu
mẫu mốt của hàng may để XK vào Hoa Kỳ. Tạo điều kiện để các doanh nghiệp
khảo sát thị trường, tham gia hội chợ triển l•m, tổ chức tiếp xúc với các nhà phân
phối hàng dệt may Hoa Kỳ. Với những nỗ lực của Nhà nước, của doanh nghiệp
công tác xúc tiến thương mại sẽ góp phần nâng cao kim ngạch XK hàng dệt may
vào thị trường Hoa Kỳ.
Chương 2 Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ
1. Thực trạng của hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ khi Việt Nam
chưa gia nhập W.T.O và còn áp dụng quota.
Sau khi Mỹ bỏ cấm vận Việt Nam năm 1994, hai nước tiến hành bình thường hóa
quan hệ chính trị và ngoại giao nhưng về thương mại thì phải sau khi Hiệp định

thương mại Việt - Mỹ (BTA) có hiệu lực (ngày 10/12/2001) mới có thể nói là bình
thường hóa. Chỉ sau khi Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc của Hoa Kỳ thì
hàng hoá nói chung và hàng dệt may nói riêng của Việt Nam mới có khả năng tiếp
cận thị trường này ở quy mô lớn. Sau khi có tối huệ quốc ,từ 2002 đến 2003 xuất
khẩu dệt may của Việt Nam đã tăng nhanh chóng.
Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc khi đưa vào thị
trường Mỹ tính cạnh tranh về giá của sản phẩm Việt Nam được gia tăng đáng kể vì
thuế nhập khẩu sẽ giảm bình quân từ 40 - 70 xuống còn 3-7%
Theo hiệp hội dệt may Việt Nam, tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành 5 tháng
đầu năm 2003 đạt 1,3 tỷ USD, tăng 69,5% so với cùng kỳ 2002. trong đó riêng kim
ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt gần 730 triệu USD, dẫn đầu các thị trường. Tuy
tốc độ may của Việt Nam chưa ổn định và bền vững. Sang năm 2004 mặt hàng dệt
may bị hạn ngạch khống chế nên mức độ tăng trưởng của mặt hàng này đã bị giảm
đáng kể, qua bảng 5 ta càng thấy điều đó.
Cũng như theo Bộ thương mại, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may có quản lý
hạn ngạch vào thị trường Hoa Kỳ trong 6 tháng đầu năm 2005 mới đạt 700 triệu
USD, chỉ bằng 80% mức thực hiện của cùng kỳ năm ngoái.
Trong 700 triệu USD này, 2 mã hàng "nóng" có mức thực hiện lớn nhất là Cat.
338/339 (đạt trên 300 triệu USD) và Cat. 347/348 (đạt trên 189 triệu USD - Xem
bảng 6) .
Sự sút giảm này xuất phát từ nguyên nhân các nước thành viên tổ chức thương mại
thế giới (WTO) b•i bỏ quota cho nhau từ 1/1/2005, trong khi đó Việt Nam vẫn chưa
được hưởng chính sách này, Việt Nam vẫn chưa là thành viên của WTO mà năng
lực cạnh tranh của Việt Nam lại thấp và việc quản lý và sử dụng quota của Việt
Nam lại còn bất cập và kém hiệu quả.
Trước thực trạng khó khăn này, Bộ trưởng Bộ thương mại Trương Đình Tuyển mới
đây một lần nữa gửi thư cho các doanh nghiệp dệt may, đề xuất hai ý kiến, nhằm
nâng cao hiệu quả sử dụng quota:
Một là, cấp visa tự động cho các doanh nghiệp có năng lực sản xuất, có hợp đồng
xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu cho các nhà phân phối lớn đối với các Cat. thực

hiện còn thấp trong 5 tháng đầu năm.
Hai là, thu hồi quota của các doanh nghiệp mới thực hiện được dưới 35%, chuyển
cho các doanh nghiệp khác có khả năng xuất khẩu, và chỉ cấp lại khi những doanh
nghiệp này có nhu cầu xuất khẩu thực sự. Thư của Bộ trưởng Trương Đình Tuyển
ngay lập tức đã gây nên một phản ứng khá mạnh mẽ trong các doanh nghiệp dệt
may. Điều khiến các doanh nghiệp cảm thấy lo lắng là trong bối cảnh cạnh tranh thị
trường khốc liệt, mà quota lại hạn hẹp và khó khăn đến vậy, thì những phương án
mà Bộ trưởng đề xuất liệu có đem lại thuận lợi cho doanh nghiệp hay không? Sau
sự kiện Liên Bộ Thương mại - Công nghiệp cho phép các doanh nghiệp chuyển
nhượng quota hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ, đã xảy ra tình trạng một số
doanh nghiệp có quota nhưng chưa có nhu cầu xuất khẩu, thậm chí không xuất khẩu
được, đã giữ để bán lại cho các doanh nghiệp khác với giá cao, khiến cho thị trường
mua bán quota trở nên náo nhiệt và diễn biến theo chiều hướng xấu, không có lợi
cho hoạt động xuất khẩu của cộng đồng các doanh nghiệp dệt may. Chẳng hạn, các
Cat. "nóng" như quần nam, nữ chất liệu bông (Cat. 347/348 - bảng 6) lúc bình
thường chỉ ở mức 2,5 - 3,5 USD/Tá, nhưng vào thời gian này có doanh nghiệp đòi
chuyển nhượng với giá 8 - 10 USD/tá, hay như áo sơ mi dệt kim nam, nữ chất liệu
bông (Cat.338/339 - bảng 6) đang từ 4USD/tá nay tăng lên 10 USD/tá…. Việc một
số doanh nghiệp cố tình giữ quota nhằm mục đích chuyển nhượng với giá cao đã
khiến cho các doanh nghiệp có nhu cầu xuất khẩu, đặc biệt là những doanh nghiệp
đã ký được hợp đồng mà lại không còn quota, phải đi mua lại quota với giá cao so
với thực tế. Và hậu quả của việc này là chi phí sản xuất của các doanh nghiệp bị
tăng lên nhiều lần trong khi giá xuất khẩu đã được thỏa thuận trước trong hợp đồng,
nếu doanh nghiệp đòi tăng giá thì sẽ phải đối mặt với nguy cơ khách hàng bỏ đơn
hàng, còn nếu giữ nguyên giá cũ thì doanh nghiệp sẽ không còn lãi. Thực trạng hiện
nay, nơi cần quota để xuất khẩu thì không có mà nơi không xuất khẩu thì lại có
quota, chẳng hạn như Công ty TNHH May & Thương mại á Châu là doanh nghiệp
chuyên sản xuất các đơn hàng FOB (mua nguyên liệu bán thành phẩm) có mối quan
hệ làm ăn khá tốt với các khách hàng Calmex, Everyarn, các nhà phân phối lớn của
Hoa Kỳ như: The Children Place, K.Mart, Tagert, JC Penny - kim ngạch xuất khẩu

chiếm tỷ lệ hơn 70% doanh thu tại thị trường Mỹ, nay cũng đang lâm vào tình trạng
có khả năng xuất khẩu nhưng không có hạn ngạch, mặc dù chính phủ đã cho phép
chuyển nhượng hạn ngạch nhưng thực sự cũng đang rất lúng túng vì giá chuyển
nhượng quá cao và rất khó tìm nguồn. Công ty Global Source Net. Ltd là một trong
những nhà xuất khẩu hàng đầu ở Việt Nam về mặt hàng Cat. 435, chiếm 90% sản
phẩm đi Hoa Kỳ 10% sản phẩm đi EU cũng lâm vào tình trạng thiếu hạn ngạch,
không có hạn ngạch chuyển nhượng của Cat này.
Đáng lẽ ra, các doanh nghiệp có thể tự thương thảo để chuyển nhượng quota cho
nhau, nhưng do ý thức cộng đồng trong các doanh nghiệp còn kém nên dẫn đến tình
trạng trên. Trong 5 tháng đầu năm 2005, lượng quota mà toàn ngành dệt may thực
hiện được chỉ đạt ở mức thấp, khoảng trên 30%. Chính vì thế các chuyên gia dệt
may cho rằng, việc thu hồi lượng quota của các doanh nghiệp mới chỉ thực hiện
được dưới 35% theo đề xuất của Bộ trưởng Trương Đình Tuyển, trong điều kiện
quota vào Hoa Kỳ có hạn để tăng cường hiệu quả sử dụng quota, tránh tối đa tình
trạng ế, đọng quota, là một giải pháp hữu hiệu. Các chuyên gia cũng cho rằng cần
thiết phải xử lý kịp thời số quota chưa dùng đến của các doanh nghiệp này để giao
lại cho các doanh nghiệp có khả năng xuất khẩu.
Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển cũng đề nghị các doanh nghiệp dệt
may nên thành lập mô hình liên kết chuỗi, có như thế mới phát huy được hiệu quả
sản xuất và xuất khẩu của toàn ngành dệt may, và ông xin ý kiến các doanh nghiệp
về một số thay đổi trong điều hành hạn ngạch trong dệt may xuất khẩu đi Hoa Kỳ
trong đó có việc cấp phép XK tự động đối với một số chủng loại hàng (Cat). Tuy
nhiên, nửa tháng sau, chỉ có 47 thư phản hồi, 30 ý kiến ủng hộ và 10 ý kiến phản
đối. Các ý kiến phản đối cho rằng, cấp visa tự động sẽ dẫn đến khả năng doanh
nghiệp xuất khẩu qúa số lượng và có thể bị phá vỡ hợp đồng với khách hàng. Để
khắc phục tình trạng này, Bộ Thương mại đã có điều chỉnh nhất định và trước mắt
xử lý cho 2 chủng loại hàng dệt may (Cat). Trong thời kỳ cao điểm giao hàng.
Những xử lý này được thể hiện trong thông báo số 0716 TM - DM hướng dẫn thực
hiện hạn ngạch 2 Cat. 347/348 và 647/648 xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ năm
2005 của Bộ Thương mại, nhiều doanh nghiệp đã phản ứng gay gắt.

Một doanh nghiệp dệt may ở TP.HCM đề xuất: "Những doanh nghiệp nhỏ, ít xuất
hàng đi Hoa Kỳ thì rất hăng hái ngược lại những doanh nghiệp lớn thường xuyên
xuất hàng sang Hoa Kỳ lại không đồng tình. Việc chỉ có 47 đơn vị trên tổng số hơn
1.000 doanh nghiệp trả lời là quá ít, chưa phản ánh được điều gì, nếu Bộ Thương
mại căn cứ vào đó mà làm thì không thể chính xác".
Nhiều doanh nghiệp tỏ ra e ngại với việc cấp visa tự động. Giám đốc một xí nghiệp
may phân tích, theo thông báo trên, Liên Bộ Thương mại và Công nghiệp thực hiện
cấp visa tự động đối với 2 Cat. 347/348 và 647/648 chỉ từ ngày 1/7/2005 đến
31/8/2005. Như vậy, trong thời gian 2 tháng, doanh nghiệp phải đàm phán với
khách hàng, sau đó tiến hành sản xuất, rồi giao hàng thì không thể trở tay kịp.
Trước tình hình trên, hầu hết các doanh nghiệp kiến nghị chưa nên cấp visa tự động.
Ngoài ra việc thu hồi hạn ngạch của các doanh nghiệp mà 5 tháng qua mới thực
hiện được dưới 35% hạn ngạch, cũng gây nhiều tranh cãi. Bởi trong Thông tư liên
tịch quy định việc cấp và sử dụng hạn ngạch trong đó xác định rõ thời hạn thu hồi là
tháng 9/2005. Thời gian qua, cộng đồng doanh nghiệp đã áp dụng quy định trên để
đàm phán, ký kết hợp đồng với khách hàng. Nay Bộ Thương mại ra quyết định như
vậy, nhiều doanh nghiệp rất lo lắng.
Theo Hội dệt may Thêu đan TP.HCM việc phân bổ hạn ngạch tuy đã công khai,
nhưng hậu quả của các phân bổ cũ từ các năm trước vẫn còn ảnh hưởng, doanh
nghiệp chịu thiệt vẫn tiếp tục chịu thiệt. Tỷ lệ cung ứng quần ở 2 Cat. 347/348 và
647/648 của Việt Nam cho thị trường Hoa Kỳ là khá lớn. Nếu không cấp phép xuất
khẩu tự động sẽ xảy ra tình trạng khê đọng hạn ngạch, ảnh hưởng tới tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt may. Đúng như ý kiến của thứ trưởng Lê Danh Vĩnh về
sự cần thiết phải cho phép các doanh nghiệp chuyển nhượng hạn ngạch hàng dệt
may xuất khẩu sang Hoa Kỳ (trên báo Thương mại thứ 6-5-2005) rằng:
Sự cần thiết phải cho phép các doanh nghiệp chuyển nhượng hạn ngạch hàng dệt
may xuất phát từ đặc điểm của hàng dệt may được thể hiện ở một số vấn đề sau đây:
- Mặt hàng luôn thay đổi mẫu mã, thời trang, chủng loại, số lượng, nguyên phụ liệu,
tính thời vụ.
Thị trường dệt may bị khống chế bởi người mua chứ không phải người sản xuất,

xuất khẩu nên người mua có quyền yêu cầu phải đáp ứng nhiều điều kiện khác
nhau.
Việc phân hạn ngạch theo thành tích xuất khẩu năm trước là tiêu chí phân phối cơ
bản mà nhiều nước áp dụng (ở Việt Nam chúng ta có 84% tổng hạn ngạch được
phân phối theo thành tích). Trong khi đó, doanh nghiệp được phân hạn ngạch theo
thành tích năm trước, nhưng năm sau có thể do thay đổi mẫu mã, đơn hàng nên
không ký được hợp đồng, không xuất khẩu được, nếu không cho chuyển nhượng, số
hạn ngạch đó sẽ bị khê đọng.
Ta xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ năm 2005 trong bối cảnh vẫn
chịu hạn ngạch, trong khi các nước thành viên W.T.O đã được xuất khẩu tự do. Do
đó việc cho phép chuyển nhượng hạn ngạch sẽ tạo sự linh hoạt cho các thương nhân
để đáp ứng được yêu cầu của đơn hàng.
Nói chung, tính đến ngày 20/6/2005, xuất khẩu hàng dệt may vào các thị trường
mới chỉ đạt 1,7 tỉ USD, bằng 80% so với cùng kỳ năm ngoái và chỉ bằng 30,9% so
với kế hoạch. Với tốc độ xuất khẩu chậm như vậy thì mục tiêu xuất khẩu cả năm đạt
5 - 5,2 tỷ USD cho dệt may Việt Nam là rất khó khăn, đặc biệt là xuất khẩu vào thị
trường Hoa Kỳ. Cụ thể, chỉ có 3 nhóm cat. nóng xuất khẩu vào Hoa Kỳ so với 6
tháng cùng kỳ năm ngoái là có tăng nhưng không đáng kể. Đó là cat 340/640 tăng
4%, và 638/639 tăng 62%, 334/335 tăng 6%. Còn lại hầu hết các cat quan trọng
khác chiếm tỷ trọng xuất lớn thì lại giảm. Thí dụ như cat 338/339 chiếm 44% giá trị
xuất khẩu vào thị trường, Hoa Kỳ giảm 17% cat 347/348 chiếm 25% giá trị xuất
khẩu vào Hoa Kỳ giảm 25% so với cùng kỳ. Cat 647/648 chiếm 7% giá trị xuất vào
Hoa Kỳ giảm 20%. Như vậy chỉ tính 3 nhóm cat. "nóng" chiếm trên 70% giá trị kim
ngạch xuất khẩu vào Hoa Kỳ kể trên bị giảm kim ngạch ta thấy mức sút giảm của
hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ khá rõ rệt.
Những khó khăn về hạn ngạch từ đầu năm 2005 mặt bằng giá cao đang là trở ngại
khiến xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam khó tăng nhanh kim ngạch. Theo Bộ
Thương mại, hiện hầu hết các chủng loại hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu
sang thị trường Hoa Kỳ đều có giá cao hơn 5 - 7% thậm chí 10% so với các doanh
nghiệp dệt may của Trung Quốc, ấn Độ, Bangladesh và Indonesia. Cụ thể, đối với

Cat. 338/339, đơn giá trung bình thực hiện tại Việt Nam là 5,79 - 8,2 USD/m2 trong
khi ở Bangladesh chỉ 4,66 - 4,88 USD/m2, Trung Quốc khoảng 4,68-5,84
USD/m2và Indonesia 6,46-7,84 USD/m2. Trước thực tế này các chuyên gia thương
mại khuyến cáo các doanh nghiệp nên cân nhắc để giảm giá 5 - 10% nhằm thu hút
khách hàng hoặc phải đầu tư làm hàng chất lượng cao.
2. Phân tích những ưu, nhược điểm những mặt tồn tại của hàng dệt may Việt Nam
khi thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ.
* Những ưu điểm của hàng dệt may Việt Nam khi thâm nhập vào thị trường Hoa
Kỳ.
Hàng dệt may XK vào thị trường Hoa Kỳ có những ưu điểm nổi bật như sau:
- Về hình thức hàng dệt may có ý nghĩa rất quan trọng đối với người Mỹ. Là quốc
gia đa sắc tộc, người Mỹ dễ bị kích thích bởi thị giác, thích cách trình bày sinh
động, nhiều hình ảnh…. đặc biệt họ rất chú ý đến cách ăn mặc, cách trang phục…
Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nhạy bén nắm bắt được tâm lý này của người
Mỹ nên đã nhận thức được sự cần thiết phải xây dựng kế hoạch đầu tư, đổi mới
công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, kiểu dáng, mẫu mã và sử dụng nguồn
nhân lực…v v ,để đáp ứng nhu cầu của người Mỹ. Lấy Công ty May 10 là một điển
hình, với 10-15 triệu sản phẩm mỗi năm, hơn 6000 công nhân và 13 xí nghiệp thành
viên, May 10 hiện là một trong những doanh nghiệp lớn nhất của ngành may mặc
Việt Nam. May 10 đã xuất khẩu 80% trong tổng số doanh thu hơn 450 tỷ đồng của
mình và hơn 1/2 kim ngạch đạt được là từ việc xuất hàng sang Hoa Kỳ. Từ những
loại hàng chủ lực ban đầu là quần, sơ mi, Jacket…. với hình thức xuất hàng dạng
bán thành phẩm, số lượng ít và giá trị không cao đến nay May 10 đã chuyển sang
hàng veston cao cấp cung cấp cho thị trường Hoa Kỳ đảm bảo độ tin cậy cao đáp
ứng các vấn đề về năng lực, chất lượng nguyên phụ kiện và trách nhiệm xã hội…
Công ty May Việt Tiến là doanh nghiệp có quy mô hoạt động sản xuất, kinh doanh
lớn trong Tổng Công ty dệt may Việt Nam. Với đội ngũ cán bộ công nhân viên có
trình độ chuyên môn cao, năng động sáng tạo; một cơ sở vật chất và hệ thống máy
móc thiết bị kỹ thuật hiện đại; một hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế (ISO
9001 - 2000, SA 8000, Wrap), Việt Tiến luôn đáp ứng cho các thị trường mà đặc

biệt là thị trường Hoa Kỳ, những sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao, thỏa m•n
nhu cầu của mọi khách hàng. Việt Tiến xem thị trường Hoa Kỳ là mục tiêu quan
trọng trong chiến lược tiếp cận thị trường, vì đây là một thị trường lớn nhiều tiềm
năng hứa hẹn cho hoạt động xuất khẩu. Ngay từ đầu năm 2001, trong khi hiệp định
Thương mại Việt - Mỹ chưa được thực thi, thì Việt Tiến đã ký được hợp đồng đầu
tiên với tập đoàn Supreme International. Inc - một tập đoàn lớn của Hoa Kỳ với
200.000 sản phẩm sơ mi, với giá trị gần 1.000.000 USD. Việt Tiến cũng ý thức
được rằng Mỹ là một thị trường khó tính, nhiều rủi ro tiềm ẩn, nên ngay từ đầu năm
2000 Công ty đã có sự chuẩn bị về khả năng tài chính, mở rộng và nâng cấp nhà
xưởng, hệ thống kho tàng, đổi mới quy trình công nghệ, đầu tư máy móc thiết bị
chuyên dùng hiện đại, đầu tư nâng cấp công tác thiết kế, công tác may mẫu, nâng
cao tay nghề công nhân, đào tạo đội ngũ chuyên gia đàm phán giỏi ngoại ngữ, vi
tính và thông hiểu luật pháp thương mại Mỹ. Bên cạnh đó, Công ty đã chủ động tiếp
cận và khai thác thị trường nguyên phụ liệu đa dạng thuộc thế mạnh của các nước
trong khu vực, từng bước nâng tỷ trọng nội địa hóa sản phẩm xuất khẩu nhằm đáp
ứng yêu cầu về chất lượng sản phẩm và tiến độ giao hàng ngày càng nhanh của thị
trường Hoa Kỳ. Để chuẩn bị cho chiến lược đưa sản phẩm may mặc mang nhãn
hiệu Việt Tiến vào thị trường Hoa Kỳ, Công ty đã được cấp giấy chứng nhận ngày
27/5/2003. Trong quá trình kiên trì tiếp cận và khai thác thị trường Hoa Kỳ, Việt
Tiến đã vững vàng vượt qua hàng trăm cuộc đánh giá của những khách hàng lớn và
cả những khách hàng khó tính nhất, sản phẩm do Việt Tiến sản xuất ngày càng đáp
ứng được thị hiếu và nhu cầu của người tiêu dùng Hoa Kỳ. Những mặt hàng thế
mạnh của Việt Tiến đã có mặt tại thị trường Hoa Kỳ như: Sơ mi, quần kaki, quần
jeans, jacket, bộ thể thao, veston , hàng thun, váy… Trong năm (2001-2004) Việt
Tiến đã ký kết hợp đồng cung cấp hàng hóa với hơn 10 nhà nhập khẩu lớn của Hoa
Kỳ (Supreme, International Inc, Sears, American Eagle, Haggas Alfred Dunner, JC
Perny, Columbia Sportsears Nike, The Limited…. và chỉ trong vòng 4 năm (2001-
2004), thị trường Hoa Kỳ đã chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động kinh doanh xuất
nhập khẩu của Việt Tiến bên cạnh những thị trường khác (doanh số bình quân hàng
năm là 60.000.000 USD). Với những ưu thế này, chắc chắn hoạt động xuất khẩu

hàng may mặc của Việt Tiến trong những năm tới đối với thị trường Hoa Kỳ sẽ phát
triển bền vững.
- Hàng dệt may Việt Nam đã có kinh nghiệm XK sang các thị trường khó tính là EU
và Nhật Bản, Canada… các doanh nghiệp đa có kinh nghiệm trong tổ chức, điều
hành trong XK nên khi mở được thị trường Hoa Kỳ các doanh nghiệp không tỏ ra
bỡ ngỡ mà nhạy bén với khách hàng Hoa Kỳ.
- Lâu nay tuy chưa trực tiếp XK hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ song các
doanh nghiệp của ta đã may gia công cho Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông để họ
XK vào Hoa Kỳ. Do đó khi ta bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ, ta có quota
hàng dệt may Việt Nam XK vào thị trường đa dạng này không mấy khó khăn.
- Việt Nam có lực lượng Việt kiều tại Hoa Kỳ với số lượng lên đến 1,3 triệu người.
Tuy còn có những mặt hạn chế song đã huy động được sự ủng hộ của Việt kiều, họ
làm công tác tuyên truyền quảng bá, môi giới khách hàng như nhiều doanh nghiệp
Việt Nam có cơ sở để tiêu thụ hàng tại Hoa Kỳ.
* Những nhược điểm của hàng dệt may Việt Nam khi thâm nhập vào thị trường Hoa
Kỳ.
Nhìn chung, hàng dệt may Việt Nam vẫn còn nhiều mặt nhược điểm như sau: Giá
hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam vẫn còn ở mức cao (cao hơn 5-7% và thâm chí
10% so với các đối thủ Trung Quốc, ấn Độ, Bangladesh và Indonesia), chất lượng
thấp, số lượng nhỏ qui mô sản xuất và xuất khẩu chưa lớn, thời gian giao hàng còn
nhiều bất cập, chưa tự chủ được nguồn nguyên liệu vẫn còn phải nhập của nước
khác, chưa tự chủ được trong sản xuất kinh doanh, hình thức mua nguyên liệu bán
thành phẩm, may gia công là chủ yếu. Bất cập công nghiệp phụ trợ cho hàng dệt
may ảnh hưởng rất lớn, công nghiệp phụ trợ của hàng dệt may là rất yếu kém, năng
lực các nhà máy cơ khí chuyên ngành dệt may hiện tại quá nhỏ bé, chưa đáp ứng
được nhu cầu phát triển của các doanh nghiệp dệt may, đặc biệt là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
Nếu so sánh Tổng Công ty dệt may Việt Nam (Vinatex) với toàn ngành dệt may cả
nước, thì năng lực kéo sợi chiếm 67% (đạt 111.000 tấn/170.000 tấn) kim ngạch xuất
khẩu chiếm 24% (đạt trên 1 tỷ USD/4,3 tỷ USD); chế biến bông chiếm 85% (đạt

12.800 tấn/15.000 tấn). Điều này khẳng định Vinatex là đơn vị chủ đạo và là doanh

×