Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Đổi mới chính sách thương mại việt nam thời kỳ mở cửa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 85 trang )

MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 3
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI THƯƠNG MẠI 4
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI 4
1. Khái quát về thương mại 4
2. Khái quát về chính sách thương mại 5
II MỤC TIÊU VÀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI 6
1. Mục tiêu của chính sách thương mại 6
2. Vai trò của các chính sách thương mại 7
3. Yêu cầu đối với chính sách thương mại 8
III. NỘI DUNG CỦA MỘT SỐ CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 9
1. Chính sách thương nhân 9
2. Chính sách mặt hàng 12
3. Chính sách thị trường 14
4. Chính sách đầu tư phát triển thương mại 16
CHƯƠNG II: CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI NỘI ĐỊA Ở VIỆT NAM TRONG 20 NĂM
ĐỔI MỚI ĐỊA Ở VIỆT NAM TRONG 20 NĂM ĐỔI MỚI 19
19
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI NỘI ĐỊA 19
1.Vai trò của chính sách thương mại nội địa trong nền kinh tế quốc dân 19
2. Nội dung của một số chính sách thương mại nội địa của nước ta trong thời gian 20 năm
tiến hành công cuộc đổi mới nền kinh tế 20
II THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI NỘI ĐỊA CỦA VIỆT NAM TRONG 20
NĂM ĐỔI MỚI 27
1. Khái quát về thực trạng thương mại trong 20 năm đổi mới 27
2. Thực trạng chính sách thương mại nội địa của Việt nam trong 20 năm đổi mới 36
CHƯƠNG III: CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI 44
QUỐC TẾ 44
44
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT


NAM 44
1. Mục tiêu và nhiệm vụ của chính sách thương mại quốc tế 44
2. Nội dung cơ bản của chính sách thương mại quốc tế 45
II. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG 20
NĂM ĐỔI MỚI 47
1. Thực trạng thương mại quốc tế trong 20 năm đổi mới 47
2. Thực trạng chính sách thương mại quốc tế của Việt nam trong giai đoạn từ 1986 - 2006 60
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách thương mại 77
III. BIỆN PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA NƯỚC TA
TRONG THỜI GIAN TỚI 79
1. Đánh giá chung về chính sách thương mại của việt nam trong 20 năm đổi mới 79
2. Một số biện pháp nhằm hoàn thiện chính sách thương mại của việt nam trong thời gian tới
80
KẾT LUẬN 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
ĐỀ ÁN MÔN HỌC KINH TẾ THƯƠNG MẠI
NGUYỄN THỊ THUỶ, LỚP THƯƠNG MẠI 44A
2


ĐỀ ÁN MÔN HỌC KINH TẾ THƯƠNG MẠI
LỜI MỞ ĐẦU
Từ tháng 12/1986 Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện nền
kinh tế. So với công cuộc cải cách và chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch tập trung sang
kinh tế thị trường ở các quốc gia khác, đổi mới ở Việt Nam có những nét đặc thù
riêng. Đổi mới ở Việt Nam diễn ra từ cả hai chiều “từ dưới lờn” tức là các hợp tác
xã, doanh nghiệp và “từ trên xuống” tức là các quyết định của Đảng và Nhà nước.
Mối quan hệ hai chiều ấy đã làm cho công cuộc đổi mới ở Việt Nam diễn ra không
có sự xung đột giữa “phớa trờn” và “phớa dưới”. Cũng như không có cỏc “cỳ sốc”
quá mạnh được tạo ra bởi các chính sách và biện pháp điều chỉnh vĩ mô quá cứng

rắn và duy ý trí của bộ máy lãnh đạo “phớa trờn”.
Khác với các nước Đông Âu và Liờn Xụ trước đây, ở Việt Nam nhu cầu đổi
mới các chính sách kinh tế đã xuất phát từ các lĩnh vực kinh tế chứ không phải là
hệ quả của những biến động chính trị. Trước khi thực hiện chính sách mở cửa nền
kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế khép kín, quan hệ buôn bán chủ yếu với các
nước xã hội chủ nghĩa. Từ khi thực hiện chính sách đổi mới toàn diện Đảng và Nhà
nước đã thay đổi tư duy thực hiện mở cửa nền kinh tế theo hướng “Việt Nam muốn
làm bạn với tất cả các nước ”. Để thực hiện phương châm đổi mới đó trong 20
năm qua Đảng và Nhà nước đã ban hành và sửa đổi các chính sách kinh tế - xã hội
cho phù hợp với tình hình mới. Chính sách thương mại là một bộ phận của chính
sách kinh tế xã hội. Mục tiêu của các chính sách thương mại là điều chỉnh các hoạt
động thương mại theo hướng phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất
nước. Trong 20 năm qua chính sách thương mại đó cú những biến đổi gì? những
thành tựu đã đạt được và những điểm còn bất cập? Tôi hi vọng bài viết “Đổi mới
chính sách thương mại Việt Nam thời kỳ mở cửa” sẽ phần nào giải đáp được
những câu hỏi này.
NGUYỄN THỊ THUỶ, LỚP THƯƠNG MẠI 44A
3


ĐỀ ÁN MÔN HỌC KINH TẾ THƯƠNG MẠI
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH
THƯƠNG MẠI THƯƠNG MẠI
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI
1. Khái quát về thương mại
Theo nghĩa rộng; thương mại là toàn bộ các hoạt động kinh doanh trên thị
trường. Các hoạt động kinh doanh trên thị trường phần lớn là nhằm mục tiêu tìm
kiếm lợi nhuận của các chủ thể tham gia kinh doanh. Đặc biệt là trong cơ chế thị
trường thì mục đớch của các hoạt động kinh doanh càng rõ nét. Hoạt động thương
mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh

doanh. Bao gồm mua, bán hàng hoỏ,cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện, đại lý
thương mại, kí gửi, thuê, cho thuê, thuê mua, xây dựng, tư vấn kỹ thuật, ly xăng,
đầu tư, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, thăm dò, khai thác, vận chuyển hàng hoá,
hành khách bằng con đường hàng không, đường biển, đường bộ, đường sắt và các
hành vi thương mại khác theo quan điểm của pháp luật.
Theo nghĩa hẹp; thương mại là quá trình mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị
trường, là lĩnh vực lưu thông hàng hoá. Thương mại đóng vai trò trung gian giữa
sản xuất và tiêu dùng, cung cấp đầu tư cho sản xuất, tiêu thụ đầu ra cho sản xuất và
cung cấp hàng hoá để phục vụ nhu cầu tiêu dùng của con người.
Mục tiêu của phát triển thương mại nước ta là nâng cao năng lực và chất
lượng hoạt động để mở rộng giao lưu hàng hoỏ trờn tất cả cỏc vùng, đẩy mạnh xuất
khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Thông
qua việc tổ chức tốt thị trường và lưu thông hàng hoá làm cho thương mại thực sự
là đòn bẩy sản xuất, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân công lao động xã
hội, ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát, thực hiện phân phối và phân phối lại thu
nhập quốc dân một cách hợp lý, tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước, cải thiện đời
sống nhân dân.
NGUYỄN THỊ THUỶ, LỚP THƯƠNG MẠI 44A
4


ĐỀ ÁN MÔN HỌC KINH TẾ THƯƠNG MẠI
2. Khái quát về chính sách thương mại
Để đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội nói chung và các mục tiêu phát triển
kinh tế nói riêng ngoài sự cố gắng của tất cả các thành phần kinh tế, nhà nước phải
có sự can thiệp bằng các công cụ chính sách, bằng luật pháp. Trong lĩnh vực
thương mại thì nhà nước sử dụng các chính sách thương mại để điều tiết hoạt động
thương mại. Vậy chính sách là gì? Chính sách thương mại là gì?
Chính sách là các quy định, công cụ và biện pháp mà nhà nước sử dụng để
quản lý nền kinh tế - xã hội, quản lý các hoạt động diễn ra hàng ngày. Nhằm đạt

được các mục tiêu mà nhà nước đã đề ra.
Trong nền kinh tế thị trường, chính sách thường được coi là phương cách,
đường lối hoặc tiến trình dẫn dắt hành động trong khi phân bổ sử dụng các nguồn
lực của doanh nghiệp, của nhà nước, của tất cả các thành phần kinh tế và của nền
kinh tế quốc dân. Nó được coi như là phương tiện để đạt được các mục tiêu. Chính
sách bao gồm những hướng dẫn, các quy tắc, quy định và thủ tục được thiết lập để
hậu thuẫn cho các nỗ lực hành động.
Như vậy, chính sách thương mại là hệ thống các quy định, công cụ và biện
pháp thích hợp mà nhà nước áp dụng để điều chỉnh các hoạt động thương mại trong
và ngoài nước ở những thời kì nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra trong
chiến lược phát triển kinh tế thương mại.
Các quy định chủ yếu của chính sách thương mại như: vấn đề thương nhân
và hoạt động của thương nhân, chính sách phát triển kinh tế thương mại nội địa và
quốc tế, quyền và nghĩa vụ của các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực
thương mại, tổ chức lưu thông hàng hoá, phát triển thương mại cỏc vựng khú khăn,
chính sách thuế quan và bảo hộ, chính sách phi thuế quan, trách nhiệm và quyền
hạn của các doanh nghiệp thương mại khi kinh doanh thương mại trong nước hay
với nước ngoài, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thương mại. Chính sách thương mại
liên quan chặt chẽ đến các chính sách công nghiệp chính sách đầu tư, chính sách tài
chính tiền tệ và nói chung được quy định bởi đường lối phát triển của mỗi quốc gia.
NGUYỄN THỊ THUỶ, LỚP THƯƠNG MẠI 44A
5


ĐỀ ÁN MÔN HỌC KINH TẾ THƯƠNG MẠI
Kinh nghiệm của các nền kinh tế phát triển năng động đã chỉ ra rằng, ở mỗi
giai đoạn phát triển kinh tế, chính sách thương mại đã được sử dụng như một công
cụ nhằm phân bổ tối ưu các nguồn lực giữa các quốc gia cũng như trong mỗi quốc
gia. Đối với Việt Nam sự tiến triển của chính sách thương mại gắn liền với quá
trình đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường và tìm

kiếm con đường công nghiệp hoá đất nước. Do vậy tính chất không nhất quán và
đôi khi là mâu thuẫn trong chính sách thương mại và giữa chính sách với sự áp
dụng nó trong thực tế là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, những tiến triển của chính sách
cũng cho thấy một xu hướng cơ bản là Việt Nam đang vững bước trên con đường
chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
II MỤC TIÊU VÀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI
1. Mục tiêu của chính sách thương mại
Nhà nước tác động vào nền kinh tế thông qua cơ chế kinh tế chứ không thể
tác động trực tiếp vào nền kinh tế. Dự tác động trực tiếp hay gián tiếp, có phương
thức đúng hay sai thì mỗi tác động của nhà nước đều nhanh, chậm, ít, nhiều làm
thay đổi trạng thái nền kinh tế. Trong khi hoạch định các chương trình phát triển
kinh tế hay hoạch định các chính sách thỡ cỏc Chính phủ căn cứ vào nền kinh tế-xã
hội và tiềm năng vật chất, khoa học - công nghệ của nước mình mà ra các mục tiêu
cụ thể.
Vậy khi hoạch định các chính sách thương mại Chính phủ căn cứ vào thực
trạng thương mại của nước ta trong những năm trước đó, năm hiện tại và định
hướng phát triển thương mại trong những năm tiếp theo. Nhiệm vụ của chính sách
thương mại có thể thay đổi qua mỗi thời kỳ nhưng đều nhằm đạt được một số mục
tiêu chủ yếu sau:
Thứ nhất; quản lý, phân phối và sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn
lực của sản xuất kinh doanh, của doanh nghiệp, của toàn nền kinh tế quốc dân. Mọi
nguồn lực của các quốc gia đều khan hiếm và có hạn. Mỗi quốc gia muốn phát triển
NGUYỄN THỊ THUỶ, LỚP THƯƠNG MẠI 44A
6


ĐỀ ÁN MÔN HỌC KINH TẾ THƯƠNG MẠI
đất nước đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội thì cần phải lờn cỏc kế hoạch
và xây dựng cỏc cân đối giữa nguồn lực và mục tiêu cần thoả mãn. Để đạt được các
mục tiêu trên thì phải cú cỏc chính sách thương mại.

Thứ hai; Giải quyết tất cả các mối quan hệ kinh tế trong thương mại, quan
hệ giữa các ngành, hay nội bộ trong nền kinh tế quốc dân, quan hệ giữa các chủ thể
tham gia kinh doanh nhằm thúc đẩy nhanh quá trình lưu thông hàng hoá, phát triển
kinh tế.
Thứ ba; thực hiện tốt các mục tiêu của phát triển kinh tế, phát triển thương
mại trong nước và quốc tế, phát huy lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế,
phát triển đồng đều các thành phần kinh tế trong nước như nông thôn với thành thị,
miền núi và trung du, phát triển thương mại cỏc vựng kinh tế khó khăn và đặc biệt
khó khăn.
2. Vai trò của các chính sách thương mại
Trong bối cảnh tình hình kinh tế các nước tăng trưởng nhanh và ổn định. Việt
Nam đang trên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa phát triển nền kinh tế thị
trường nhiều thành phần từ một nền kinh tế lạc hậu, nền kinh tế dựa vào nông
nghiệp là chủ yếu. Mục tiêu của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đặt ra là phấn
đấu đến năm 2010 đưa nước ta ra khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu. Để đạt được
các mục tiêu đó thì hệ thống chính sách thương mại có vai trò hết sức quan trọng
đó là:
Thứ nhất: chính sách thương mại có tác dụng rất lớn đến việc mở rộng giao
lưu hàng hoá trong nước và xuất khẩu. Chính phủ đã có nhiều thay đổi mới nhằm
tạo điều kiện cho việc xuất khẩu và nhập khẩu được dễ dàng hơn, đặc biệt là việc
gia nhập các tổ chức thương mại như: ASEAN, chuẩn bị cho việc gia nhập WTO.
Gia nhập các tổ chức thương mại khu vực và quốc tế giúp cho hoạt động xuất nhập
khẩu được thuận tiện hơn. Đõy cũng là những tiến bộ và thay đổi lớn trong chính
sách thương mại ở nước ta.
NGUYỄN THỊ THUỶ, LỚP THƯƠNG MẠI 44A
7


ĐỀ ÁN MÔN HỌC KINH TẾ THƯƠNG MẠI
Thứ hai: chính sách thương mại có thể tạo ra nhu cầu cạnh tranh giữa các

ngành công nghiệp sản xuất hàng thay thế và hàng nhập khẩu cho thị trường trong
nước. Để cạnh tranh được với những hàng nhập khẩu cả về giá cả và chất lượng thì
buộc các doanh nghiệp trong nước phải thay đổi kỹ thuật công nghệ sản xuất, tìm
mọi cách để giảm chi phí, tăng năng suất nâng cao chất lượng sản phẩm.
Thứ ba: chính sách thương mại được coi là một trong các yếu tố cấu thành
của một chiến lược tổng hợp nhằm khuyến khích xuất khẩu và phát triển công
nghiệp. Chính sách thương mại khuyến khích phát triển các ngành sản xuất hàng
thay thế nhập khẩu, khuyến khích sản xuất các sản phẩm cú trình độ kỹ thuật công
nghệ cao, khuyến khích việc tiếp nhận công nghệ mới. Các chính sách thương mại
cùng với các chính sách khác của Chính phủ góp phần tạo môi trường vĩ mô, có
cạnh tranh lành mạnh, cùng phát triển, nâng cấp các cơ sở hạ tầng, lực lượng lao
động có học vấn và được đào tạo ở trình độ cao, hệ thống tài chính nhạy bén.
Vậy các chính sách thương mại của Việt Nam nói riêng và các nước khác nói
chung đều có vai trò chung là phát triển thương mại trong nước và quốc tế, nâng
cao trình độ phân công lao động, tạo nên đội ngũ nguồn lao động có chất lượng
cao, nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm trong nước với các sản phẩm nhập
khẩu.
3. Yêu cầu đối với chính sách thương mại
Để thực hiện được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phát triển thương mại
của đất nước thì chính sách thương mại Việt Nam phải đáp ứng được những yêu
cầu sau:
Một là: các chính sách thương mại phải có tác dụng thúc đẩy, phát huy được
các nguồn lực đầu tư trong nước và nước ngoài vào phát triển thương mại nội địa
và thương mại quốc tế, không được kiềm chế hoạt động kinh doanh thương mại.
Hai là: tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có giá thành và giá cả ngang với
giá thế giới để cho việc xuất khẩu được dễ dàng và cạnh tranh tốt hơn.
NGUYỄN THỊ THUỶ, LỚP THƯƠNG MẠI 44A
8



ĐỀ ÁN MÔN HỌC KINH TẾ THƯƠNG MẠI
Ba là: Nhà nước chỉ can thiệp bằng thuế đến hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp giành quyền tự chủ, tự quyết về kinh doanh cho các doanh nghiệp.
III. NỘI DUNG CỦA MỘT SỐ CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
Chính sách thương mại của nước ta quy định cụ thể về các hành vi thương
mại, quyền và nghĩa vụ của các đối tượng tham gia như: quyền hạn và nghĩa vụ của
các cơ quan quản lý nhà nước về thương mại: Bộ thương mại, Sở thương mại…
quyền và nghĩa vụ của các thương nhân, chính sách mặt hàng, chính sách sản
phẩm, chính sách phát triển thị trường trong nước và thế giới… dưới đõy chỉ xem
xét một số chính sách thương mại chủ yếu như: chính sách thương nhân, chính sách
thị trường, chính sách sản phẩm, chính sách đầu tư phát triển thương mại.
1. Chính sách thương nhân
Trước năm 1986 nước ta còn duy trì cơ chế quản lý kinh tế tập trung bao cấp.
Tức là chỉ có Nhà nước tham gia làm kinh tế. Sau đại hội VI - 1986 Đảng và Nhà
nước đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường. Từ
đó nhà nước cho phép mọi công dân đều có quyền tham gia kinh doanh theo quy
định của pháp luật. Vì thế chính sách thương mại là chính sách rất quan trọng của
nhà nước ta trong lĩnh vực thương mại. Chính sách này quy định các điều kiện, thủ
tục điều kiện kinh doanh và phạm vi hoạt động của thương nhân, một số quy định
chủ yếu như: Điều 9 Luật doanh nghiệp 12/6/1999 quy định:
Thứ nhất là; các điều kiện về tư cách pháp lý của người thành lập doanh
nghiệp, hay tham gia kinh doanh: mọi công dân từ 18 tuổi trở lên có đủ năng lực
hành vi pháp lý và năng lực hành vi dân sự, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có
đủ điều kiện để kinh doanh thương mại đều có quyền thành lập doanh nghiệp hoặc
góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi nhuận trừ các trường hợp mà pháp luật không
cấm. Những trường hợp sau bị cấm thành lập doanh nghiệp như: cán bộ, công chức
Nhà nước, quân nhân, sĩ quan, các lực lượng vũ trang
NGUYỄN THỊ THUỶ, LỚP THƯƠNG MẠI 44A
9



ĐỀ ÁN MÔN HỌC KINH TẾ THƯƠNG MẠI
Thứ hai là; các điều kiện về ngành nghề kinh doanh. Chỉ được kinh doanh
những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Nếu đăng ký kinh doanh những ngành
nghề kinh doanh có điều kiện thì chủ doanh nghiệp phải đáp ứng đầy đủ các điều
kiện để kinh doanh các ngành nghề đó theo quy định của pháp luật. Với những
ngành nghề phải có vốn pháp định, giấy phép hoặc chứng chỉ hành nghề thì những
người tham gia kinh doanh phải có đầy đủ các loại giấy tờ đó.
Các cá nhân, tổ chức, hộ gia đình có đủ các điều kiện trờn thỡ sẽ được cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và trở
thành thương nhân. Chính sách này đã khuyến khích, thu hút đông đảo các cá nhân,
tổ hợp tác, hộ gia đình tham gia kinh doanh, hoạt động thương mại, góp phần vào
sự phát triển kinh tế của đất nước, làm cho đất nước ngày càng phồn thịnh, phát
triển đa dạng các ngành nghề.
Bên cạnh việc quy định các điều kiện đối với chủ thể tham gia kinh doanh
còn quy định việc đăng ký kinh doanh được thực hiện tại cơ quan quản lý Nhà
nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Các cơ quan có thẩm quyền đăng
ký kinh doanh bao gồm: phòng đăng ký kinh doanh trong Sở kế hoạch và Đầu tư và
phòng đăng ký kinh doanh thuộc Uỷ ban nhân dân huyện. Cỏc phòng đăng ký kinh
doanh này đều có con dấu riêng. Khi các cá nhân, tổ chức muốn thành lập doanh
nghiệp thì phải đến các cơ quan đăng ký kinh doanh nơi đạt trụ sở doanh nghiệp để
đăng ký kinh doanh. Phải trình đầy đủ các loại hồ sơ và giấy tờ theo quy định thành
lập doanh nghiệp đối với từng loại hình doanh nghiệp. Cơ quan đăng ký kinh doanh
có những quyền và nghĩa vụ sau:
+) Khi chủ thể tham gia kinh doanh đã trình bày đầy đủ các giấy tờ cần thiết
cho việc đăng ký kinh doanh để thành lập doanh nghiệp thì chậm nhất là sau 15
ngày phải trả lời và cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật. Nếu từ chối thì phải trình bày bằng văn bản.
NGUYỄN THỊ THUỶ, LỚP THƯƠNG MẠI 44A
10



ĐỀ ÁN MÔN HỌC KINH TẾ THƯƠNG MẠI
+) Phải xây dựng, nắm bắt kịp thời hệ thống thông tin về doanh nghiệp, về
thị trường, cung cấp các thông tin đó cho các cơ quan Nhà nước, cho tổ chức, cá
nhân có yêu cầu theo quy định của pháp luật.
+) Yêu cầu các doanh nghiệp báo cáo về tình hình kinh doanh của mình khi
thấy cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Đôn đốc
các doanh nghiệp thực hiện báo cáo về tình hình kinh doanh.
+) Khi cần thiết thì trực tiếp kiểm tra hoặc đề nghị cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền kiểm tra doanh nghiệp theo những nội dung trong hồ sơ đăng ký kinh
doanh.
+) Khi kiểm tra thấy vi phạm các điều khoản đã đăng ký kinh doanh các cơ
quan này có quyền sử lý theo pháp luật. Nếu nghiêm trọng có thể phải thu hồi giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh và yêu cầu doanh nghiệp giải thể theo quy định.
Các thương nhân khi tham gia kinh doanh đều có quyền tự do lựa chọn
ngành nghề kinh doanh, tự do lưu thông hàng hoá, tự do liên doanh, liên kết, tự do
sở hữu, quản lý và sử dụng các nguồn lực, tuyển chọn và thuê mướn lao động…
trong khuôn khổ của pháp luật.
Bên cạnh những quyền đó thì thương nhân cũng phải thực hiện những nghĩa
vụ sau:
+) Kinh doanh đúng ngành nghề đã đăng ký kinh doanh
+) Phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với Nhà nước.
+) Có trách nhiệm bảo vệ môi trường, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội.
+) Phải thành lập đầy đủ các quỹ mà Nhà nước yêu cầu.
+) Phải hạch toán kinh doanh thực hiện đầy đủ và trung thành chế độ kế
toán.
Đối với thương nhân nước ngoài hoạt động tại Việt nam phải theo đúng pháp
luật Việt nam đã quy định.

NGUYỄN THỊ THUỶ, LỚP THƯƠNG MẠI 44A
11


ĐỀ ÁN MÔN HỌC KINH TẾ THƯƠNG MẠI
Thương nhân nước ngoài có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật Việt
nam được phép đầu tư theo các hình thức sau: hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp
đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài. Ngoài ra gần đõy Luật đầu tư nước ngoài bổ sung ba hình thức đầu tư sau:
hợp đồng xây dựng kinh doanh (BOT), hợp đồng xây dựng chuyển giao kinh doanh
(BTO), hợp đồng xây dựng chuyển giao (BT).
2. Chính sách mặt hàng
Một trong những nội dung quan trọng của chính sách thương mại là việc
xác định cơ cấu các mặt hàng để đầu tư và sản xuất cho hợp lý, phát huy nội lực.
Chính sách mặt hàng phải xác định được mặt hàng cần thiết cho nhu cầu tiêu dùng
trong nước và các mặt hàng xuất khẩu. Trong lịch sử đã có những bằng chứng về
sự thành công hay thất bại của một chiến lược phát triển kinh tế gắn liền với chiến
lược mặt hàng. Việc xác định đúng cơ cấu mặt hàng của một quốc gia còn cho các
doanh nghiệp định hướng chiến lược sản phẩm của mình, sản xuất những sản phẩm
đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước và quốc tế. Tuỳ thuộc vào tình hình cụ
thể mà chính sách mặt hàng thay đổi cho phù hợp. Chính sách mặt hàng có một số
nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất là; chính sách mặt hàng cấp quốc gia. Đõy là những mặt hàng
quan trọng đảm bảo nhu cầu của đông đảo quần chúng nhân dân, có liên quan đến
cỏc cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân. Các mặt hàng này do nhà nước tập trung
quản lý. Đó là những hàng tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng có ý nghĩa quyết định
đến an ninh quốc gia.
Trong giai đoạn đổi mới hiện nay thì chính sách mặt hàng xác định là ưu
tiên, khuyến khích sản xuất các mặt hàng xuất khẩu mà Việt nam có thế mạnh, tăng
cường sản xuất các mặt hàng xuất khẩu nước ta có thế mạnh trong cạnh tranh xuất

khẩu như: thuỷ sản, cà phê, gạo… Giảm tỷ lệ các mặt hàng nhập khẩu thuộc nhóm
hàng hoá đã qua chế biến. Trong giai đoạn 1986 - 2000 hàng hoá xuất nhập khẩu
của Việt nam đã có sự thay đổi rõ rệt:
NGUYỄN THỊ THUỶ, LỚP THƯƠNG MẠI 44A
12


ĐỀ ÁN MÔN HỌC KINH TẾ THƯƠNG MẠI
Bảng 1: Kim ngạch mặt hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam theo tiêu chuẩn
ngoại thương từ 1986 - 2000. ngoại thương từ 1986 -
2000.
Đơn vị tính: Triệu USD
Năm Hàng thô và sơ chế Hàng chế biến và hàng
đã tinh chế
Hàng hoá thuộc các
nhóm khác
Xuất khẩu Nhập khẩu Xuất khẩu Nhập khẩu Xuất khẩu Nhập khẩu
1986 550,7 668,5 229,7 1462,2 8,6 24,4
1987 600,7 754,9 244,4 1673,8 9,1 26,5
1988 727,7 1014,1 299,5 1715,8 11,1 26,8
1989 1369,1 885,5 558,1 1657,0 18,8 23,3
1990 1680,9 858,5 700,9 1870,7 22,3 23,2
1991 1720,2 800,3 366,3 1515,5 0,6 22,2
1992 2168,0 867,9 412,4 1643,7 0,3 29,3
1993 2339,9 929.3 642,5 2993,5 2,8 1,2
1994 2905,9 1183,8 1144,7 4641,5 3,7 0,6
1995 3664,1 1914,5 1784,8 6240,9 - -
1996 4537,7 2145,6 2710,5 8973,1 7,7 24,9
1997 4780,9 2136,5 4401,3 9428,6 2,8 27,3
1998 5006,4 1982,8 4350,1 9512,0 3,7 4,8

1999 5996,2 2264,5 5540,6 9470,5 4,6 7,0
2000 8078,9 3527,6 6397,6 12101,2 6,3 7,7
Nguồn: Các số liệu thống kê của Việt nam thế kỷ XX
Theo số liệu ở bảng 1 thì trong thời kỳ 1986 - 1994 thì xuất khẩu của Việt
nam chủ yếu là sản phẩm thô và sơ chế. Đây là những sản phẩm có giá trị công
nghệ và chất xám thấp nên không mang lại giá trị xuất khẩu cao. Ngược lại trong
giai đoạn này chúng ta lại nhập khẩu chủ yếu là các sản phẩm có trình độ công
nghệ và chất xám cao. Nhưng trong giai đoạn 1994 - 2000 thì tỷ trọng hàng hoá
xuất nhập khẩu đó cú sự thay đổi rõ rệt, xuất khẩu hàng hoá chế biến và hàng hoá
đã tinh chế tăng nhanh nhưng nhập khẩu các loại hàng hoá này cũng vẫn còn chiếm
một tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam
trong giai đoạn này.
NGUYỄN THỊ THUỶ, LỚP THƯƠNG MẠI 44A
13


ĐỀ ÁN MÔN HỌC KINH TẾ THƯƠNG MẠI
Vậy chính sách mặt hàng quốc gia phải đảm bảo được cơ cấu mặt hàng hợp
lý, cơ cấu mặt hàng phải phù hợp với nhu cầu của thị trường nội địa và xuất khẩu.
Mặt hàng đi vào lưu thông phải tăng chất lượng, tăng lượng sản phẩm qua chế biến.
Thứ hai là; chính sách mặt hàng chú trọng đến chính sách thay thế mặt hàng
nhập khẩu. Đối với những mặt hàng mà sản xuất trong nước đã đáp ứng được yêu
cầu về số lượng, chất lượng và đủ sức cạnh tranh thì nhà nước hạn chế nhập khẩu
bằng các công cụ như: thuế nhập khẩu, hạn ngạch, hàng rào phi thuế quan. Bằng
cách này nhà nước khuyến khích việc phát triển sản xuất các mặt hàng này ở trong
nước, khi có sức cạnh tranh cao với hàng nhà nước. Nhà nước cũn cú chính sách
hợp lý để phát triển cá mặt hàng thay thế nhập khẩu và tiến tới xuất khẩu.
Thứ ba là; chính sách mặt hàng còn quy định các mặt hàng lưu thông có
điều kiện và các mặt hàng cần lưu thụng trờn thị trường nội địa, cấm xuất khẩu,
cấm nhập khẩu. Danh mục những mặt hàng này do chính phủ quy định.

Các mặt hàng cấm kinh doanh như: các chất ma tuý, vũ khí đạn được, thuốc
lá, thực vật, động vật rừng quý hiếm.
Các hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện như: gạo, xăng dầu, phân
bón Đõy là những mặt hàng có ảnh hưởng lớn đến an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội. Trước đõy danh mục mặt hàng cấm lưu thông được chính phủ quy định
hàng năm. Từ 2001 chính phủ quy định danh mục này cho cả thời kỳ 5 năm để đảm
bảo tính ổn định và tính có thể nhận biết trước của cơ chế, chính sách, đồng thời tạo
điều kiện thuận lợi và thay thế chủ động cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh
doanh, giảm sự rườm rà trong các thủ tục. Thủ tướng chính phủ quy định thay đổi
danh mục các mặt hàng, mặt hàng cấm kinh doanh và mặt hàng kinh doanh có điều
kiện trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng thương mại và thủ trưởng cơ quan quản lý
chuyên ngành.
3. Chính sách thị trường
Chính sách thị trường có một tầm quan trọng đặc biệt trong chính sách
thương mại nói riêng và đường lối công nghiệp hoá, đường lối phát triển của nền
NGUYỄN THỊ THUỶ, LỚP THƯƠNG MẠI 44A
14


ĐỀ ÁN MÔN HỌC KINH TẾ THƯƠNG MẠI
kinh tế nói chung. Bởi lẽ nếu phương hướng thị trường không được xác định rừ thỡ
hoặc là nền kinh tế đất nước chậm hội nhập vào nền kinh tế thế giới, hoặc là nó có
thể dễ bị tổn thương do sự phụ thuộc quá lớn vào một khu vực thị trường bất ổn
định nào đó. Chính sách thị trường cung cấp các thị trường về thị trường dẫn dắt
các doanh nghiệp hoạt động, hạn chế các rủi ro. Chính sách thị trường của nhà
nước đặt ra những nhiệm vụ ở cấp Chính phủ, cấp Bộ nhằm khai thông những cản
trở trên thị trường.
Chính sách thương mại chú ý đến thị trường trong nước và thị trường ngoài
nước.
Đối với thị trường trong nước phải bảo đảm tập trung nguồn lực để thúc đẩy

sản xuất hàng hoá, quy hoạch và cơ cấu lại những vùng chuyên canh sản xuất hàng
hoá lớn, dỡ bỏ hiện tượng ngăn sông, cấm chợ ở một số vùng. Bảo đảm cho hàng
hoá lưu thông suốt trong phạm vi cả nước. Đặc biệt chú trọng phát triển các thị
trường nông thôn, miền núi, xây dựng các chợ trung tâm để đưa hàng hoá đến
người tiêu dùng.
Vấn đề của Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tiếp tục tổ chức thị
trường trong nước tập trung phát triển thương mại nông thôn đến năm 2010 số
311/QĐ - TTg ngày 20/3/2003 đã xác định mục tiêu tổng quát về phát triển thị
trường trong nước là: “sắp xếp, mở rộng thị trường trong nước gắn với thị trường
nước ngoài, bảo đảm lưu thông hàng hoá trong suốt, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu của sản xuất và đời sống, đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá, nhất là nông sản, thúc
đẩy phát triển sản xuất, xuất khẩu, phát huy vai trò tích cực của các mô hình thương
mại tiên tiến, các loại hình thương nhân thuộc các thành phần kinh tế, tạo lập môi
trường kinh doanh lành mạnh, an toàn và thuận lợi, góp phần thực hiện lộ trình hội
nhập khu vực và thế giới, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội, phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa”.
NGUYỄN THỊ THUỶ, LỚP THƯƠNG MẠI 44A
15


ĐỀ ÁN MÔN HỌC KINH TẾ THƯƠNG MẠI
Chính sách thị trường còn chú ý đến việc thành lập đồng bộ các loại thị
trường như: thị trường hàng hoá, dịch vụ, thị trường lao động, thị trường vốn, thị
trường công nghệ… xây dựng thị trường thống nhất trên phạm vi cả nước và chủ
trương thành lập các thị trường trọng điểm quốc gia, vựng lónh thổ…
Chính sách thị trường ngoài nước chú trọng vào mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu,
đa dạng hoá thị trường xuất khẩu. Đầu những năm 90 chủ yếu là quan hệ buôn bán
với các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) như Liờn Xụ và Đông Âu. Với phương
châm đa dạng hoỏ cỏc quan hệ kinh tế đối ngoại hiên nay Việt nam có quan hệ

buôn bán với trên 170 nước trên thế giới. Tỷ trọng trong xuất nhập khẩu với các
nước XHCN đã giảm dần. Hiện nay nước ta đã mở rộng quan hệ buôn bán với một
số nước tư bản như Nhật, Mỹ và một số nước Châu Âu.
Trong những năm đầu thế kỷ XXI vẫn phải chú trọng phát triển các thị
trường truyền thống như Châu Á, Thái Bình Dương, thị trường EU, Nga. Đồng thời
tiếp cận và phát triển các thị trường nhiều tiềm năng như Hoa Kỳ, Trung Cận
Đông, Châu Phi…
Nội dung thứ ba của chính sách thị trường là hoạt động nghiên cứu thị
trường và thông tin thị trường. Chúng ta cần phải đổi mới và nâng cao hiệu quả của
công tác thông tin thị trường dự báo và nắm bắt chính xác các thông tin về thị
trường trong nước và thị trường quốc tế, bảo đảm thông tin đa chiều giữa các Bộ
ngành với các doanh nghiệp. Phải công khai các thông tin và có tầm nhìn chiến
lược lâu dài. Kết hợp chặt chẽ mạng lưới thu thập thông tin chuyên ngành và đa
dạng, mạng lưới thông tin trong nước và ngoài nước. Đặc biệt nâng cao trách
nhiệm của các tham tán, tuỳ viên thương mại ở nước ngoài trong việc cung cấp
thông tin, tìm kiếm thông tin.
4. Chính sách đầu tư phát triển thương mại.
Ở Việt nam chính sách đầu tư được hiểu là chính sách công nghiệp hoá
XHCN. Trong thực tế để tăng 1 đồng GDP cần đầu tư khoảng 3 đến 3,5 đồng. Với
mục tiêu phát triển kinh tế thị trường đến năm 2010 là GDP tăng gấp đôi năm 2000
NGUYỄN THỊ THUỶ, LỚP THƯƠNG MẠI 44A
16


ĐỀ ÁN MÔN HỌC KINH TẾ THƯƠNG MẠI
tức là đạt 62.638 triệu USD thì cần phải có các chính sách đầu tư thích hợp ở cả
tầm vĩ mô và vi mô. Nguồn vốn đầu tư có vai trò xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật,
mua các công nghệ tiên tiến của nước ngoài áp dụng vào các quy trình sản xuất
kinh doanh. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thương mại nâng cao khả năng
cạnh tranh, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng giao lưu hàng hoá và phát triển

thị trường.
Nhà nước cần có các chính sách cụ thể để thu hút nguồn vốn đầu tư, sử dụng
các nguồn vốn này đúng mục đích. Nguồn vốn đầu tư có thể lấy từ ngân sách Nhà
nước, vốn vay trong nhân dân, vốn vay của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng
trong và ngoài nước, vốn đầu tư của nước ngoài, nguồn vốn tài trợ của các tổ chức
nước ngoài… cần tập trung phát triển các thị trường vốn trung hạn, ngắn hạn và dài
hạn, đặc biệt là thị trường chứng khoán. Tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh
tế được tham gia vay vốn để kinh doanh.
Đối với nguồn vốn trong nước trước hết và quan trọng nhất là phải tạo ra và
huy động nguồn tiết kiệm trong nước để ngày càng tăng thêm mức tích luỹ từ nội
bộ. Trong thời gian từ năm 1991 - 1995 nguồn tích luỹ đạt 14,5% GDP. Để huy
động hết nguồn tích luỹ trong nước Chính phủ cần có các chính sách ổn định về
môi trường đầu tư, về phương thức huy động… và sử dụng kể cả Nhà nước vay dân
và cho dân vay lại để kinh doanh. Hiện nay Chính phủ Việt nam đặc biệt chú trọng
các phương thức huy động vốn theo 7 hình thức sau:
1. Mở rộng hình thức xây dựng các cơ sở hạ tầng theo phương thức Đầu tư -
Thu phí - Hoàn vốn.
2. Cho phép các công ty xây dựng được huy động vốn để xây dựng các công
trình trong kế hoạch Nhà nước và khi đến hạn Nhà nước sẽ trả nợ gốc và hỗ trợ một
phần lãi suất huy động cho các công ty.
3. Sử dụng quỹ đất vào việc huy động vốn bằng cách đổi quyền sử dụng đất
có thời hạn lấy xây dựng cơ sở hạ tầng.
NGUYỄN THỊ THUỶ, LỚP THƯƠNG MẠI 44A
17


ĐỀ ÁN MÔN HỌC KINH TẾ THƯƠNG MẠI
4. Cho phép các ngân hàng kinh doanh huy động vốn tối đa các nguồn vốn
còn nhàn rỗi trong dân cư và các thành phần kinh tế cũng như các nguồn vốn từ
nước ngoài.

5. Nhà nước sử dụng vốn tín dụng đầu tư để hỗ trợ cho một số ngành sản
xuất kinh doanh thuộc diện ưu tiên trước hết là các doanh nghiệp ở các tỉnh miền
núi và cỏc vựng cũn khó khăn.
6. Huy động sự đóng góp của nhân dân kể cả vốn và công lao động theo
phương trâm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” để xây dựng đường giao thông
nông thôn, những đầu mối giao thông quan trọng, thuỷ lợi, lưới điện.
7. Áp dụng Luật khuyến khích đầu tư trong nước và sử dụng có hiệu quả
Quỹ hỗ trợ đầu tư nhằm huy động vốn vào những ngành nghề, lĩnh vực ưu tiên.
Đối với nguồn vốn đầu tư nước ngoài cần áp dụng các biện pháp để huy
động và sử dụng hợp lý nguồn vốn viện trợ chính thức (ODA) và nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI).
Các nguồn vốn huy động được có thể sử dụng để xây dựng các trung tâm
thương mại, các trung tâm đầu mối giao dịch, trung tâm nhập khẩu, các siêu thị,
trung tâm triển lãm, hệ thống kênh phân phối, thu mua hàng hoá, hệ thống kho ở
cỏc vựng sản xuất tập trung, các bến cảng quan trọng như Hải Phòng, cảng Cỏi
Lõn…Và cỏc công trình đường giao thông nối các bến cảng, kho trạm đó với các
thành phố, xây dựng các trung tâm giới thiệu và bán hàng Việt nam, đầu tư xây
dựng chợ đầu nguồn ở thị trường nông thôn và miền núi.
NGUYỄN THỊ THUỶ, LỚP THƯƠNG MẠI 44A
18


ĐỀ ÁN MÔN HỌC KINH TẾ THƯƠNG MẠI
CHƯƠNG II: CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI NỘI
ĐỊA Ở VIỆT NAM TRONG 20 NĂM ĐỔI MỚIĐỊA
Ở VIỆT NAM TRONG 20 NĂM ĐỔI MỚI
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI NỘI ĐỊA
1.Vai trò của chính sách thương mại nội địa trong nền kinh tế quốc dân
1.1 Vai trò của chính sách thương mại nội địa
Chính sách thương mại nội địa được ban hành để điều chỉnh các hành vi

thương mại trong phạm vi một quốc gia. Chớch sỏch thương mại nội địa của Việt
nam có những vai trò chủ yếu như sau:
Thứ nhất là; phân phối và quản lý các nguồn lực có hạn trong phạm vi quốc
gia, quản lý và sử dụng hợp lý các tài nguyên thiên nhiên, sử dụng đi đôi với tái
tạo. Đảm bảo kinh tế tăng trưởng và ổn định
Thứ hai là; khai thác triệt để lợi thế so sánh của quốc gia, phát triển các
ngành sản xuất trong nước đế quy mô tối ưu.
Thứ ba là; mở rộng giao lưu hàng hoá trong nước, tạo ra khối lượng hàng
hoá dồi dào và phong phú đáp ứng được hầu hết nhu cầu trong nước và sản xuất
hàng hoá thay thế hàng nhập khẩu và dần dần tiến tới xuất khẩu.
Thứ tư là tạo việc làm cho phần lớn lao động trong nước, đào tạo và nâng
cao trình độ của người lao động.
1.2 Nhiệm vụ của chính sách thương mại nội địa của Việt nam
Chính sách thương mại nội địa của nước ta chủ yếu là thực hiện các nhiệm
vụ sau:
Một là; tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế phát triển và mở rộng kinh doanh, khai thác triệt để lợi thế so sánh của nền kinh
tế trong nước.
NGUYỄN THỊ THUỶ, LỚP THƯƠNG MẠI 44A
19


ĐỀ ÁN MÔN HỌC KINH TẾ THƯƠNG MẠI
Hai là; bảo vệ thị trường nội địa, tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp có
khả năng đứng vững và vươn lên trong hoạt động kinh doanh thương mại, đáp ứng
mọi nhu cầu của sản xuất và đời sống trong nước.
2. Nội dung của một số chính sách thương mại nội địa của nước ta trong thời
gian 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới nền kinh tế
2.1 Chính sách thương mại đối với miền núi, hải đảo, vựng sõu, vựng xa
Cơ chế kinh tế chỉ huy mặc dù có rất nhiều nhược điểm nhưng nó cũng có

nhiều ưu điểm mà cơ chế thị trường không có được. Một số ưu điểm như: thực hiện
được các cân đối lớn trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, phát triển đồng đều cỏc
vựng kinh tế trong phạm vi cả nước…đối với cơ chế thị trường thỡ đõy lại là
những khuyết điểm chủ yếu. Để khắc phục các nhược điểm này Đảng và Nhà nước
đã ban hành chính sách ưu tiên phát triển thương mại miền núi, hải đảo, vựng sõu,
vựng xa. Trong đó cú cỏc chính sách như: khuyến khích phát triển thương mại
miền núi, chính sách ưu đãi về tiền thuê đất đối với các thương nhân ở miền núi,
chính sách trợ giá, trợ cước một số mặt hàng chính sách.
Nghị định số 20/1998/NĐ - CP ngày 31/3/1998 của Chính phủ đã thể hiện
đầy đủ nội dung của các chính sách đó. Chính sách này tập trung vào một số nội
dung chủ yếu sau:
Thứ nhất; khuyến khích phát triển thương mại miền núi, hải đảo, vựng sõu,
vựng xa được quy định tại Điều 3 của Nghị định này như sau: “Nhà nước khuyến
khích và tạo mọi điều kiện để mọi tổ chức, cá nhân không phân biệt thành phần
kinh tế tham gia vào việc phát triển thương mại ở địa bàn miền núi, vựng sõu…”.
Khuyến khích phát triển hệ thống chợ, trung tâm thương mại huyện và cụm
xã, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và phát triển hệ thống giao thông để mở rộng
giao lưu kinh tế ở miền núi, hải đảo, vựng sõu, vựng xa. Những nội dung này được
quy định tại Điều 4 và Điều 7 của Nghị định này.
NGUYỄN THỊ THUỶ, LỚP THƯƠNG MẠI 44A
20


ĐỀ ÁN MÔN HỌC KINH TẾ THƯƠNG MẠI
Việc khuyến khích phát triển thương mại ở khu vực này còn được thể hiện
bằng chính sách miễn, giảm tiền thuê đất, miễn, giảm thuế doanh thu là thuế lợi tức
được quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Nghị định này.
Thứ hai; Nhà nước áp dụng chính sách trợ cước, trợ giá để bán hàng chính
sách xã hội, mua sản phẩm sản xuất ở miền núi. Bằng những chính sách này đã đưa
được các hàng hoá thiết yếu để phục vụ cho nhu cầu của đồng bào ở khu vực này.

Điều 14 của Nghị định này quy định một số mặt hàng sau được trợ cước, trợ
giá: muối i-ốt, giống cây trồng, dầu hoả thắp sáng, giấy viết học sinh, thuốc chữa
bệnh thì cự ly được trợ cước là từ kho hàng đến các cum xã.
Thứ ba; Nhà nước cú cỏc chính sách hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá
được sản xuất ở địa bàn miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc, được quy định
tại các Điều 23, 24, 25, 26, 27 của Nghị định này.
Với sự thay đổi nhanh chóng của kinh tế thỡ cỏc Điều khoản của Nghị định
này cũng bộc lộ những thiếu sót. Vì vậy Chính phủ đã ban hành Nghị định số
02/2002/NĐ - CP ngày 03/01/2002 nhằm sửa đổi và bổ sung một số điều.
2.2 Chính sách thương mại đối với nông thôn
Nước ta là một nước nông nghiệp, gần 80% dân số sống bằng nghề nông. Vì
thế mọi chính sách đều phải ưu tiên cho khu vực nông thôn. Ngay từ Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ V Đảng ta đã xác định đường lối công nghiệp hoá là phải ưu tiên
phát triển nông nghiệp. Từ đó đến nay Nha nước luụn cú cỏc chính sách nhằm hỗ
trợ, tạo điều kiện phát triển thương mại khu vực này.
Điều 13 Luật Thương mại quy định “Nhà nước cú cỏc chính sách phát triển
thương mại đối với thi trường nông thôn, tạo điều kiện mở rộng và phát triển chợ
nông thôn. Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) đóng vai trò chủ lực cùng với Hợp
tác xã (HTX) và các thành phần kinh tế khác thực hiện việc bán vật tư nông nghiệp,
mua nông sản nhằm góp phần nâng cao sức mua của nông dân và tạo điều kiện tiền
đề thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất hàng hoá, thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoỏ nụng thụn”.
NGUYỄN THỊ THUỶ, LỚP THƯƠNG MẠI 44A
21


ĐỀ ÁN MÔN HỌC KINH TẾ THƯƠNG MẠI
Ngày 24/6/2002 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 80/2002/QĐ- TTg
về khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng. Nội dung chủ yếu
như sau:

Một là; về đất đai “cỏc doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu nông sản
có nhu cầu đất đai để xây dựng nhà máy chế biến hoặc kho tàng, bến bãi và vận
chuyển hàng hoỏ thỡ được ưu tiên thuê đất. Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương có quy định cụ thể tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục, giá cả để
hỗ trợ các doanh nghiệp nhận đất đầu tư”.
Hai là; về tín dụng “đối với tín dụng ngân hàng, các ngân hàng thương mại
bảo đảm nhu cầu vay vốn cho người sản xuất và doanh nghiệp đã tham gia ký hợp
đồng theo lãi suất thoả thuận với điều kiện và thủ tục thuận lợi. Người sản xuất và
doanh nghiệp được thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay để vay vốn ngân
hàng…”.
Ba là; về thị trường và xúc tiến thương mại “ngoài các chính sách hiện hành,
đối với vùng sản xuất hàng hoá tập trung các doanh nghiệp xuất khẩu thuộc các
thành phần kinh tế có hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hoá với nông dân ngay từ
đầu vụ được ưu tiên tham gia thực hiện các hợp đồng thương mại của Chính phủ và
các chương trình xúc tiến thương mại do Bộ thương mại, Bộ, ngành có liên quan,
Hiệp hội ngành hàng và địa phương tổ chức…”.
Bộ Thương mại cho rằng để khuyến khích thương nhân kinh doanh trên địa
bàn nông thôn cần đơn giản hoá chế độ thuế, đặc biệt là hoàn thuế nhập khẩu vật tư
phục vụ sản xuất hàng hoá xuất khẩu và hoàn thuế VAT. Đồng thời giảm 50% thuế
thu nhập doanh nghiệp cho tất cả các doanh nghiệp sản xuất các loại máy móc phục
vụ nông nghiệp, ngư nghiệp để hỗ trợ việc bán trả góp trả chậm. Chính sách thương
mại đối với nông thôn hướng vào mục tiêu thay đổi cơ cấu sản xuất ở nông thôn
theo hướng sản xuất hàng hoá, phá bỏ độc canh, phá vỡ việc ngăn sông, cấm chợ,
đa dạng hoá ngành nghề để thúc đẩy và nâng cao đời sống nông thôn theo con
đường văn minh, hiện đại. Phát triển sản xuất hàng hoá, tăng thu nhập từ đó tăng
NGUYỄN THỊ THUỶ, LỚP THƯƠNG MẠI 44A
22


ĐỀ ÁN MÔN HỌC KINH TẾ THƯƠNG MẠI

sức mua, cải thiện đời sống của nông dân. Góp phần giải quyết việc xoỏ đúi, giảm
nghèo, xoá bỏ chênh lệch về kinh tế giữa thành thị và nông thôn. Đồng thời phải
khôi phục các làng nghề truyền thống.
2.3 Chính sách lưu thông hàng hoá và dịch vụ thương mại
Để đảm bảo cho tiến trình phát triển kinh tế và gia nhập các tổ chức thương
mại khu vực và quốc tế. Đảng và Nhà nước đã ban hành chính sách quy định về
hàng hoá và dịch vụ thương mại cấm lưu thông và thực hiện, hàng hoá và dịch vụ
kinh doanh có điều kiện.
Điều 15 Luật Thương mại quy định “Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện
mở rộng lưu thông hàng hoá, phát triển dịch vụ thương mại mà pháp luật không
hạn chế hoặc không cấm. Trong điều kiện cần thiết Nhà nước có thể sử dụng các
biện pháp kinh tế, hành chính để tác động vào thị trường nhằm đảm bảo cân đối
cung cầu hoặc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội. Cấm lưu thông hàng hoá,
dịch vụ thương mại gây phương hại đến quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội,
truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt nam, môi trường
sinh thái, sản xuất và sức khoẻ của nhân dân. Cấm mọi hành vi cản trở lưu thông
hàng hoá, cung ứng dịch vụ hợp pháp trên thị trường. Chính phủ công bố danh mục
hàng hoá cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện, danh mục hàng hoá,
dịch vụ thương mại hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện”. Danh mục các
loại hàng hoá này được công bố tại Nghị định số 11/1999/NĐ - CP ngày 03/3/1999.
Danh mục hàng hoá, dịch vụ thương mại cấm thực hiện gồm 10 loại hình:
1. vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng và phương tiện kỹ thuật
chuyên dùng của lực lượng vũ trang.
2. Các chất ma tuý.
3. Một số hoá chất có tính độc hại mạnh.
4. Các loại pháo.
5. Thuốc lá điếu sản xuất tại nước ngoài.
6. Một số đồ chơi trẻ em có hại tới giáo dục nhân cách.
NGUYỄN THỊ THUỶ, LỚP THƯƠNG MẠI 44A
23



ĐỀ ÁN MÔN HỌC KINH TẾ THƯƠNG MẠI
……………………………………………………
Hàng hoá và dịch vụ thương mại hạn chế kinh doanh gồm 5 loại:
1. Hàng hoỏ cú chứa chất phóng xạ và thiết bị phát bức xạ ion hoá.
2. Vật liệu nổ.
3. Thuốc bảo vệ thực vật thuộc danh mục hàng hoá hạn chế sử dụng tại
Việt nam Việt nam
4. Thuốc lá điếu sản xuất trong nước.
5. Rượu các loại từ 30 độ cồn trở lên.
Hàng hoá, dịch vụ kinh doanh có điều kiện bao gồm một số mặt hàng như:
1. Xăng dầu các loại.
2. Khí đốt các loại.
3. Hoá chất độc hại và sản phẩm cú hoỏ chất độc hại.
4. Thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người, các loại văcxin, sinh phẩm,
trang thiết bị, dụng cụ y tế. trang thiết bị, dụng cụ y tế.
5. Thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật.
6. Dịch vụ giết mổ gia súc.
………………………………………………….
Đối với các loại hàng hoá và dịch vụ trong danh mục hàng hoá kinh doanh
có điều kiện hoặc hạn chế kinh doanh nếu thương nhân muốn tham gia kinh doanh
các loại hàng hoá này thì phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của pháp luật về các
điều kiện để được kinh doanh. Các điều kiện này được quy định tại Điều 3 của
Nghị định này.
2.4 Chính sách đối với DNNN, HTX và các hình thức hợp tác khỏctrong thương mại trong thương
mại
Ở nước ta do duy trì nhiều hình thức sở hữu nên còn tồn tại nhiều thành phần
kinh tế. Các thành phần kinh tế ấy không chỉ có trong sản xuất mà còn tồn tại ở mọi
giai đoạn của quá trình tái sản xuất xã hội. Trong kinh doanh thương mại cũng có

đủ các thành phần kinh tế ấy. Nếu xét về hình thức sở hữu tư liệu sản xuất tồn tại
NGUYỄN THỊ THUỶ, LỚP THƯƠNG MẠI 44A
24


ĐỀ ÁN MÔN HỌC KINH TẾ THƯƠNG MẠI
ba hình thức: Quốc doanh (Nhà nước), tập thể và tư nhân. Trong đó các DNNN và
các HTX đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Vì thế Đảng ta luụn cú
cỏc chính sách ưu tiên phát triển đối với các loại hình kinh tế này.
Điều 10 Luật Thương mại quy định như sau: “Nhà nước đầu tư về tài chính,
cơ sở vật chất kỹ thuật, nhân lực để phát triển các DNNN kinh doanh những mặt
hàng thiết yếu nhằm bảo đảm cho DNNN giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động
thương mại. Là một trong những công cụ của Nhà nước để điều tiết cung cầu, ổn
định giá cả, nhằm góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước.
Nhà nước cú cỏc chính sách phát triển các doanh nghiệp công ích, các doanh
nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực không thu lợi nhuận hoặc lợi nhuận thấp mà
các thành phần kinh tế khác không kinh doanh.
Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu, quyền và lợi ích hợp pháp khác của HTX và
các hình thức kinh tế hợp tác trong thương mại, có chính sách ưu đãi, hỗ trợ và tạo
điều kiện cho HTX và các hình thức kinh tế hợp tác khác đổi mới và phát triển, bảo
đảm để kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế HTX trở thành nền tảng của nền kinh tế
quốc dõn”.
Vào năm 2002 cả nước có khoảng 5.231 DNNN tức là đã giảm 57,47% so
với năm 1990 (12.300 DN). Theo con số thống kê ngày 31/12/2000cả nước có
3.187 HTX được thành lập mới. Tính đến tháng 12/1996 cả nước có 18.607 HTX,
tính đến tháng 12 năm 2000 con số này là 14.893. Trong đó số HTX đã thực hiện
việc chuyển đổi theo Luật HTX năm 1996 là 8.343, số HTX chưa được chuyển đổi
là 3.358.
Trong thời gian qua DNNN kinh doanh thua lỗ liên tục, 40% chưa hiệu quả,
khi lỗ, khi lãi, không ổn định. Tình trạng ăn vào vốn, nợ quá hạn, nợ khó đòi ngày

càng tăng, khả năng cạnh tranh của DNNN trên thị trường trong nước và quốc tế
còn thấp. Để khắc phục tình trạng này Nghị quyết Hội nghị Trung ương III xác
định mục tiêu, nhiệm vụ cho những năm tới là:
NGUYỄN THỊ THUỶ, LỚP THƯƠNG MẠI 44A
25


×