Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TỔNG QUAN THÀNH PHẦN hóa học và tác DỤNG dược lý của MĂNG cụt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.8 KB, 28 trang )

TỔNG QUAN THÀNH PHẦN HÓA HỌC VÀ TÁC DỤNG DƯỢC LÝ
CỦA MĂNG CỤT
1.1. Cây măng cụt (Garcinia mangostana L.) [2- 4]
Măng cụt có tên tiếng Anh, Mỹ là mangosteen; Pháp: Mangoustanier;
Trung Quốc: Sơn trúc tử; Thái Lan: Mankhut.
1.1.1. Đặc điểm thực vật
Cây thường xanh, khác gốc, cao 6-25m, thân lớn, đường kính có thể
lên đến 25-35cm, có nhựa vàng. Lá dày cứng, mọc đối, không lông, mặt
dưới có màu nhạt hơn mặt trên. Hoa đa tính, thường có hoa cái và hoa lưỡng
tính. Hoa lưỡng tính có cuống có đốt, 4 lá đài, 4 cánh hoa màu trắng, 16-17
nhị và bầu 5-8 ô. Quả tròn mang đài tồn tại có vỏ quả rất dai, xốp, màu đỏ
như rượu vang chứa 5-8 hạt, quanh hạt có lớp áo hạt trắng, ngọt ngon. [7]
1.1.2. Nguồn gốc và phân bố
Măng cụt được khai hóa đầu tiên ở Thái Lan hoặc My-an-mar, cách
đây ít nhất 2000 năm, và sau đó được mở rộng sang những vùng nhiệt đới
khác. Hiện có khoảng 10 loài khác nhau được trồng để lấy quả. Cây măng
cụt ưa khí hậu nóng ấm. Ở Việt Nam loài cây này được trồng phổ biến ở
đồng bằng Sông Cửu Long và Đông Nam Bộ, nhiều nhất ở Lái Thiêu, Thủ-
Dầu-Một. Ở các nước Đông Nam Á, măng cụt được trồng nhiều tại Thái
Lan, Cam-pu-chia, My-an-mar, Sri Lanka và Phi-lip-pin.
Măng cụt cho trái sau 10–15 năm trồng nhưng cây có thể sống trên
50 năm. Cây tốt có thể cho trái sau 7–8 năm trồng (vùng Lái Thiêu, Thủ-
Dầu-Một, Việt Nam). Tại miền nam nước ta, măng cụt trổ hoa vào tháng 1 –
2 dương lịch và bắt đầu thu trái từ tháng 5 đến tháng 8 dương lịch. [25]
1
Hình 1.1 Hình ảnh cây măng cụt ( Garcinia Mangostana L.)
Hình 1.2 Hình ảnh quả măng cụt ( Garcinia Mangostana L.)
2
1.1.3. Hóa thực vật của cây măng cụt
1.1.3.1. Tinh dầu [2, 3]
Hương thơm của trái măng cụt có được là do nó có chứa một số lớn


các chất dễ bay hơi. Điều này được xác định thông qua GC-MS sử dụng EI-
MS.
Sắc ký khí-lỏng phát hiện trong tinh dầu măng cụt có 52 chất chính,
trong đó khoảng 28 chất đã được xác định. Thành phần thơm quan trọng
nhất là hexyl acetate (7,80 %), cis-hex-3-enyl acetate (1,40%) và cis-hex-3-
en-1-ol (27,27 %). Các chất còn lại tuy chiếm thành phần ít hơn nhưng cũng
đóng góp tạo nên hương vị của trái măng cụt, phức tạp và thoảng qua: mùi
trái cây (hexenal, hexanol, α-bisabolen), mùi xoài (α-copaen), mùi hoa nhài
(furfuryl methylceton), mùi huệ dạ hương (phenyl axetaldehit), mùi cỏ
(hexenol, hexanal), mùi cỏ héo (pyridin), mùi lá ướt (xylen), mùi hoa khô
(benzaldehit), mùi hồ đào (δ-cadinen) Axeton, ethyl xyclohexan đóng góp
tính chất dịu ngọt trong lúc toluen, α-terpinol đem lại mùi đường thắng,
methyl butenol, guaien mùi dầu, valenxen đặc biệt mùi mứt cam.
3
1.1.3.2. Các axit phenolic được tách ra từ quả măng cụt
Theo các nghiên cứu trước đây, đã có khoảng 10 axit phenolic (chủ yếu
là các dẫn xuất của axit hydroxybenzoic) được xác định trong cây măng cụt
thông qua GC-MS. Ngoài một số axit như vanillic, veratric, caffeic, p-
coumaric, ferulic, p-hydroxyphenylaxetic, benzoic, cinnamic, mandelic thì
nổi trội lên là một số axit phenolic có hàm lượng lớn hơn hẳn ở các bộ phận
khác nhau của cây măng cụt như: axit protocatechuic (vỏ quả và vỏ cây); axit
p-hydroxybenzoic (áo hạt); axit m-hydroxybenzoic (vỏ quả); 3,4–
dihydroxymandelic (vỏ cây) [8, 28,37,49].

OH
OH
OH
O
OH


OHO
OH
OH

3,4 – dihydroxymandelic axit protocacheuic

OH
OHO

OH
O
OH
axit p-hydroxybenzoic axit m-hydroxybenzoic
1.1.3.3. Các xanthon được tách ra từ vỏ quả măng cụt
Trái măng cụt đã được chỉ ra là có chứa một lượng lớn các chất
chuyển hóa thứ cấp như là prenyl xanthon và oxygen xanthon[13,14, 28,
49].
4
Xanthon hay xanthen-9H-one là chất chuyển hóa thứ cấp được tìm
thấy trong một số họ thực vật lớn, nấm và địa y. Chúng là một trong những
ngành quan trọng của hợp chất dị vòng được oxy hóa. Khung cơ bản của
xanthon được biết đến như 9-xanthenone hay dibenzo-γ-pyron và được sắp
xếp một cách cân đối (hình 3). Các nguyên tử cacbon được đánh số theo sự
thuận tiện của tổng hợp sinh học. Các nguyên tử cacbon ở vị trí từ 1-4 được
đánh số theo vòng B có nguồn gốc từ shikimate, và cacbon từ 5-8 được đánh
số theo vòng A có nguồn gốc từ axetat. [15, 27].
Hình 1.3 Khung cơ bản của xanthon
Xanthon được phân thành năm nhóm: xanthon oxy hóa đơn giản,
xanthon glycosid, prenyl xanthon, xanthonolignoid và xanthon
miscellaneous. Trong đó, các xanthon oxy hóa đơn giản lại được chia nhỏ

thành 6 nhóm theo mức độ oxy hóa. [9, 15, 23, 30, 38]
Năm mươi xanthon đã được tách ra từ vỏ quả măng cụt. Hợp chất đầu
tiên trong số chúng được đặt tên là mangostin (1) (sau được đổi thành α-
mangostin), được tách ra vào năm 1855 (Schmid, 1855). Chất này mang
màu vàng, thu được từ vỏ hoặc nhựa khô của cây măng cụt (Dragendorff,
1930).
Sau này, Dragendorff (1930) và Murakami (1932) đã làm sáng tỏ cấu
trúc của mangostin. Yates và Stout (1958) đã đưa ra công thức phân tử, phân
loại và vị trí của các nhóm thế của α-mangostin. Hơn thế nữa, Dragendorff
(1930) cũng đã tách được β-mangostin (2), cấu trúc của hợp chất này vẫn
5
chưa được làm sáng tỏ cho đến năm 1968 (Yates và Bhat, 1968). Jefferson
(1970) và Govindachari và Muthukumar-aswamy (1971) cũng tách được α
và β-mangostin.

Một số xanthon khác được tách ra từ vỏ quả măng cụt được trình bày
trong bảng 1.
Bảng 1.1 Các xanthon được tách từ vỏ quả măng cụt.
6
STT Tên hợp chất Công thức cấu
tạo
Tài liệu tham
khảo
1 γ-mangostin (3) [5]
2 Gartanin (4) [16]
3 8-deoxy gartanin (5) [16]
4 garcinone A (6) [17]
5 garcinone B (7) [17]
6 garcinone C (8) [17]
7 garcinone D ( 9) [19]

8 garcinone E ( 10) [19]
9 BR-xanthon A (11) [25]
10 BR-xanthon B (12) [25]
11 Mangostingone (13) [ 32]
12 garcimangosones B (14) [39]
13 tovophyllin A (15) [39]
14 Mangostenone C (16) [40]
15 Mangostenone D (17) [40]
16 Mangostenone E (18) [40]
17 Thwaitesixanthon (19) [40]
18 Demethylcalabaxanthon (20) [40]
19 Mangostanol (21) [40]
20 Mangostanin (22) [40]
21 11-hydroxy-1-isomangostin (23) [40]
22 tovophyllin B (24) [42]
23 Trapezifolixanthon (25) [42]
24 cudraxanthon G (26) [47]
25 8-hydroxycudraxanthon G (27) [47]
26 1-isomangostin (28) [47]
27 Smeathxanthon A (29) [47]
7
Theo nhiều báo cáo, α, β và γ-mangostin, gartanin, 8-deoxy gartanin,
garcinone E là những xanthon được nghiên cứu nhiều nhất do mang nhiều
hoạt tính sinh học[p].


8


9


1.2. Công dụng và các hoạt chất sinh học
1.2.1. Ứng dụng trong y học dân gian
Trái măng cụt thơm ngon cũng còn cống hiến nhiều môn thuốc. Từ
lâu, ở Á châu, bên Ấn Độ, hệ thống y học ayurvedic đã kê nó vào nhiều
10
thang thuốc cổ truyền, đặc biệt chống viêm, chữa tiêu chảy, ức chế dị ứng,
làm giãn phế quản trong cuộc điều trị hen suyễn. Nó cũng được xem như là
thuốc chống dịch tả, bệnh lỵ, kháng vi khuẩn, kháng vi sinh vật, chống suy
giảm miễn dịch. Người Thái dùng nó để chữa vết thương ngoài da. Người
Malaysia, Philipin dùng nước sắc vỏ chữa lỵ, đau bụng, đi tiêu lỏng, bệnh
vàng da. Ngoài ra, người ta còn dùng lá và vỏ cây măng cụt sắc lấy nước
làm thuốc hạ nhiệt, điều trị bệnh tưa miệng ở trẻ em, nấm candida ở phụ nữ
và rối loạn đường tiết niệu. Rễ cây măng cụt sắc lấy nước uống giúp điều
hòa kinh nguyệt. Nước sắc vỏ quả cũng được dùng làm nước rửa âm đạo
trong trường hợp bị bệnh bạch đới, khí hư[3].
Tinh dầu trích từ vỏ măng cụt được dùng để chữa bệnh eczema (chàm
bội nhiễm) và các rối loạn về da khác.
Vỏ măng cụt đem sắc lấy nước uống còn chữa được viêm bàng
quang, và dùng ngoài da để chữa bệnh lậu, ung nhọt.
Theo Đông y, vỏ quả măng cụt có vị chua chát, tính bình, đi vào hai
kinh phế và đại tràng, có công năng thu liễn, sáp trường, chi huyết, dùng trị
tiêu chảy, ngộ độc chất ăn, khi bệnh thuyên giảm thì thôi, dùng lâu sinh táo
bón. Sau đây là một số bài thuốc từ quả măng cụt: chữa tiêu chảy, kiết lỵ,
tiêu độc, chữa rối loạn tiêu hóa.
- Lấy khoảng mười cái vỏ cho vào một nồi đất, đậy thật kín bằng một
tàu lá chuối. Sau đó đun sôi cho đến khi nước có màu thật sẫm, uống mỗi
ngày 3-4 chén.
- Ở vùng nóng người ta còn phối hợp với các vị thuốc khác; bài 1: vỏ
Măng cụt khô 60g, hạt Mùi 5g hạt thìa là 5g đem sắc với 1200ml nước. Ðun

sôi kỹ, còn lại 600ml chiết ra để uống, ngày hai lần, mỗi lần 120ml. Nếu là
người lớn, đau bụng, có thể thêm thuốc phiện; bài 2: vỏ quả măng cụt (1
11
quả), rau sam, rau má, cỏ mực mỗi thứ 20 gam, cỏ sữa lá nhỏ (hoặc lớn), rễ
cây mua mỗi thứ 8 g, cam thảo đất, vỏ quýt, gừng tươi mỗi vị 4 g, thêm 1 lít
nước, sắc còn phân nửa, uống trong ngày.
- Lấy một nắm vỏ khoảng 50g, đem cắt ra từng khoanh, cho vào nồi
đất với hai bát nước, sắc như sắc thuốc, đun nhỏ lửa cho sôi từ 15-30 phút.
Sau đó để nước âm ấm, chiết lấy nước uống làm nhiều lần, mỗi lần độ 1 ly
nhỏ. Thuốc sắc ngày nào thì uống trong ngày đó, có thể thêm đường để uống
và đỡ khát.
- Lấy vỏ quả măng cụt thái nhỏ, phơi khô, tẩm rượu, sao thơm rồi tán
thành bột mịn. Khi ăn phải những thức ăn ôi thiu gây rối loạn tiêu hóa, ăn
không tiêu, đi tả, nôn mửa nên lấy ngay một thìa bột thuốc nói trên hòa với
nước đun sôi, cho thêm ít muối trắng, uống ngay lúc nước còn nóng sẽ thấy
đỡ.
1.2.2. Các hoạt tính sinh học của cây măng cụt (Garcinia mangostana L.)
1.2.2.1. Hoạt tính chống oxy hóa [13,22,24, 26, 41]
Năm 1994, Yoshikawa và các cộng sự thực hiện phương pháp dọn
gốc 2,2-diphenyl-1-picrylhydrazyl (DPPH) đối với phần chiết metanol từ vỏ
quả măng cụt. α và β mangostin đã chỉ ra hoạt tính chống oxy hóa thông qua
sử dụng phương pháp sắt thiocyanat. Năm 1995, Williams và các cộng sự đã
phát hiện ra α-mangostin làm giảm quá trình oxy hóa LDL (low density
lipoproteins) đối với con người, được cảm ứng bởi đồng hay gốc peroxyl.
Họ cũng phát hiện ra rằng α-mangostin, thứ nhất là kéo dài thời gian chậm
trế của các đien liên hợp ở 234 nm theo liều lượng, thứ hai là giảm bớt quá
trình sản xuất TBARS (thiobarbituric reactive substances), và thứ ba là làm
giảm khả năng tiêu thụ α-tocopherol, được cảm ứng bởi sự oxi hóa LDL.
12
Sau đấy, năm 2000, Mahabusarakam và các cộng sự cũng nhận ra rằng α-

mangostin và những dẫn xuất tổng hợp từ đó ngăn cản quá trình giảm mức
tiêu thụ α-tocopherol, được cảm ứng bởi sự oxy hóa LDL. Những tác giả
này cũng nhận ra rằng sự thay đổi cấu trúc của α-mangostin cũng làm thay
đổi hoạt tính chống oxy hóa. Cụ thể, sự thay thế giữa C-3 và C-6 với dẫn
xuất aminoethyl làm tăng hoạt tính; bất kỳ sự thay thế nào cùng với các
nhóm metyl, axetat, propanediol hay nitrile đều khử hoạt tính chống oxy
hóa.
Mặt khác, Leong và Shui (2002) đã so sánh toàn bộ khả năng chống
oxy hóa của 27 loại trái cây có giá trị trên thị trường Singapo, bao gồm cả
măng cụt, có sử dụng phép phân tích ABTS và DPPH; và họ chỉ ra rằng các
chất tách ra từ trái măng cụt có vị trí thứ 8 về hiệu quả chống oxy hóa.
Năm 2006, Weecharangsan và các cộng sự đã nghiên cứu hoạt tính
chống oxy hóa và bảo vệ thần kinh của bốn phần chiết thu được từ vỏ trái
măng cụt (bao gồm: nước, 50 % etanol, 95 % etanol, và etyl axetat). Khả
năng chống oxy hóa được đánh giá dựa vào phương pháp DPPH sử dụng 1,
10, 50 và 100 μg/mL ở mỗi phần chiết. Phần chiết từ nước và etanol (50 %)
chỉ ra khả năng chống oxy hóa cao (nồng độ ức chế theo thứ tự định sẵn ở
50 % (IC
50
) là 34,98 ± 2,24 và 30,76 ± 1,66 μg/mL). Khả năng chống oxy
hóa của những phần chiết này được kiểm nghiệm trên dòng tế bào ung thư
ngoài sọ (neuroblastoma – NG108-15) thông qua H
2
O
2
; cả 2 phần chiết đều
bộc lộ tính bảo vệ thần kinh khi được sử dụng ở nồng độ 50 μg/mL. Phần
chiết chứa 50 % etanol có tính bảo vệ thần kinh cao hơn phần chiết nước.
Gần đây hơn, năm 2007, Chomnawang và các cộng sự đã chỉ ra là cặn chiết
etanol từ măng cụt sở hữu hoạt tính chống oxy hóa đáng kể, được xác định

thông qua sự ức chế về thông tin của các gốc DPPH là 50 %. Phần tách ra
này đã thể hiện chỉ số IC
50
ở 6,13 μg/mL bằng cách so sánh với các cặn
13
etanol của Houttuynia cordata, Eupatorium odoratum và Senna alata (theo
thứ tự IC
50
là 32,53, 67,55 và 112,46 μg/mL). Thêm vào đó, phần chiết từ
trái măng cụt khử được đáng kể sản phẩm ROS (reactive oxygen species)
của PML (polymorphonuclear leucocytes) với 77,8 % tỉ lệ ức chế
superoxide anion, theo thứ tự là 62,6 %, 44,9 % và 35,18 %. Cũng trong
năm 2007, Haruenkit và các cộng sự đã chỉ ra tính chống oxy hóa của măng
cụt dựa vào phân tích DPPH và ABTS. Họ đã tìm ra chỉ tiêu của các chất
tương đương trolox trên 100 g tính theo khối lượng tươi, theo các phân tích
DPPH và ABTS lần lượt là 79,1 và 1268,6 μM. Bên cạnh đó, với các loài
chuột được cho ăn theo khẩu phần ăn kiêng cơ bản bổ sung thêm 1%
cholesterol cộng với 5% măng cụt thì sự tăng thể huyết tương và sự giảm
tính chống oxy hóa được thấy rõ với việc ngăn cản mỗi cholesterol.
Năm 2004, Moongkarndi và các cộng sự đã chỉ ra rằng phần chiết từ
măng cụt làm giảm hiệu quả quá trình sản xuất ROS nội bào, thông qua
phương pháp DCFH-DA (2,7-dichlorofluorescein diacetate) trong dòng tế
bào SKBR3.
Năm 2008, Chin và các cộng sự đã nghiên cứu khả năng hoạt động
loại bỏ HO
.
của các xanthon tách ra từ măng cụt. Trong số 16 xanthon được
kiểm nghiệm chỉ có duy nhất γ-mangostin có khả năng này (IC
50
0,2

μg/mL). Sau đó, họ cũng kiểm tra các xanthon tương tự thông qua quá trình
cảm ứng của khử quinone ( QR, phase II drug-metabolizing enzyme), thử
nghiệm trên các tế bào murine hepatoma. Tất cả các xanthon, ngoại trừ α-
mangostin đều gây cảm ứng với hoạt động khử QR. Nồng độ làm gấp đôi
giá trị hoạt động cảm ứng QR của các hợp chất trên lần lượt là: 1,3 μg/mL
( 1,2-dihydro-1,8,10-trihydroxy-2-(2-hydroxypropan-2-yl)-9-(3-methylbut-
2-enyl)furo[3,2-a]xanthen-11-one), 2,2 μg/mL (6-deoxy-7-
14
demethylmangostanin), 0,68 μg/mL (1,3,7-trihydroxy-2,8-di-(3-methylbut-
2-enyl)xanthon, 0,95 μg/mL (mangostanin).
1.2.2.2. Hoạt tính kháng ung thư [13,31]
Rất nhiều nghiên cứu cho thấy xanthon trong vỏ măng cụt có hoạt
tính chống ung thư. Các loại dòng tế bào như: Dòng tế bào ung thư biểu mô
gan (2002), dòng tế bào ung thư vú ở người SKBR3 (2004) và dòng tế bào
bạch cầu ở người (2003) được sử dụng.
Năm 2002, Ho và các cộng sự đã nhận ra rằng garcinone E gây hiệu
quả độc tố tế bào rất mạnh mẽ trên dòng tế bào ung thư biểu mô gan. Họ đã
nghiên cứu hiệu quả độc tố tế bào của 6 xanthon được tách ra từ vỏ quả
măng cụt và nhận thấy rằng garcinone E là độc tố tốt nhất. Chính vì vậy,
garcinone E được thử nghiệm chống lại các dòng tế bào ung thư gan
HCC36, TONG, HA22T, Hep3B, HepG2 và SK-Hep-1; dòng tế bào ung thư
phổi NCI-Hut 125, CH27 LC-1, H2891 và Calu-1; dòng tế bào ung thư dạ
dày AZ521, NUGC-3, KATO-III và AGS. Garcinone E đã tỏ rõ sự phân bố
lớn về hiệu quả phụ thuộc liều lượng và thời gian độc tố tế bào chống lại các
dòng tế bào ung thư khác nhau; ngoại trừ tế bào ung thư phổi CH27 LC-1,
tất cả các dòng tế bào được kiểm nghiệm đều bị tiêu diệt. Chỉ số về liều
lượng gây chết người ở garcinone 50% (LD
50
) chống lại các dòng tế bào trên
là khoảng từ 0,1–5,4 μM. Hiệu quả chống ung thư của garcinone E theo thứ

tự là như sau: SK-hep-1 > HA22T > HepG2 > Hep3B > HCC36.
Năm 2003, Matsumoto và các cộng sự đã nghiên cứu ảnh hưởng của
6 xanthon (α, β và γ-mangostin, mangostinone, garcinone E và 2-isoprenyl-
1,7-dihydroxyl-3-methoxy xanthon) được tách ra từ vỏ quả măng cụt với
khả năng ức chế sự phát triển tế bào của dòng tế bào mắc bệnh bạch cầu ở
người HL60. Họ đã khảo sát hiệu quả độc tố tế bào 72h tính từ sau khi ủ
15
bệnh với các xanthon ở 5 hay 40 μM. Tất cả các xanthon đã chỉ ra hiệu quả
ức chế hoàn toàn, nhưng α, β và γ-mangostin hiệu quả hoàn toàn từ 10 μM
trở đi. Hợp chất có hàm lượng lớn nhất trong cặn là α-mangostin, đó cũng là
chất có hoạt tính ức chế cao nhất (IC
50
10 μM). Sau này, α- mangostin được
phát hiện ra là có cả hiệu quả đối với các dòng tế bào mắc bệnh bạch cầu
khác: K562, NB4 và U937. Những dòng tế bào này thường bị α- mangostin
ức chế ở 5–10 μM.
Năm 2005, Matsumoto và các cộng sự đã nghiên cứu khả năng chống
tăng trưởng của 4 prenyl xanthon (α, β, γ-mangostin và methoxyl-β-
mangostin) trên tế bào ung thư ruột người DLD-1. Ngoại trừ methoxyl-β-
mangostin, 3 xanthon còn lại ức chế mạnh mẽ sự phát triển tế bào ở 20 μM
và 72h; khả năng chống ung thư của chúng phụ thuộc vào số nhóm hydroxy.
Năm 2006, Suksamrarn và các cộng sự đã tách được 3 prenyl xanthon
mới từ vỏ quả măng cụt (mangostenones C, D và E), cùng với 16 xanthon
được biết đến trước đó. Khả năng gây độc tố tế bào của các xanthon này
được kiểm nghiệm chống lại 3 dòng tế bào ung thư khác nhau: ung thư biểu
bì mồm (KB), ung thư vú (BC-1), và ung thư phổi (NCI-H187).
Mangostenone C đã được chứng minh hiệu quả độc tố tế bào chống lại 3
dòng tế bào này, với IC
50
theo thứ tự là 2,8, 3,53, 3,72 μg/mL. Tuy nhiên, α-

mangostin hiệu quả nhất với tế bào BC-1 (IC
50
0,92 μg/mL), tốt hơn thuốc
ellipticine (IC
50
1,46 μg/mL); α-mangostin cũng có hiệu quả độc tố tế bào
chống lại tế bào KB (IC
50
2,08 μg/mL); và gartanin cũng có thể ức chế sự
tăng trưởng của NCI-H187 (IC
50
1,08 μg/mL).
Năm 2007, Nakagawa và các cộng sự đánh giá hoạt tính của α-
mangostin thông qua thí nghiệm với các tế bào DLD-1. Kết quả là số lượng
tế bào quan sát được bị giảm đi nhờ xử lý với mangostin 20 μM. Hiệu quả
16
càng rõ rệt hơn khi xử lý kết hợp giữa mangostin 2,5 μM với 5-fluorouracil
2,5 μM (5-FU).
Tóm lại, các kết quả chỉ ra rằng α-mangostin và các chất tương tự có
thể sẽ là những “ ứng cử viên” trong việc chữa và điều trị ung thư.
1.2.2.3. Hoạt tính chống viêm và chống dị ứng [11- 13,18,20,21,33-36,
43-48]
Có những bằng chứng về khả năng chống viêm và chống dị ứng của
măng cụt trên những mẫu thí nghiệm khác nhau, ví dụ như tế bào RBL-2H3
(2002) và tế bào u thần kinh đệm ở chuột (2002, 2004, 2006), động mạch
chủ ở ngực loài thỏ và khí quản ở chuột lang (1996) và vài mẫu thí nghiêm
trên loài gặm nhấm (1979, 2004).
Năm 1979, Shankaranarayan và các cộng sự đã tạo ra các dẫn xuất
tổng hợp từ xanthon (3-O-methyl mangostin, 3,6-di-O-methyl mangostin,
mangostin triaxetat, 1-isomangostin, mangostin-3,6-di-O-(tetra axetyl)-

glucosid và mangostin-3,6-di-O-glucosid) từ α-mangostin, được sử dụng
trong nghiên cứu dược lý, cũng giống như α-mangostin. Khả năng hoạt động
trong miệng và bụng (50 mg/kg) của α-mangostin, 1-isomangostin và
mangostin triaxetat đã thể hiện hoạt tính chống viêm trên các loài gặm
nhấm, được kiểm nghiệm khi dùng chích qua màng phúc mô hay khi cho
uống nơi chuột bị gây phù chân bằng carrageenan, hay bằng cách cấy cục
bông gòn dưới da. Các chất này không có hiệu ứng ổn định màng tế bào.
Trong phần tác dụng lên hệ trung ương, chúng ta thấy mangostin ức chế
tổng hợp COX-2, đó cũng là một cơ chế chống viêm.
Năm 2002, Nakatani và các cộng sự sử dụng dịch chiết etanol 100 %,
70 %, 40 % và nước, tìm thấy dung dịch etanol 40% ức chế phóng thích
histamin qua trung gian IgE. Dung dịch này cũng ức chế tổng hợp
17
prostaglandin E-2 (PGE-2). Phản ứng phản về qua da thụ động bị ức chế
đáng kể bởi dịch chiết 40%. Tác dụng chống dị ứng của dung dịch này mạnh
hơn dung dịch một loại cây ngấy (Rubus suavissimus) thường dùng ở Nhật.
Gần đây, năm 2008, Chen và các cộng sự đã chứng minh rằng α và γ-
mangostin ức chế hiệu quả quá trình sản xuất NO
.
và độc tố tế bào đến các
tế bào RAW 264,7. Số lượng sản xuất NO
.
ở 3 đến 25 μM được xác định
liên lục, chỉ số IC
50
đối với α và γ-mangostin là 12,4 và 10,1 μM. Hai hợp
chất là α và γ-mangostin cũng khử một cách hiệu quả quá trình tổng hợp
PGE
2
(IC

50
11,08 và 4,5 μM). Hiệu quả của những xanthon này được thông
qua bằng cách xác định sự cảm ứng của iNOS (nitric oxide synthase) và
enzym COX.
Cơ quan cảm nhận IgE gây hoạt động truyền tính trạng tín hiệu trong
tế bào, dẫn tới sự giải phóng chất trung gian gây bị viêm, ví dụ như
histamin. Đây chính là khả năng quan trọng nhất trong vài giả thiết về dị
ứng. Dựa trên những thông tin đó, Itoh và các cộng sự (2008) đã giải thích
rằng các xanthon được tách ra từ quả măng cụt (α, β và γ- mangostin), ngăn
cản quá trình mất hạt nhỏ của bạch cầu trong hoạt động Ag gián tiếp của IgE
trên tế bào bạch cầu RBL-2H3 ở chuột. Các tác giả này cũng giải thích rằng
cơ chế ức chế của quá trình mất hạt nhỏ nhờ xanthon là do sự ngăn cản của
đường chạy SYK/PLCγs/PKC.
Tất cả những dữ liệu kể trên chỉ ra rằng các xanthon được tách ra từ
quả măng cụt có thể là một mục tiêu mới về các hợp chất chống viêm và
chống dị ứng.
1.2.2.4. Hoạt tính chống khuẩn, chống nấm và chống virut [13,18]
Năm 1983, Sundaram và các cộng sự đã nghiên cứu hoạt tính chống
vi khuẩn và chống nấm của α–mangostin và 4 dẫn xuất của nó. Họ nhận
18
thấy rằng vi khuẩn S. aureus, P. aeruginosa, Salmonella typhimurium và
Bacillus subtilis dễ bị tổn thương cao đối với các xanthon này; ngược lại các
vi khuẩn Pro-teus sp, Klebsiella sp và Escherichia coli chỉ bị tổn thương ở
một mức độ nào đấy. Về nấm, α–mangostin và 4 dẫn xuất của nó có tác
dụng ức chế mạnh mẽ với các loại Epidermophyton floccosum, Alternaria
solani, Mucor sp., Rhizupus sp. và Cunninghamella echinulata, ngược lại
Trichophyton mentagrophytes, Microsporum canis, Aspergillus niger,
Aspergillus flavus, Penicillium sp., Fusarium roseum và Curvularia lunata
chỉ bị tổn thương nhẹ. Nồng độ ức chế tối thiểu (MIC, nồng độ thấp nhất của
hợp chất chống vi khuẩn gây ức chế sự tăng trưởng có thể quan sát được của

vi sinh vật sau giai đoạn ủ bệnh) của α–mangostin là giữa 12,5 và 50 μg/mL
đối với vi khuẩn, giữa 1 và 5 μg/mL đối với nấm. Sự sắp xếp về khả năng
kháng khuẩn và kháng nấm như sau: α–mangostin > isomangostin > 3-O-
metyl mangostin > 3,6-di-O-metyl mangostin. Mangostin triaxetat không có
hoạt tính.
Năm 1986, Mahabusarakam và các cộng sự đã điều tra về hoạt tính
chống khuẩn của mangostin, gartanin, γ-mangostin, 1-isomangostin và 3-
isomangostin được tách từ trái măng cụt chống lại S. aureus, cả chủng bình
thường lẫn chủng kháng penicillin. Chỉ số MIC (μg/mL) của các hợp chất
được sắp xếp theo thứ tự sau: đối với các chủng bình thường là methicillin
(3,9) > α–mangostin (15,6) > γ-mangostin (31,2) > 1-isomangostin (62,5) >
3-isomangostin (125) > gartanin (250); đối với các chủng kháng penicillin
là α–mangostin (1,56-12,5) > methicillin (1,56-12,5) > 1-isomangostin (125)
> 3-isomangostin (250), γ-mangostin (250) và gartanin (250). Thêm vào đó,
hoạt tính của mangostin, gartanin và γ-mangostin chống lại Candida
albicans, Cryptococcus neoformans, T. mentagrophytes và Microsporum
gypseum cũng được kiểm nghiệm; kết quả là có hoạt tính trung bình chống
19
lại T. mentagrophytes, Microsporum gypseum nhưng lại không thể hiện hoạt
tính chống lại C. albicans, C. neoformans.
Năm 1996, Linuma và các cộng sự đã nghiên cứu hiệu quả ức chế của
vài xanthon, được tách ra từ vỏ quả măng cụt, chống lại sự tăng trưởng của
S.aureus đề kháng methicillin (MRSA–methicillin resistant S.aureus). α–
mangostin ức chế hiệu quả rõ rệt, với chỉ số MIC từ 1,57-12,5 μg/mL.
Năm 2003, Saksamrarn và các cộng sự đã nghiên cứu khả năng chống
vi trùng lao của các prenyl xanthon lấy từ vỏ quả măng cụt. Trong số chúng,
α và β-mangostin và garcinone B thể hiện hiệu quả ức chế thuyết phục nhất
chống lại vi trùng lao Mycobacterium tuberculosis, với chỉ số MIC là 6,25
μg/mL, ngược lại, demthylcalabaxanthon và trapezifolixanthon có chỉ số
MIC là 12,5 μg/mL, γ-mangostin, garcinone D, mangostanin, mangostenone

A và tovophyllin B có chỉ số MIC là 25 μg/mL. Các xanthon có khả năng
chống lại vi trùng lao thấp hơn là mangostenol và mangostanol có chỉ số
MIC lần lượt là 100 μg/mL và 200 μg/mL.
Năm 1994, Phongpaichit và các cộng sự đã nghiên cứu hoạt tính
kháng khuẩn của α và γ-mangostin và hỗn hợp mangostin trên 49 chủng
MRSA, được lấy từ các bệnh nhân ở bệnh viện Songklanagarind; 50 chủng
MRSA, 13 chủng Enterococcus spp, được lấy từ các bệnh nhân ở bệnh viện
Maha-raj Nakorn Chiang Mai. Hỗn hợp mangostin có hiệu quả thuyết phục
nhất chống lại MRSA (MIC 1,48 μg/mL), α và γ-mangostin lần lượt là 3,12
và 2,26 μg/mL. Đối với tất cả các chủng Enterococcus spp, mangostin ức
chế sự tăng trưởng của chúng ở 1 μg/mL.
Vài sản phẩm tự nhiên được xác định nhờ vào khả năng ức chế những
trạng thái khác nhau đối với chu kỳ của virut làm mất khả năng miễn dịch ở
người (HIV-1). Năm 1996, Chen và các cộng sự đã chỉ ra rằng cặn chiết
20
etanol của trái măng cụt ức chế rất hiệu quả với HIV-protease. Hai xanthon
được tách ra từ cặn này là α và β-mangostin, theo thứ tự thể hiện chỉ số IC
50
5,12 ± 0,41 và 4,81 ± 0,32 μM. Tính chất ức chế này không cạnh tranh.
Gần đây, năm 2007, Rassameemasmaung và các cộng sự đã nghiên
cứu hiệu quả của một loại thuốc súc miệng từ dược thảo có chứa thành phần
chiết từ vỏ quả măng cụt, thông qua thử nghiệm trên 60 người, được chẩn
đoán mắc phải bệnh viêm lợi kinh niên ở mức độ nhẹ nhàng hay vừa phải.
Kết quả là có tác dụng chống lại các hợp chất chứa lưu huỳnh dễ bay hơi,
bệnh bựa răng và chảy máu răng. Chính vì vậy, phần chiết từ vỏ quả măng
cụt có thể được sử dụng như một tác nhân bổ sung trong việc điều trị hơi thở
hôi thối.
1.2.2.5. Hoạt tính chống sốt rét [13]
Một vài xanthon được tách ra từ măng cụt đã chỉ ra hoạt tính chống sốt rét
chống lại plasmodium falciparum trong phòng thí nghiệm. β-mangostin và α-

mangostin thể hiện giá trị IC
50
theo thứ tự lần lượt là 7 và 5,1 μM, trong khi đó
mangiferina - một xanthon glucosid, lại thể hiện chỉ số IC
50
cao hơn 50 μM
(2005). Mặt khác Mahabusarakam và các cộng sự ( 2006) lại nhận ra rằng α –
mangostin lại thể hiện chỉ số IC
50
là 17 μM chống lại P.falciparum.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Nguyễn Văn Đậu, Trung Thị Hương, Nguyễn Thùy Linh, Nguyễn Thị
Quyên (2009), ‘’Phân lập sáu xanthon từ vỏ quả măng cụt’’, Tạp chí
hóa học, 47(4A), tr. 299- 303.
21
2.Trần Việt Hưng, Ds Lê Văn Nhân(2008),’’ Giá trị dinh dưỡng và dược tính
của cây măng cụt’’, Biên khảo nghiên cứu mới.
3. Trung Thị Hương(2008), ‘’Góp phần nghiên cứu hóa thực vật của vỏ quả
măng cụt (Garcinia Mangostana L.)’’, Khóa luận tốt nghiệp hệ đại học
chính quy , Khoa Hóa học, trường Đại học KHTN, ĐHQG Hà Nội.
4. Đỗ tất Lợi(2004), ‘’Cây thuốc và vị thuốc Việt nam’’, NXB Y học, tr. 429
5. Hà Diệu Ly, Phạm Đình Hùng, Harrison J. Leslie, Nguyễn D. Liên
Hoa(2009), TC. Dược học, 395 (3), tr. 25-29.
6. Tạp chí Phụ nữ Ấp Bắc(2005), số 140 (5).
Tài liệu tiếng Anh
7. Alexander J. Macleod and Nirmala M. Pieris(1982), ‘’Volatile flavour
components of mangosteen, Garcinia Mangostana’’, Phytochemistry,
21(1), pp.117-l19.
8. Ashis K.Sen, Kalyan K.Sarkar, Ptonobesh C.mazumder, Nilimabanerij,

Raino Uusvouri and Tapio, A.Hase(1982), ‘’The stucture of garcinones
A, B and C: Three new xanthones from Garcinnia Mangostana’’,
Phytochemistry, 21(7), pp. 1747-1750.
9. Bennett, G.J., Lee, H.H(1989),’’ Xanthones from the Guttiferae’’,
Phytochemistry, 28, pp. 967- 998.
10. Chi- Kuan Ho, Yu- Ling Huang, Chieh- Chih Chen,(2002),’’Garcinone E,
a xanthone derivative, has potent cytotoxic effect against hepatocellular
carcinoma cell lines’’, Planta Med, 68(11), pp. 975- 979.
22
11. Da Re, P., Sagramora, L., Mancini, V., Valenti, P., Cima, L(1970), ‘’ NMR
structure determination of some new 4-hydroxyxanthone derivatives’’,
J.Med. Chem., 13, pp. 574- 577.
12. Essery, J. M., O'Herron, F.A., McGregor, D.N., Bradner, W.T. J.(1976), ‘’
Preparation and antitumor activities of some derivatives of 5-methoxy
sterigmatocystin’’, Med. Chem., 19, pp. 1339- 1342.
13. Fujio Asai, Hideki Tosa, Toshiyuki Tanaka and Munekazu Linuma(1995),
‘’A xanthone from pericarps of Garcinia Mangostana’’, Phytochemistry,
39(4), pp. 943-944.
14. Geetha GopalakrisnanU, Banumathy Balaganesan(2000), ‘’Two novel
xanthones from Garcinia mangostana’’, Fitoterapia, 71, pp. 607-609
15. Huyn-Ah Jung, Bao-Ning Su, William J.Keller, Rajendra G.Mehta, and A.
Douglas Kinghorn(2006), ‘’Antioxidant Xanthones from the Pericarp
of Garcinia mangostana (Mangosteen)’’, J. Agric. Food Chem, 54, pp.
2077- 2082.
16. José Pedraza-Chaverri, Noemí Cárdenas-Rodríguez, Marisol Orozco-
Ibarra, Jazmin M. Pérez-Rojas(2008), ‘’Medicinal properties of
mangosteen
(Garcinia mangostana)’’, Food and Chemical Toxicology, 46, pp.
3227– 3239.
17. Krishnamoorthi Balasubkamanian and Krishnamoorthi

Rajagopalan(1988), ‘’Novel xanthone from Garcinia
Mangostana,structure of BR-Xanthone-A and BR-xanthone-B’’,
Biophysi & Biochem, 27(5), pp. 1552 - 1554.
23
18. Lih- Geeng Chen, Ling- Ling Yang, Ching- Chiung Wang(2008), ‘’ Anti
–inflamatory activity of mangostins from Garcinia mangostana’’, Food
and Chemical Toxicology, 46, pp. 688- 693.
19. Limei Yu , Mouming Zhao , Bao Yang , Qiangzhong Zhao , Yueming
Jiang(2007), ‘’Phenolics from hull of Garcinia mangostana fruit and
their antioxidant activities’’, Food Chemistry, 104 , pp.176– 181.
20. Lin, C.N., Liou, S.J., Lee, T.H., Chuang, Y.C., Won, S.J(1996),
‘’Xanthone derivatives as potential anti-cancer drugs’’ J.Pharm.
Pharmacol, 48, pp. 539- 544.
21. Liou S.S., Shieh W.L., Cheng T.H., Won S.J., Lin C.N(1993) ,
‘’Gamma-pyrone compounds as potential anti-cancer drugs’’, Pharm.
Pharmacol, 45, pp. 791- 794.
22. Mahabusarakam W., Proudfoot J., Taylor W., Croft K(2000), ‘’ Inhibition
of lipoprotein oxidation by prenylated xanthones derived from
mangostin’’, Free Radic. Res, 33, pp. 643- 659.
23. Mandal S., Das P.C., Joshi P.C(1992),’’ Naturally occurring xan- thones
from terrestrial flora’’, J. Indian Chem. Soc. , 69,pp. 611- 636.
24. Madan B., Singh I., Kumar A., Prasad A., Raj H., Parmar V., Ghosh
B(2002), ‘’ Xanthones as inhibitors of microsomal lipid peroxidation
and TNF-alpha induced ICAM-1 expression on human umbilical vein
endothelial cells (HUVECs), Bioorg. Med. Chem, 10, pp. 3431- 3436.
25. Mehtab Parveen and Nizam Ud-din Khan(1988), ‘’Two xanthones from
Garcinia Mangostana’’, Phytochemistry, 27(11), pp 3694- 3696.
26. Miwakokondo, Liliang zhang,Hongping Ji,Yan Kou and Boxin Ou(2009),
‘’Bioavailability and Antioxidant Effects of a Xanthone-Rich
24

Mangosteen (Garcinia mangostana) Product in Humans’’, J. Agric.
Food Chem., 57 (19), pp. 8788–8792
27. M.M.M. Pinto, M.E. Sousa and M.S.J. Nascimento(2005), ‘’Xanthone
Derivatives: New Insights in Biological Activities’’, Current Medicinal
Chemistry, 12, pp. 2517-2538.
28. Nattaya Chairungsrilerd, Kzuya Takeuchi, Yasushi Ohizumi Shigeo
Nozoe and tomihisa Ohta(1996),’’ Mangostanol, a prenyl xanthone
from Garcinia Mangostana’’, Phytochemistry , 43(5), pp. 1099-1102.
29. Nilar, Lien-Hoa D. Nguyen, Ganpathi Venkatraman, Keng-Yeow Sim,
Leslie J. Harrison(2005), ‘’Xanthones and benzophenones from
Garcinia griffithii and
Garcinia mangostana’’, Phytochemistry, 66, pp. 1718- 1723.
30. Peres, V., Nagem, T.J(1997), ‘’ Trioxygenated naturally occurring
xanthones’’, Phytochemistry, 44, pp. 191- 214.
31. Raquel A. P. Castanheiro , Artur M. S. Silva , Naïr A. N. Campos , Maria
S. J. Nascimento and Madalena M. M. Pinto(2009), ‘’ Antitumor
Activity of Some Prenylated Xanthones’’, Pharmaceuticals, 2, pp. 33-
43
32. R.E.Litz(2005), ‘’Biotechnology of fruit and Nut crops’’, Biotechnology
in Agriculture Series, 29, pp. 209- 211.
33 Rewcastle GW, Atwell GJ, Li ZA, Baguley BC, Denny WA (1991), ‘’
Potential antitumor agents. 61. Structure-activity relationships for in
vivo colon 38 activity among disubstituted 9-oxo-9H-xanthene-4-acetic
acids’’, J. Med. Chem. , 34, pp. 217- 222.
34. Rewcastle GW, Atwell GJ, Baguley BC, Calveley SB, Denny WA (1989),
‘’ Potential antitumor agents. 58. Synthesis and structure-activity
25

×