Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Đội ngũ công nhân Thái Nguyên với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (553.52 KB, 118 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Hường
Đội ngũ công nhân Thái Nguyên với quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa
Chuyên ngành : Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số : 60 22 85
Luận văn thạc sĩ triết học
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN VĂN OÁNH
HÀ NỘI - 2005
MỤC LỤC
1
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chơng 1: GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM VÀ ĐỘI
NGŨ CÔNG NHÂN THÁI NGUYÊN TRONG QUÁ
TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 6
1.1. Giai cấp công nhân Việt Nam với quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa 6
1.2. Tính đặc thù của đội ngũ công nhân Thái Nguyên trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa 31
Chơng 2: ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN THÁI NGUYÊN -
THỰC TRẠNG VÀ XU HỚNG BIẾN ĐỘNG TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 47
2.1. Thực trạng đội ngũ công nhân Thái Nguyên 47
2.2. Xu hớng biến động của đội ngũ công nhân Thái Nguyên
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa 66
Chơng 3: PHƠNG HỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NHẰM PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN THÁI
NGUYÊN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA 77
3.1. Một số phơng hớng cơ bản 77


3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển đội ngũ công
nhân Thái Nguyên trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa 85
KẾT LUẬN 109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 112
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
TBCN : T bản chủ nghĩa
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ta hiện nay, giai cấp công
nhân không chỉ là giai cấp lãnh đạo mà còn là lực lượng đi đầu, trực tiếp thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, vấn đề
xây dựng giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh về mọi mặt là một nhiệm
3
vụ hết sức quan trọng của Đảng, Nhà nước của giai cấp công nhân và toàn thể
nhân dân.
Thái Nguyên là Thủ đô trong những năm nhân dân ta kháng chiến chống
thực dân Pháp, là thành phố công nghiệp trong hiện tại. Đội ngũ công nhân Thái
Nguyên là một bộ phận của giai cấp công nhân Việt Nam với những truyền
thống bất khuất kiên cường. Trải qua gần một thế kỷ phát triển, đội ngũ công
nhân Thái Nguyên không ngừng trưởng thành về nhiều mặt, có vai trò to lớn
trong tiến trình đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Trong
giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đội ngũ công nhân
Thái Nguyên tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng đó. Tuy nhiên, cũng như
giai cấp công nhân cả nước, đội ngũ công nhân Thái Nguyên đã và đang có biến
động, bắt đầu bộc lộ những mặt mạnh cũng như những mặt hạn chế và yếu kém
đòi hỏi phải từng bước khắc phục để có thể đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp

công hoá hiện đại hoá, thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử của mình. Vì vậy,
nghiên cứu vấn đề phát triển đội ngũ công nhân Thái Nguyên là việc làm vừa cơ
bản lâu dài, vừa cấp bách.
Do vậy, tôi chọn đề tài: "Đội ngũ công nhân Thái Nguyên với quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá" làm luận văn tốt nghiệp cao học với hy vọng
góp một chút sức lực nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu vấn đề trên.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ở Việt Nam trong những năm gần đây, vấn đề giai cấp công nhân và sứ
mệnh lịch sử của nó đã được nhiều công trình khoa học nghiên cứu với nhiều
góc độ, những phạm vi khác nhau. Đáng chú ý là một số công trình nghiên cứu
về giai cấp công nhân là gì? thực trạng giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử
giai cấp công nhân Việt Nam; những giải pháp xây dựng giai cấp công nhân
hiện nay...chẳng hạn như: "Đặc điểm và xu hướng biến đổi cơ cấu - giai cấp
công nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" (Đỗ Khánh
Tặng - Luận án phó tiến sĩ, Hà Nội, 1990). "Giai cấp công nhân Việt Nam vai trò
xu thế biến động về cơ cấu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" (Bùi Đình
4
Bôn - Luận án phó tiến sĩ, Hà Nội, 1991). Kỷ yếu hội thảo: "Thực trạng giai cấp
công nhân dưới tác động cơ thế thị trường" (Trung tâm nghiên cứu lý luận -
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Hà Nội, 1993). "Một số vấn đề giai cấp
công nhân và công đoàn Việt Nam" (GS. Văn Tạo - Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1997). "Bác Hồ với giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước". (PGS. TS Đỗ Quang Hưng (chủ Biên) - Nxb Lao động
Hà Nội,1999). "Tích cực hoá nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân hoàn thành
sứ mệnh lịch sử của mình" (Trần Thị Bích Liên - Luận án tiến sĩ, 2001). "Vấn đề
đình công của công nhân ở nước ta hiện nay" (Phạm Thị Xuân Hương - Luận án
tiến sĩ, 2001). "Xu hướng biến động giai cấp công nhân Việt Nam trong những
năm đầu thế kỷ 21" (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Viện Công nhân và
công đoàn, Nxb Lao động Hà Nội, 2001)... Các công trình nêu trên đã khai thác
tương đối toàn diện những vấn đề liên quan đến công nhân, xu hướng biến động

của nó trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mặt khác đã đưa ra những giải
pháp nhằm xây dựng đội ngũ công nhân không ngừng lớn mạnh đáp ứng yêu
cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Gần đây, còn một số công trình khác nghiên cứu trực tiếp đến mối quan
hệ giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá với sự phát triển của giai cấp công nhân;
vai trò của giai cấp công nhân trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước như: "Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sự phát triển giai cấp
công nhân" (PGS Cao Văn Lượng (chủ biên) - Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001). "Sự phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam và vai trò của nó trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" (Trần Ngọc Sơn - Luận án tiến
sĩ, 2001). Kỷ yếu hội thảo: "Về giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá". (Trường Đại học Công đoàn Việt
Nam, Hà Nội, 2002). "Giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước". (PGS. TS. Dương Xuân Ngọc - Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2004)... Trong các công trình này đã đề cập đến mối quan hệ biện
chứng giữa quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với sự phát triển
5
của giai cấp công nhân, đặt ra những yêu cầu nhằm phát triển giai cấp công nhân
cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu.... để có thể đáp ứng được những đòi hỏi của
thực tiễn đặt ra.
Ngoài những công trình nêu trên còn một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu
thực trạng và đưa ra những phương hướng giải pháp cơ bản nhằm xây dựng,
củng cố và phát triển đội ngũ công nhân ở các địa bàn cụ thể, chẳng hạn như:
"Công nhân Hải Phòng trong công cuộc đổi mới những vấn đề đặt ra và phương
hướng giải quyết" (Nguyễn Văn Năm, 1995). "Xu hướng biến đổi phương hướng
và giải pháp xây dựng đội ngũ công nhân Thừa Thiên Huế trong giai đoạn hiện
nay" (Vũ Minh Thủ, 1998). "Xây dựng đội ngũ công nhân Đồng Nai đáp ứng yêu
cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá" (Phạm Hồng Hải, 2002).....
Riêng đối với tỉnh Thái Nguyên dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy và Ủy ban
nhân dân tỉnh, Liên đoàn Lao động tỉnh cũng đã tiến hành khảo sát đưa ra những

đánh giá bước đầu nhằm xây dựng đội ngũ công nhân lớn mạnh. Song nhìn
chung chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống vấn
đề phát triển đội ngũ công nhân Thái Nguyên trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở cấp tiến sĩ hay thạc sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ thực trạng và xu hướng biến động của đội ngũ công nhân Thái
Nguyên, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng và phát
huy vai trò đội ngũ công nhân Thái Nguyên trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những quan niệm cơ bản như: Giai cấp công nhân Việt Nam;
quan niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá; mối quan hệ giữa công nghiệp hoá,
hiện đại hoá với sự phát triển của giai cấp công nhân; vai trò của đội ngũ công
nhân Thái Nguyên trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
6
- Đánh giá thực trạng của đội ngũ công nhân Thái Nguyên, tìm ra những
nguyên nhân và những vấn đề đặt ra. Từ thực trạng đó, dự báo xu hướng biến động
của đội ngũ công nhân Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng và
phát huy vai trò của đội ngũ công nhân Thái Nguyên trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn, phương pháp nghiên cứu và phạm vi
nghiên cứu của luận văn
4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
- Cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các
quan điểm của Đảng về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó, về công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Cơ sở thực tiễn là kết quả điều tra thực trạng công nhân ở các doanh
nghiệp trong và ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.

4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng tổng hợp phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Coi trọng phương pháp logíc - lịch sử; kết hợp phương pháp phân tích, tổng hợp,
so sánh, thống kê...
- Kế thừa một cách chọn lọc các thành tựu nghiên cứu có liên quan đến
luận văn.
4.3.Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu đội ngũ công nhân trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong thời
kỳ đổi mới từ 1986 đến nay.
5. Đóng góp mới của luận văn
Nghiên cứu một cách hệ thống thực trạng đội ngũ công nhân ở Thái
Nguyên, dự báo xu hướng biến động của nó, trên cơ sở đó đưa ra một số giải
pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò đội ngũ công nhân ở Thái Nguyên trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
6. Ý nghĩa của luận văn
7
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần tạo lập cơ sở khoa học để các
cấp lãnh đạo, quản lý ở tỉnh Thái Nguyên tham khảo, vận dụng trong việc xây
dựng chính sách nhằm xây dựng và củng cố đội ngũ công nhân trên địa bàn toàn
tỉnh.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ giảng dạy nghiên
cứu về giai cấp công nhân ở các trường chính trị tỉnh, thành phố.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được chia làm 3 chương, 6 tiết.
8
Chương 1. GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM VÀ ĐỘI NGŨ CÔNG
NHÂN THÁI NGUYÊN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM VỚI QUÁ TRÌNH CÔNG

NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1.1. Về giai cấp công nhân và giai cấp công nhân Việt Nam
1.1.1.1. Khái niệm về giai cấp công nhân
Khái niệm về giai cấp công nhân được đề cập đến ngay khi giai cấp công
nhân xuất hiện trên vũ đài chính trị. Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu tùy thuộc ở
lập trường giai cấp, thái độ chính trị, trình độ nhận thức và phương pháp tiếp cận
khác nhau đưa ra nhiều ý kiến không giống nhau, thậm chí trái ngược nhau. Đến
nay giai cấp công nhân là gì? Nó còn hay đã "biến mất"? Địa vị kinh tế - xã hội
của nó ra sao? tất cả vẫn đang là trọng điểm nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa
học trên thế giới. Thực tiễn cho thấy, quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
giai cấp công nhân vẫn hàm chứa tính khách quan và khoa học hơn cả bởi nó
dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận biện chứng duy vật. Trong rất
nhiều tác phẩm của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xem xét khái niệm giai cấp
công nhân trên tất cả các khía cạnh, các dấu hiệu đặc trưng nhất và các thuộc
tính bản chất của nó. Chẳng hạn như, ngay từ 1845, khi bắt tay vào nghiên cứu
giai cấp công nhân trong tác phẩm "Gia đình thần thánh" C.Mác đã đặt câu hỏi:
"Vấn đề là ở chỗ giai cấp vô sản thực sự là gì, và phù hợp với sự tồn tại ấy của
bản thân nó giai cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử" [33, tr.56].
Cũng trong giai đoạn này, C.Mác và Ph.Ăngghen còn bàn nhiều và đã sử
dụng nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ về giai cấp công nhân như trong Lời nói
đầu tác phẩm: "Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hêghen" (1844). C.Mác
đã chỉ ra nguồn gốc kinh tế, xã hội và xu hướng phát triển của giai cấp công
nhân - ở đây C.Mác sử dụng thuật ngữ giai cấp vô sản. Theo C.Mác: "Giai cấp
vô sản Đức là con đẻ của nền đại công nghiệp non trẻ đang hình thành ở Đức".
9
Quan điểm của Mác không những chỉ rõ giai cấp vô sản được hình thành từ
CNTB công nghiệp mà còn là đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ đang trong
giai đoạn hình thành và phát triển.
Trong tác phẩm "Tình cảnh những người lao động ở Anh" (1844-1845).
Ph.Ăngghen khẳng định:

Giai cấp công nhân Anh là kết quả chủ yếu của cuộc cách mạng công
nghiệp ở Anh. Lịch sử giai cấp công nhân Anh bắt đầu từ nửa thứ hai của thế kỷ
XVIII. Công nghiệp nhỏ đã làm nảy sinh ra giai cấp tư sản, công nghiệp lớn đã nảy
sinh ra giai cấp công nhân. Công nhân công nghiệp là hạt nhân của phong trào
công nhân [33, tr.354].
Ngoài ra, C.Mác và Ph.Ăngghen còn sử dụng một số thuật ngữ khác
ngoài "giai cấp vô sản", "giai cấp công nhân" để biểu đạt khái niệm "giai cấp
công nhân". Chẳng hạn như: "giai cấp vô sản công nghiệp", "giai cấp vô sản
hiện đại", "giai cấp công nhân hiện đại', "giai cấp công nhân công xưởng, nhà
máy", "giai cấp công nhân đại cơ khí"... Bên cạnh đó, trong một số điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể, các ông còn sử dụng một số hình thức diễn đạt khác như
"lao động làm thuê", "giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ sống dựa vào bán sức lao
động của mình", "giai cấp của những người hoàn toàn không có của", "giai
cấp công nhân làm thuê thế kỷ XIX"... Có thể khẳng định rằng, các thuật ngữ
đã nêu chỉ là sự khác nhau về hình thức biểu đạt trong những văn cảnh cụ thể
của một khái niệm: "Giai cấp công nhân" với sự thống nhất về bản chất: lực
lượng lao động trong nền sản xuất công nghiệp hiện đại.
C.Mác, Ph.Ăngghen phân biệt giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử
thế giới và bản chất cách mạng với bộ phận công nhân đã bị tha hóa, đánh
mất mình bằng những thuật ngữ đối ngược nhau: giữa một bên là "giai cấp vô
sản cách mạng" với một bên là "tầng lớp vô sản lưu manh" mất gốc, những
phần tử cặn bã của xã hội, và như vậy cũng đồng nghĩa với việc phân biệt giai
cấp công nhân cách mạng với bộ phận công nhân đã khuất phục, trở thành
công cụ của giai cấp tư sản để phá hoại phong trào công nhân từ bên trong,
10
mưu toan kìm hãm và khuôn cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân trong trật
tự của "chủ nghĩa tư bản" vì mục tiêu kinh tế và lợi ích tầm thường do hệ tư
tưởng tư sản và tiểu tư sản thao túng mà ở đây các ông đã sử dụng thuật ngữ:
"Công nhân quý tộc". Theo các ông "công nhân quý tộc" và tầng lớp vô sản
lưu manh không còn là bộ phận của giai cấp công nhân nữa mà đã trở thành

một bộ phận của giai cấp tư sản hoặc đã là tầng lớp cặn bã của xã hội.
Tựu chung lại, tuy có khác nhau trong cách gọi, cách diễn đạt tùy từng
hoàn cảnh lịch sử. Nhưng những thuật ngữ không giống nhau nêu trên về khái
niệm giai cấp công nhân đều được các nhà kinh điển Mác xít sử dụng như một
khái niệm đồng nhất dựa trên hai tiêu chí cơ bản để phân định giai cấp công
nhân với các giai tầng xã hội khác là:
Vị trí của giai cấp công nhân trong lực lượng sản xuất
Giai cấp công nhân là những người (tập đoàn người) lao động trực tiếp
hay gián tiếp vận hành công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện
đại và xã hội hóa, quốc tế hóa cao. Đây cũng là tiêu chí cơ bản phân biệt người
công nhân hiện đại với người thợ thủ công thời trung cổ hay người thợ trong
công trường thủ công. C.Mác chỉ rõ: "Trong công trường thủ công và trong nghề
thủ công, người công nhân sử dụng công cụ của mình, còn trong công xưởng thì
người công nhân phải phục tùng máy móc" [36, tr.605]. Điều đó cho thấy, hai
ông luôn nói đến giai cấp công nhân với tư cách là tập đoàn người bao gồm
những công nhân công xưởng, là sản phẩm của nền đại công nghiệp và phát
triển cùng với sự phát triển của đại công nghiệp. Theo các ông: "Các giai cấp
khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp,
còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp" [33,
tr.610] hay "Công nhân là một phát minh của thời đại mới, giống như máy móc
vậy". Như vậy, giai cấp công nhân ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát
triển của đại công nghiệp. Chính vì thế giai cấp công nhân là hiện thân của lực
lượng sản xuất hiện đại, đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến và mang trong
mình những đặc trưng riêng có mà không một giai tầng nào có được đó là: Tính
11
tiên tiến, hiện đại, tinh thần khoa học và cách mạng triệt để; ý thức tổ chức kỷ
luật; tình đoàn kết giai cấp.
Vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa:
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người không
có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động, làm thuê cho nhà tư bản và bị nhà tư

bản bóc lột giá trị thặng dư.
Giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp công
nhân hiện đại - tức giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm,
nếu lao động của họ tăng thêm tư bản cũng phát triển theo. Những công nhân ấy,
buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là món
hàng đem bán như bất cứ món hàng nào khác; vì thế, họ phải chịu hết sự may rủi
của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường... [34, tr.605].
Điều này đã khiến giai cấp công nhân trở thành giai cấp đối kháng với
giai cấp tư sản.
Xuất phát hai tiêu chí trên, trong "Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng
sản" (1847) Ph.Ăngghen đã đưa ra định nghĩa về giai cấp công nhân:
Giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc
bán sức lao động của mình chứ không phải sống bằng lợi nhuận của bất cứ số tư
bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc hay đau khổ, sống và chết toàn bộ sự
sống còn của họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động, tức là vào tình hình chuyển
biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những sự biến động của cuộc cạnh tranh
không gì ngăn cản nổi. Nói tóm lại, giai cấp vô sản hay giai cấp của những người
vô sản là giai cấp lao động làm thuê trong thế kỷ XIX... giai cấp vô sản là do cuộc
cách mạng công nghiệp sản sinh ra [34, tr.456-457].
Như vậy, mặc dù C.Mác và Ph.Ăngghen chưa nêu lên thành một định
nghĩa hoàn chỉnh về giai cấp công nhân, nhưng qua những tác phẩm của mình,
với những cách tiếp cận khác nhau các ông đã nêu một cách khách quan nhất
những đặc trưng cơ bản, những thuộc tính bản chất của giai cấp công nhân, nhờ
12
đó, khiến người ta có thể dễ dàng nhận diện được giai cấp công nhân trong xã
hội tư bản chủ nghĩa.
Phát triển học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen trong thời đại mới, thời
đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản - thời đại chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Lênin đã bổ sung, phát triển những thuộc tính mới của giai cấp công nhân. Lênin
chỉ rõ: Sự phân chia giai cấp trong xã hội phải dựa vào địa vị và sự khác nhau

của các tập đoàn người trong quan hệ đối với chế độ sở hữu tư liệu sản xuất,
trong quan hệ đối với quản lý sản xuất, trong quan hệ phân phối sản phẩm.
Từ nhận thức mới về giai cấp như vậy, trong rất nhiều tác phẩm của mình
như "Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga", "Nhà nước và cách mạng",
"Sáng kiến vĩ đại"... Lênin đã chỉ ra rằng, sau khi cách mạng vô sản thành công,
giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp cầm quyền. Địa vị kinh tế - xã hội của
giai cấp công nhân đã hoàn toàn thay đổi, từ thân phận nô lệ làm thuê trở thành
giai cấp thống trị về chính trị, thông qua Đảng tiên phong của mình lãnh đạo
toàn xã hội cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Theo Lênin, giai cấp công nhân là giai cấp thống trị về chính trị, là giai
cấp lãnh đạo toàn xã hội trong cuộc đấu tranh lật đổ tư bản, trong sự nghiệp sáng
tạo ra xã hội mới, trong toàn bộ cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các giai
cấp. Xu hướng phát triển của giai cấp công nhân là đi tới tự thủ tiêu mình với tư
cách là giai cấp...
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và sự tác động mạnh mẽ của nó
vào mọi khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội đã không những làm cho quan
hệ giai cấp, dân tộc và cuộc đấu tranh giai cấp, dân tộc dịu đi mà nó diễn ra ngày
càng gay gắt với những biểu hiện hết sức phức tạp. Điều đó đã khiến nhiều nhà
nghiên cứu trên thế giới trong đó có nước ta đưa ra quan niệm mới về giai cấp
công nhân trong thời đại ngày nay.
Trước hết phải kể đến định nghĩa của các tác giả trong công trình: "Một
số vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay: "Giai cấp công
nhân là giai cấp những người lao động hoạt động sản xuất trong các ngành công
13
nghiệp thuộc các trình độ kỹ thuật khác nhau mà địa vị kinh tế - xã hội tùy thuộc
vào chế độ xã hội đương thời: ở các nước tư bản, họ là những người không có
hoặc cơ bản không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị
giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; ở các nước xã hội chủ nghĩa, họ là những
người đã cùng nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và
cùng hợp tác lao động cho mình [22, tr.97].

Tiếp đến là định nghĩa trong cuốn "Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học"
do Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa
học Mác - Lênin đã viết: Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định hình
thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại và
nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp hoặc tham
gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ
xã hội, là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội. Ở các nước tư bản, giai cấp công nhân là những người không
có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê cho giai cấp tư sản và
bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; ở các nước XHCN, họ là người đã
cùng nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau
hợp tác lao động vì lợi ích chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng
của bản thân họ.
Ngoài ra, một số Trung tâm như Trung tâm Nghiên cứu thông tin lý luận -
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Viện Công nhân và công đoàn Tổng Liên
đoàn lao động Việt Nam... cũng đưa ra định nghĩa về giai cấp công nhân trên cơ
sở hai tiêu chí cơ bản mà các nhà kinh điển Mác xít đã nêu.
Về phía cá nhân các nhà nghiên cứu, có một số định nghĩa sau:
GS.TS Đỗ Nguyên Phương trong tác phẩm: "Những vấn đề chính trị - xã
hội của cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta" do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
và Nhà xuất bản Khoa học - kỹ thuật phát hành năm 1993, viết: "Giai cấp công
nhân là một tập đoàn xã hội hình thành và phát triển cùng với cách mạng công
nghiệp, là lực lượng sản xuất cơ bản, tiên tiến trong sản xuất của cải vật chất và
14
cải tạo các quan hệ xã hội, động lực chính của tiến trình lịch sử từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội" [40, tr.55].
GS. Phạm Xuân Nam trong cuốn "Đổi mới chính sách xã hội, luận cứ và
giải pháp", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997 đưa ra định nghĩa:
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội rộng lớn những người lao
động làm việc trong các ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ công nghiệp có

thu nhập chủ yếu bằng tiền lương hoặc tiền công, do trực tiếp vận hành những
tư liệu sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng hiện đại trong các ngành
then chốt của nền kinh tế quốc dân, đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến...
[39, tr.31].
Nhìn chung các định nghĩa đã nêu đều thống nhất khi tập trung đề cập tới
khía cạnh bản chất của giai cấp công nhân là người lao động công nghiệp gắn
với khoa học, kỹ thuật công nghệ cao, địa vị kinh tế - xã hội, vai trò và sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân... Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ đã diễn ra với tốc độ rất nhanh và đang tác động
trực tiếp, sâu sắc tới sự biến đổi về cơ cấu, số lượng, chất lượng, ngành nghề,
phương thức và phong cách lao động cũng như năng lực trí tuệ của giai cấp công
nhân. Vì vậy, sẽ không thể đưa ra một định nghĩa về giai cấp công nhân một
cách khoa học, nếu như không đổi mới nhận thức về giai cấp công nhân trong sự
phát triển của kinh tế tri thức. Một vấn đề nữa gây nhiều tranh cãi về định nghĩa
giai cấp công nhân là địa vị của nó trong chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội
trong giai đoạn hiện nay là gì?
Một là, ở các nước TBCN hiện nay một bộ phận công nhân có cổ phần, cổ
phiếu.
Hai là, ở các nước xã hội chủ nghĩa đang tiến hành đường lối phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế đó, ngoài bộ
phận công nhân trong thành phần kinh tế nhà nước còn có bộ phận công nhân
trong các thành phần kinh tế tư bản tư nhân và thành phần kinh tế có vốn đầu tư
15
nước ngoài vẫn là công nhân làm thuê và vẫn bị bóc lột về giá trị thặng dư, do
vậy vấn đề làm chủ của giai cấp công nhân sẽ như thế nào?
Trên cơ sở cơ sở kế thừa tư tưởng của các nhà kinh điển Mác xít; những
điểm cơ bản của các định nghĩa nêu trên kết hợp với thực tiễn phong trào công
nhân, chúng tôi xin đưa ra định nghĩa về giai cấp công nhân như sau:
Giai cấp công nhân là một tập đoàn người ổn định, hình thành và phát
triển cùng với nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại, là lực lượng sản

xuất cơ bản và tiên tiến của thời đại ngày nay, là lực lượng lãnh đạo và là động
lực chủ yếu của quá trình chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội ở mỗi nước và trên phạm vi toàn thế giới. Trong các nước tư bản
chủ nghĩa do không có hoặc cơ bản không có những tư liệu sản xuất chủ yếu của
xã hội, họ phải bán sức lao động làm thuê cho giai cấp tư sản và bị bóc lột giá trị
thặng dư; trong các nước xã hội chủ nghĩa, họ cùng nhân dân lao động làm chủ
các tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động sáng tạo vì lợi ích
chung toàn xã hội và của bản thân giai cấp mình.
1.1.1.2. Khái niệm về giai cấp công nhân Việt Nam
Giai cấp công nhân Việt Nam là một bộ phận của giai cấp công nhân thế
giới ra đời ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Do hoàn cảnh, đặc điểm ra đời và
phát triển giai cấp công nhân Việt Nam sớm trở thành một lực lượng chính trị
độc lập, thống nhất trong cả nước, nhanh chóng vươn lên nắm quyền lãnh đạo
cách mạng. Điều đó khẳng định: giai cấp công nhân Việt Nam vừa có đầy đủ
những đặc điểm của giai cấp công nhân nói chung, đồng thời còn có những nét
riêng biệt do hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở Việt Nam quy định. Giai cấp công nhân
Việt Nam là gì? bao gồm những bộ phận nào? giai cấp công nhân Việt Nam có
vai trò lịch sử của nó trong cách mạng Việt Nam như thế nào là những vấn đề
cần phải nghiên cứu.
Xuất phát từ những yêu cầu đó, khi nghiên cứu về giai cấp công nhân Việt
Nam các nhà khoa học ở nước ta đã đưa ra khá nhiều quan niệm khác nhau. Thí
dụ:
16
GS. Trần Văn Giàu trong cuốn: Giai cấp công nhân Việt Nam, sự hình
thành và phát triển của nó từ giai cấp tự mình đến giai cấp cho mình (Nxb Sự
thật, Hà Nội, 1958), mặc dù không đưa ra một định nghĩa cụ thể về giai cấp
công nhân Việt Nam song toàn bộ công trình đã thể hiện rất rõ nội hàm khái
niệm giai cấp công nhân Việt Nam từ khi mới hình thành và vai trò của nó trong
tiến trình cách mạng Việt Nam.
Trong cuốn: "Đổi mới chính sách đối với công nhân và thợ thủ công" của

Trung tâm nghiên cứu thông tin lý luận, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam đưa
ra định nghĩa:
Giai cấp công nhân Việt Nam là một tập đoàn xã hội những người lao
động ở Việt Nam có thu nhập chủ yếu bằng lao động làm công ăn lương, sống
và làm việc gắn với sản xuất, kinh doanh, dịch vụ công nghiệp. Do nắm giữ
những cơ sở vật chất then chốt và đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến của
xã hội nên giai cấp công nhân tất yếu có vai trò đi tiên phong trong tiến trình
phát triển của lịch sử hiện đại [43, tr.113].
Tác giả Đan Tâm trong bài "Vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam hiện
đại - một cách tiếp cận" lại khẳng định:
Giai cấp công nhân Việt Nam là cộng đồng xã hội những người làm công
ăn lương, nguồn thu nhập chủ yếu bằng tiền công; trực tiếp tham gia vào quá
trình sản xuất công nghiệp, tạo ra sản phẩm công nghiệp hoặc có tính công
nghiệp; nắm giữ những cơ sở vật chất kỹ thuật then chốt của xã hội và tiêu biểu
cho phương thức sản xuất tiên tiến của xã hội [42, tr.29].
Định nghĩa của GS. Văn Tạo trong tác phẩm "Một số vấn đề về giai cấp
công nhân và công đoàn Việt Nam" thì cho rằng:
Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay là một tập đoàn những người lao
động có thu nhập chủ yếu bằng lao động làm công ăn lương sống và làm việc gắn
với sản xuất kinh doanh, dịch vụ công nghiệp. Do lao động và quản lý một nền
công nghiệp hiện đại, then chốt của nền kinh tế quốc dân và đại diện cho lực lượng
17
sản xuất tiên tiến trong xã hội nên giai cấp công nhân Việt Nam có vai trò đi tiên
phong trong tiến trình phát triển lịch sử của xã hội Việt Nam [41, tr.39].
Bên cạnh đó, cũng còn có một số định nghĩa về giai cấp công nhân Việt
Nam của các tác giả như GS. Cao Văn Lượng, TS. Bùi Đình Bôn và một vài quan
niệm một số tác giả trong các luận án tiến sĩ và thạc sĩ triết học gần đây.
Trên cơ sở khái niệm giai cấp công nhân nói chung, căn cứ những đặc
trưng riêng của giai cấp công nhân Việt Nam gắn với thực tiễn cách mạng Việt
Nam, đồng thời kế thừa các công trình nghiên cứu trước đây về giai cấp công

nhân Việt Nam, chúng tôi hiểu về giai cấp công nhân Việt Nam như sau:
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ đầu thế kỷ XX gắn liền với sự xuất
hiện các cơ sở kinh tế của tư sản Pháp, là một tập đoàn gồm những người lao
động trên lĩnh vực công nghiệp với trình độ kỹ thuật hiện đại và xã hội hóa ngày
càng cao, thu nhập chủ yếu của họ là tiền công. Họ là lực lượng tiên phong trong
quá trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và đang lãnh đạo quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm xây dựng một nền kinh tế hiện đại, xây
dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;
đảm bảo giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự nghiệp
cách mạng thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
1.1.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển của giai cấp
công nhân
1.1.2.1. Về khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình phát triển tất yếu của thời đại
ngày nay, là con đường đưa mỗi quốc gia thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với các nước khác trên thế giới và khu vực. Không phải đến bây giờ,
các quốc gia trên thế giới mới tiến hành công nghiệp hóa mà công nghiệp hóa đã
được khởi đầu từ cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra ở Anh cuối thế kỷ XVIII
và sau đó kéo theo một loạt nước khác ở Tây Âu (Hà Lan, Pháp, Đức, Italia...).
Mặc dù công nghiệp hóa được tiến hành sớm như vậy nhưng phải mãi đến cuối
thế kỷ XIX thuật ngữ "công nghiệp hóa" mới xuất hiện với ý nghĩa là biến một
18
lĩnh vực sản xuất nào đó sang hoạt động theo tính chất của công nghiệp cơ khí.
Mãi đến nửa sau thế kỷ XX, khái niệm công nghiệp hóa mới được hiểu như một
giai đoạn lịch sử phát triển kinh tế mà nội dung của nó bao hàm cuộc cách mạng
công nghiệp. Từ đó đến nay, cùng với hàng loạt các cuộc cách mạng công
nghiệp: từ kỹ thuật cơ khí giản đơn với máy hơi nước làm động lực tới cơ khí
phức tạp với động cơ đốt trong rồi điện năng và các dạng năng lượng mới làm
động lực, tiếp theo đó là tự động hóa, điện tử hóa... Quan niệm về công nghiệp
hóa dần được mở rộng trên nhiều khía cạnh và lĩnh vực nghiên cứu khác nhau:

Ví dụ: quan niệm của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu
(cũ) cho rằng: "Công nghiệp hóa là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ
khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp. Đó là sự phát triển công nghiệp nặng
với ngành trung tâm là chế tạo máy" [25, tr.49].
Năm 1963 UNIDO (Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc)
đã đưa ra định nghĩa:
Công nghiệp hóa là một quá trình phát triển kinh tế trong đó một bộ phận
năng lực quốc gia ngày càng lớn được huy động để xây dựng cơ cấu kinh tế
nhiều ngành với công nghiệp hiện đại để chế tạo ra các phương tiện sản xuất,
hàng tiêu dùng, có khả năng đảm bảo một nhịp tăng trưởng cao trong toàn nền
kinh tế và đảm bảo sự tiến bộ kinh tế và xã hội [5, tr.6]...
Tóm lại: Tuy có rất nhiều quan niệm khác nhau về công nghiệp hóa nhưng
chủ yếu là hai quan niệm sau:
Một là: Theo nghĩa hẹp, công nghiệp hóa là quá trình phát triển công
nghiệp trong một thời kỳ nhất định, trong đó nền sản xuất xã hội được tổ chức
theo lối công nghiệp dựa trên cơ sở thay thế lao động thủ công bằng máy móc và
máy móc chiếm ưu thế.
Hai là: Theo nghĩa rộng, công nghiệp hóa là quá trình công nghiệp liên
tục, cải tổ thường xuyên cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hiện đại, ngày
càng đa dạng.
19
Có nhiều quan niệm khác nhau về công nghiệp hóa như vậy là bởi trên
thực tế, công nghiệp hóa là quá trình phức tạp, lâu dài mà việc phân biệt các
mốc giới, định tính, định lượng và về thời gian không phải là điều dễ dàng. Mặt
khác, sự biểu hiện về mô hình của nó gắn với mỗi quốc gia dân tộc do những
điều kiện, hoàn cảnh khác nhau cũng không thể thuần nhất. Dù như vậy, cũng
cần hiểu một cách khái quát nhất: Công nghiệp hóa là quá trình phát triển kinh tế
diễn ra lâu dài, bắt đầu từ khi xuất hiện công nghiệp và đến khi nền kinh tế với
công nghiệp phát triển cao cũng chưa phải là điểm kết thúc mà lại có thể là mở
đầu cho một cuộc cách mạng công nghiệp mới.

Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, nghèo
nàn, hậu quả chiến tranh nặng nề lại phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến
lược xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc XHCN, Đảng ta đã sớm nhận thức
được vị trí vai trò của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngay từ Đại hội III Đảng
ta đã xác định công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ, cách
mạng kỹ thuật giữ vị trí then chốt. Tiếp sau đó Đại hội IV, V, tư tưởng này lại
được tiếp tục khẳng định. Tuy nhiên trong thời gian này tư tưởng công nghiệp
hóa chủ yếu tập trung phát triển công nghiệp nặng mặc dù có được điều chỉnh
qua các kỳ Đại hội IV, V: Công nghiệp hóa chính là "quá trình thực hiện cách
mạng kỹ thuật, thực hiện sự phân công mới về lao động xã hội và là quá trình
tích luỹ xã hội chủ nghĩa để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng" [12,
tr.182]. Đường lối đưa ra để tiến hành công nghiệp hóa lúc đó được xác định:
Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Khách quan mà đánh giá, quan niệm và cách tiến hành đó là phù hợp với
điều kiện hiện tại của nước ta và thế giới trong bối cảnh đất nước có chiến tranh
và tồn tại sự độc lập giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa.
Trên thực tế, chúng ta đã xây dựng được một số cơ sở công nghiệp quan trọng
then chốt cho nền kinh tế quốc dân. Nhưng về cơ bản nước ta vẫn là một nước
20
nông nghiệp lạc hậu, tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân còn rất
thấp.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) bên cạnh việc tiếp
tục khẳng định vị trí nền tảng của công nghiệp trong thời kỳ quá độ, đã có sự
chuyển hướng chiến lược về công nghiệp hóa từ ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng sang lấy nông nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu làm trọng tâm. Từ đó đến nay, việc nhận thức về đường lối công nghiệp
hóa được đưa ra từng bước phù hợp với tình hình cụ thể của đất nước. Công
nghiệp hóa có thể hiểu một cách cơ bản:
Là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xã hội theo hướng phát triển

mạnh công nghiệp, tạo ra sự vượt trội của công nghiệp trong cơ cấu kinh tế và
cơ cấu lao động, áp dụng rộng rãi với hiệu quả cao những tiến bộ khoa học,
công nghệ mới hiện đại, làm nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển nhanh,
vững chắc của toàn bộ nền kinh tế - xã hội [45, tr.63].
Quan niệm này không những phản ánh được nội dung của quá trình công
nghiệp hóa mà nêu bật được mục tiêu công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa chính
là quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành kinh
tế quốc dân, bao hàm tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động chứ không riêng
chỉ phát triển ở lĩnh vực công nghiệp.
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ
đã tiến lên một nấc thang mới, loài người đang bước vào kinh tế tri thức. Vì vậy,
công nghiệp hóa đòi hỏi phải gắn với quá trình hiện đại hóa, kể cả những nước
có nền kinh tế lạc hậu như nước ta. Không thể tiến hành công nghiệp hóa theo
kiểu "cổ điển" như ở phương Tây thế kỷ XVIII mà công nghiệp hóa phải gắn với
việc tận dụng những thành quả khoa học - kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến
của thế giới. Công nghệ truyền thống gắn với ứng dụng thành tựu khoa học công
nghệ tiên tiến của thời đại, là giải pháp quyết định đưa nước ta thoát khỏi đói
nghèo lạc hậu và nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế - công nghiệp hóa phải gắn
với hiện đại hóa. Hay nói cách khác, để có quan niệm đúng đắn, đầy đủ về công
21
nghiệp hóa phải đặt nó trong mối quan hệ với hiện đại hóa. Tất nhiên công
nghiệp hóa và hiện đại hóa là hai khái niệm khác nhau nhưng lại đan xen, tích
hợp, lồng ghép và bổ sung cho nhau. Nếu như công nghiệp hóa là quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển mạnh công nghiệp thì hiện đại
hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh
doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ chỗ theo những quy trình công nghệ
thủ công là chính sang chỗ sử dụng một cách phổ biến những quy trình công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của tiến bộ
khoa học - kỹ thuật, tạo ra năng suất lao động, hiệu quả và trình độ văn minh kinh
tế xã hội cao [45, tr.63].

Sự gắn kết giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã và đang trở thành xu thế
tất yếu của các nước đang phát triển. Nó trở thành khái niệm "kép" trong nhận
thức về mục tiêu phát triển kinh tế của nhiều quốc gia.
Trên tinh thần đó, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa
VII đã xác định nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta là:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện
các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng
lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng
với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát
triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động
xã hội cao [14, tr.65].
Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng ta đã phản ánh
được phạm vi rộng lớn, xác định được vai trò quan trọng của công nghiệp và
khoa học - công nghệ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó thực
chất là quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải biến
nước ta thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu
kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của sức
sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc,
22
thực hiện mục tiêu: dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đánh giá một cách khách
quan, khoa học những tiền đề được tạo ra sau 10 năm đổi mới đã chỉ rõ: nước ta
đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và đã chuyển sang thời kỳ phát triển
mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu:
Xây dựng nước ta thành một nước có cơ sở - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu
kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển lực
lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững
chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến năm 2020,
ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp [15, tr.80].

Nước ta với gần 80% dân cư là nông dân, 70% lực lượng lao động làm
nông nghiệp, thu nhập từ nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu
nhập quốc dân, thì vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân vẫn là cơ sở của sự
phát triển xã hội. Bởi vậy, giai đoạn đầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
trước hết và thực chất là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
mà nội dung cơ bản của nó là thực hiện sự chuyển đổi cơ bản cơ cấu kinh tế, cơ
cấu xã hội nông thôn, nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ trong
sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới.
1.1.2.2. Sự tác động qua lại giữa quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và sự phát triển của giai cấp công nhân
Khi luận chứng về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, chủ nghĩa Mác -
Lênin đã khẳng định rằng: Vai trò, vị trí của giai cấp công nhân được xác định
từ vai trò của đại công nghiệp, của lực lượng sản xuất mà giai cấp công nhân là
người đại diện. Đại công nghiệp đã sinh ra giai cấp công nhân, đồng thời cũng là
cơ sở vật chất thông qua đó, giai cấp công nhân tác động vào tiến trình phát triển
xã hội như một lực lượng chủ đạo. Như vậy, có thể thấy rằng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và sự phát triển của giai cấp công nhân có mối quan hệ biện chứng.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều kiện để giai cấp công nhân phát triển về
số lượng và chất lượng, đáp ứng được yêu cầu đặt ra của quá trình công nghiệp
23
hóa, hiện đại hóa. Ngược lại, sự phát triển về mặt số lượng, chất lượng của giai
cấp công nhân cũng sẽ tác động trở lại, là nguyên nhân, là nhân tố cơ bản quyết
định thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: Giai cấp
công nhân vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều kiện để giai cấp công nhân phát
triển và lớn mạnh về mọi mặt.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường phát triển tất yếu của xã hội
loài người, là con đường duy nhất đưa nước ta thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn
về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên để có thể

tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải có được một lực lượng
lao động phát triển hiện đại. Sự thiếu hụt trầm trọng đội ngũ công nhân lành
nghề có thể áp dụng được khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ tiên tiến
vào sản xuất đang là một lực cản đối với sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã
hội. Đại hội Đảng lần thứ VIII, khi quyết định đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, cũng chỉ ra rằng: Một trong những tiền đề quan trọng bậc nhất để đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là phải nâng cao trình độ và phát
triển nguồn nhân lực trong đó phát triển và nâng cao nguồn nhân lực từ giai cấp
công nhân. Như vậy, có thể khẳng định rằng: Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới và sự hình thành, phát
triển các khu công nghiệp, khu chế xuất đã kéo theo và đặt ra những yêu cầu
mới về số lượng, cơ cấu, chất lượng của lực lượng lao động xã hội đặc biệt là
công nhân, đội quân nòng cốt đi tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Thứ nhất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều kiện để giai cấp công
nhân phát triển về số lượng.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà trọng tâm trong
những năm đầu thế kỷ XXI là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn; cơ cấu nền kinh tế sẽ có chuyển dịch sâu sắc. Xu hướng giảm dần tỷ trọng
24
nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ sẽ là điều kiện phát triển
mạnh mẽ số lượng giai cấp công nhân. Đường lối đổi mới của Đảng đã tác động
mạnh mẽ đến sự biến động và đặt ra yêu cầu phát triển đối với giai cấp công
nhân. Hiện nay, đội ngũ công nhân nước ta không đơn thuần làm việc trong các
doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tập thể mà gồm cả những công nhân làm
việc trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp doanh, công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... và cả đội
ngũ công nhân, lao động làm thuê, làm công hưởng lương trong các cơ sở sản
xuất, kinh doanh cá thể. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tính đến đầu năm
2004, đội ngũ công nhân làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp và cơ sở sản

xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế là 7,396 triệu (56% nam, 44%
nữ) chiếm 9,14% dân số, 17,49% lực lượng lao động xã hội. Như vậy sau gần 10
năm số lượng công nhân nước ta đã tăng 2,64 lần so với năm 1995, trong đó, số
lượng công nhân doanh nghiệp nhà nước tăng 1,17 lần; số lượng công nhân
doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 4,77 lần, số lượng doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài tăng 8,77 lần, số lượng công nhân thuộc các cơ sở sản xuất, kinh
doanh cá thể tăng 4,8 lần.
Trong quá trình đổi mới, cơ cấu kinh tế, số lượng công nhân đã có sự
chuyển dịch theo hướng tăng công nhân thuộc lĩnh vực công nghiệp, xây dựng,
dịch vụ và giảm số lượng công nhân thuộc lĩnh vực nông lâm thủy sản. Trong
các loại hình doanh nghiệp, công nhân làm trong lĩnh vực công nghiệp và xây
dựng chiếm 70,9%, trong lĩnh vực dịch vụ và thương mại chiếm 24,3%, trong
lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 4,8%. Trong các cơ sở sản xuất, kinh
doanh cá thể thì chủ yếu công nhân hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ và thương
mại ước tính khoảng 66,67%.
Thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng: Việt Nam muốn là bạn với tất
cả các nước, đặc biệt sau khi Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 được ban hành,
nước ta đã tiếp nhận được rất nhiều dự án và vốn đầu tư nước ngoài. Tính từ
năm 1988 đến đầu năm 2004 theo số liệu của Tổng cục thống kê dựa trên kết
25

×