Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

hoàn thiện phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước trong quá trình cổ phần hoá ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 132 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ


PHẠM ĐÌNH VŨ


HOÀN THIỆN PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH CỔ
PHẦN HÓA Ở VIỆT NAM



NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. LÊ MINH NGHĨA



LUẬN VĂN ThS. KINH DOANH VÀ QUẢN LÝ



HÀ NỘI 2006






126


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ5
1.1- KHÁI NIỆM DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ SỰ CẦN THIẾT
PHẢI XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 5
1.1.1- KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC 5
1.1.2- SỰ CẦN THIẾT XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP 9
1.1.2.1. GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG 9
1.1.2.2. XÁC ĐỊNH GÍA TRỊ DOANH NGHIỆP LÀ GÌ? 12
1.1.2.3. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH
NGHIỆP 13
1.1.2.4. MộT Số YÊU CẦU KHI XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH
NGHIỆP 15
1.2. CÁC PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP 17
1.2.1 PHƯƠNG PHÁP TÀI SẢN( GIÁ TRỊ TÀI SẢN RÒNG) 17
1.2.2 PHƯƠNG PHÁP DÒNG TIỀN CHIẾT KHẤU 20
1.2.2.1 - PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH GIÁ CỔ PHIẾU 21
1.2.2.2 - PHƯƠNG PHÁP HIỆN TẠI HOÁ LỢI NHUẬN THUẦN .26
1.2.2.3 - PHƯƠNG PHÁP HIỆN TẠI HOÁ DÒNG TIỀN THUẦN .28
1.2.3. PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH LƯỢNG LỢI THẾ THƯƠNG MẠI
(GOODWILL) 32
1.2.4. PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH GIÁ DỰA VÀO PRICE EARNING
RATIO (PER) 38
1.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VỀ XÁC
ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH
NGHIỆM CHO VIỆT NAM 41

1.3.1. ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở PHÁP 41


127
1.3.2. ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC CỦA TRUNG
QUỐC 43
1.3.3. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM 44
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VIỆC ỨNG DỤNG CÁC PHƯƠNG
PHÁP XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG
QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA Ở VIỆT NAM 46
2.1. CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM 46
2.1.1 SỰ CẦN THIẾT PHẢI THỰC HIỆN CỔ PHẦN HOÁ
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM 46
2.1.1.1 VAI TRÒ VÀ THỰC TRẠNG CỦA KHU VỰC KINH TẾ
NHÀ NƯỚC 46
2.1.1.2 TÁC DỤNG CỦA CỔ PHẦN HOÁ 48
2.1.2 KHÁI QUÁT TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM 49
2.2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XÁC ĐỊNH GÍA TRỊ DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ Ở VIỆT
NAM 56
2.2.1 QUY TRÌNH ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP 56
2.2.2 CÁC PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH
NGHIỆP PHỔ BIẾN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY (THEO CÁC VĂN
BẢN PHÁP QUY HIỆN HÀNH) 57
2.2.2.1. PHƯƠNG PHÁP TÀI SẢN 57
2.2.2.2. PHƯƠNG PHÁP DÒNG TIỀN CHIẾT KHẤU 60
2.3 ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT VỀ PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH GIÁ
TRỊ DOANH NGHIỆP ĐÃ SỬ DỤNG TRÊN CÁC VĂN BẢN PHÁP
QUY CỦA NHÀ NƯỚC THỜI GIAN QUA.(NGHỊ 63

2.3.1 ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 63
2.3.2.1. NHỮNG ƯU ĐIỂM CƠ BẢN VỀ PHƯƠNG PHÁP XÁC
ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP ĐÃ ÁP DỤNG 65
2.3.2.2.NHỮNG HẠN CHẾ CƠ BẢN VÀ NGUYÊN NHÂN 65


128
2.4- KHẢO SÁT THỰC TIỄN VIỆC ÁP DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP
ĐỊNH GIÁ TRONG HOẠT ĐỘNG XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 76
2.4.1 XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP TẠI CÔNG TY
THAN HÀ TU 76
2.4.1.1 MỘT SỐ THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ CÔNG TY THAN HÀ
TU 76
* ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH SẢN XUẤT KINH DOANH 77
2.4.1.2 ĐÁNH GIÁ VỀ CÔNG TY 79
2.4.2. ĐÁNH GIÁ VỀ VIỆC ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP XÁC
ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP TẠI CÔNG TY 80
CHƯƠNG III: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN PHƯƠNG
PHÁP XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG
QÚA TRÌNH CỔ PHẦN HÓA Ở VIỆT NAM 83
3.1 XU HƯỚNG CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở
VIỆT NAM 83
3.1.1 QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA VỀ ĐỔI MỚI
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 83
3.1.2 ĐỊNH HƯỚNG TRONG THỜI GIAN TỚI 84
3.2 CÁC ĐIỀU KIỆN CHỦ YẾU ĐỂ ÁP DỤNG THÀNH CÔNG
PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
85

3.2.1. CẦN PHẢI CÓ MỘT HỆ THỐNG VĂN BẢN PHÁP LÝ
HOÀN CHỈNH 85
3.2.2 CẦN PHẢI CÓ CÁC ĐIỀU KIỆN TIỀN ĐỀ CHO VIỆC TỔ
CHỨC XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP PHỤC VỤ MỤC
ĐÍCH CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 87
3.2.3. CẦN NÂNG CAO TÍNH CÔNG KHAI, MINH BẠCH THEO
NGUYÊN TẮC THỊ TRUỜNG 87
3.3. GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH
GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM 88


129
3.3.1. NHẬN THỨC RÕ VÀ ĐÚNG VỀ GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP
88
3.3.2 CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHƯƠNG PHÁP XÁC
ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC CỔ PHẦN HOÁ Ở
VIỆT NAM 89
3.3.2.1. HOÀN THIỆN PHƯƠNG PHÁP TÀI SẢN 89
3.3.2.2. HOÀN THIỆN PHƯƠNG PHÁP DÒNG TIỀN CHIẾT
KHẤU 96
3.3.2.3.MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHỤ TRỢ 109
3.4 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHƯƠNG PHÁP
XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ
TRÌNH CỔ PHẦN HÓA Ở VIỆT NAM 114
3.4.1. VỚI NHÀ NƯỚC 114
3.4.1.1. TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP
LÝ VỀ XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP VÀ CÁC VẤN ĐỀ
CÓ LIÊN QUAN 114
3.4.1.2. ĐƠN GIẢN HÓA THỦ TỤC TRONG QUY TRÌNH XÁC
ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP 116

3.4.1.3. PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 117
3.4.1.4. THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN NHANH, ĐA DẠNG HÓA
CÁC TỔ CHỨC TƯ VẤN XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP
VỚI QUY MÔ KHÁC NHAU 118
3.4.1.5. QUỐC TẾ HÓA HOẠT ĐỘNG XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ
DOANH NGHIỆP 118
3.4.2. VỚI CÁC TỔ CHỨC TƯ VẤN, XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ
DOANH NGHIỆP 119
3.4.2.1. NÂNG CAO TÍNH CHUYÊN NGHIỆP TRONG QUÁ
TRÌNH XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP 119
3.4.2.2. THỰC HIỆN, HỢP TÁC LIÊN KẾT VỚI CÁC TỔ CHỨC
NƯỚC NGOÀI TRONG QUÁ TRÌNH XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ
DOANH NGHIỆP 120
3.4.3. VỚI DOANH NGHIỆP CẦN ĐỊNH GIÁ 121


130
3.4.3.1. NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG SXKD, ĐẶC BIỆT
LÀ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP. 121
3.4.3.2. CÔNG KHAI, MINH BẠCH VÀ LÀNH MẠNH HÓA CÁC
THÔNG TIN VỀ DOANH NGHIỆP ĐẶC BIỆT LÀ CÁC THÔNG
TIN VỀ TÀI CHÍNH KẾ TOÁN NHẰM TẠO THUẬN LỢI CHO
QUÁ TRÌNH XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP. 122
KẾT LUẬN 123



























1
MỞ ĐẦU

1- Tính cấp thiết của đề tài
Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nƣớc đƣợc xem là một trong những giải
pháp chủ yếu có tính đột phá về chất, một chủ truơng đúng đắn của Đảng và
Nhà nƣớc trong tiến trình đổi mới cải cách DNNN, hội nhập và phát triển. Để
tiến trình cổ phần hoá DNNN đƣợc diễn ra nhanh, mạnh và vững chắc đòi hỏi
phải có sự phối kết hợp của nhiều yếu tố trong đó yếu tố xác định giá trị doanh
nghiệp giữ vị trí đặc biệt quan trọng.

Thực tiễn ở Việt Nam hiện nay cho thấy tiến trình cổ phần hoá DNNN
mặc dù đã gặt hái đƣợc những thành tựu bƣớc đầu đáng ghi nhận, song vẫn còn
chậm và chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu đặt ra. Một trong những nguyên nhân dẫn
tới tình trạng trên là do công tác xác định giá trị DNNN cổ phần hoá còn gặp
nhiều khó khăn cả về xây dựng khung pháp lý lẫn tác nghiệp. Giá trị doanh
nghiệp không đƣợc xác định đúng sẽ làm ảnh hƣởng đến quyền lợi của nhà đầu
tƣ trên thị trƣờng hoặc làm tổn thất tài sản của Nhà nƣớc. Xác định giá trị
doanh nghiệp lại càng trở nên phức tạp hơn trong một nƣớc mà thị truờng
chứng khoán (cơ chế xác định giá trị tài sản) chƣa phát triển toàn diện, các
doanh nghiệp chƣa có thói quen hoạt động theo nguyên tắc công khai thông tin
quản lý, tài chính. Vì vậy, việc tìm kiếm một giải pháp khả thi cho vấn đề mang
tính thời sự nóng bỏng này luôn là một thách thức đối với các nhà nghiên cứu,
quản trị và thực hành.
Trƣớc bối cảnh đó, đề tài: “Hoàn thiện phương pháp xác định giá trị
doanh nghiệp Nhà nước trong quá trình cổ phần hóa ở Việt Nam” đƣợc ra
đời với mong muốn có một vài đóng góp nhằm tháo gỡ những vƣớng mắc
trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá ở Việt Nam.

2- Tình hình nghiên cứu.
Đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề xác định giá trị
doanh nghiêp với những quy mô và mục đích khác nhau. Cụ thể là: “ Hoàn
thiện phƣơng pháp xác định giá trị doanh nghiệp ở Việt Nam” - Luận án Tiến sĩ
- Nguyễn Minh Hoàng; “Xác định mô hình định giá DNNN trong quá trình cổ


2
phần hoá ở Việt Nam” - Luận án tiến sĩ - Nghiêm Sỹ Thƣơng; “Xác định giá trị
doanh nghiệp ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp” - Trịnh Hữu Hạnh, Tạ Huy
Đăng; “Một số vấn đề về phƣơng pháp dòng tiền chiết khấu”- Tiến sĩ Nguyễn
Thế Khải; “Vấn đề xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp trong cổ phần hoá”

- Ths. Trần Việt Đức, Ths. Nguyễn Quốc Hoàng; “Xác định giá trị doanh
nghiệp kết quả thực tế và những bài học kinh nghiệm” - Trung tâm thẩm định
giá Miền Nam; “ Hoàn thiện phƣơng pháp xác định giá trị doanh nghiệp trong
cổ phần hoá và chuyển đổi DNNN ở Việt Nam”- Ths. Trần Việt Anh, Ths. Đào
Nguyên Hƣơng …Tuy nhiên vấn đề định giá doanh nghiệp là vấn đề luôn
mang tính thời sự và chƣa bao giờ cũ, việc hoàn thiện phƣơng pháp xác định
giá trị doanh nghiệp vẫn là một yêu cầu bức thiết đặt ra cho nƣớc ta trong quá
trình chuyển đổi doanh nghiệp nhà nƣớc hiện nay.
Mặt khác, ở mỗi giác độ khác nhau thì mỗi tác giả sẽ có những cách tiếp
cận vấn đề không giống nhau, từ đó sẽ hình thành nên những quan điểm khác
nhau về cùng một vấn đề. Vì thế, việc nghiên cứu, khảo sát để dần hoàn thiện
phƣơng pháp xác định giá trị doanh nghiệp vẫn cần đƣợc tiếp tục.

3- Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
* Với định hƣớng đã nêu, luận văn theo đuổi các mục tiêu sau đây:
- Thông qua khảo sát thực tiễn về hoạt động xác định giá trị doanh
nghiệp, luận văn đề xuất một số giải pháp hoàn thiện phƣơng pháp xác định giá
trị doanh nghiệp vừa có tính khả thi, vừa phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt
Nam nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng định giá doanh nghiệp.
- Đƣa ra những khuyến nghị với Chính phủ nhằm bổ sung những điểm
chƣa phù hợp trong hệ thống các văn bản pháp lý về xác định giá trị doanh
nghiệp, đồng thời tạo môi trƣờng thuận lợi cho hoạt động xác định giá trị
DNNN trong quá trình CPH ở Việt Nam.
- Góp phần hoàn thiện hệ thống kiến thức về quản trị doanh nghiệp nói
chung và quản trị tài chính doanh nghiệp nói riêng.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận cũng nhƣ thực tiễn có liên quan đến vấn đề
xác định giá trị doanh nghiệp.



3
- Đƣa ra bức tranh toàn cảnh về công tác xác định giá trị doanh nghiệp ở
Việt Nam thời gian qua từ đó chỉ ra những mặt tích cực cần phát huy cũng nhƣ
những mặt hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới.
- Luận văn sẽ bƣớc đầu tìm hiểu và đề xuất những giải pháp góp phần
hoàn thiện phƣơng pháp xác định giá trị doanh nghiệp nhà nƣớc trong quá trình
cổ phần hoá ở Việt Nam

4- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Trên cơ sở nghiên cứu một cách hệ thống các môn khoa học có liên
quan, luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu các yếu tố cấu thành và tác động tới
giá trị doanh nghiệp, cơ sở lý luận của việc xây dựng mô hình định giá. Nghiên
cứu kinh nghiệm xác định giá trị doanh nghiệp tại một số quốc gia từ đó ứng
dụng vào thực tiễn ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu là tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt động xác
định giá trị doanh nghiệp tại các doanh nghiệp nhà nƣớc khi chuyển đổi hình
thức sở hữu thành công ty cổ phần ở Việt Nam thời gian qua – Giai đoạn từ
năm 2002 đến nay thông qua quá trình nghiên cứu các văn bản pháp luật (Nghị
định 187 của Chính phủ, Thông tƣ 126 của Bộ Tài chính),

5- Phương pháp nghiên cứu.
Để làm rõ nội dung cơ bản đề tài đã xác định, trong quá trình nghiên
cứu và khảo sát thực tế để hoàn thiện đề tài, tác giả đã vận dụng một số phƣơng
pháp nhƣ: Phƣơng pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phân tích tổng
hợp, thống kê so sánh và dự báo.
Bƣớc đầu luận văn đã tiếp cận và vận dụng các phƣơng pháp hiện đại
trong nghiên cứu và phân tích kinh tế nhƣ: Phƣơng pháp hồi quy tƣơng quan;
Phƣơng pháp SWOT…
Luận văn coi trọng quan điểm về thực tiễn, đúc kết kinh nghiệm từ thực
tiễn, khảo sát ý kiến chuyên gia trong phƣơng pháp nghiên cứu.

Trên quan điểm hệ thống và toàn diện, luận văn nghiên cứu hoạt động
xác định giá trị doanh nghiệp trong mối quan hệ biện chứng với tổng thể các
hoạt động, các ngành kinh tế khác.


4

6- Những đóng góp của luận văn.
-Hệ thống hoá cơ sở lý luận có liên quan đến vấn đề xác định giá trị
doanh nghiệp.
- Phân tích, đánh gía thực trạng hoạt động xác định giá trị doanh nghiệp
trong giai đoạn hiện nay, từ đó chỉ rõ những ƣu, nhƣợc điểm của các phƣơng
pháp định giá đang đƣợc áp dụng ở Việt Nam.
- Làm rõ một số nhân tố ảnh hƣởng tới chất lƣợng định giá doanh
nghiệp, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện phƣơng pháp xác định giá trị
doanh nghiệp nhà nƣớc trong tiến trình cổ phần hoá ở Việt Nam

7- Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục
đính kèm, luận văn gôm 3 chƣơng sau:
- Chương 1: Những vấn đề cơ bản về xác định giá trị doanh nghiệp
nhà nước trong quá trình cổ phần hoá
- Chương 2: Thực trạng công tác xác định giá trị doanh nghiệp Nhà
nước trong quá trình cổ phần hóa ở Việt Nam
- Chương 3: Một số đề xuất nhằm hoàn thiện phương pháp xác định
giá trị doanh nghiệp nhà nước trong quá trình cổ phần hóa ở Việt Nam.

















5


CHƢƠNG1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP
NHÀ NƢỚC TRONG QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ

1.1- Khái niệm doanh nghiệp Nhà nước và sự cần thiết phải xác định giá trị
doanh nghiệp Nhà nước
1.1.1- Khái niệm, đặc điểm và vai trò của doanh nghiệp Nhà nước
*Khái niệm về DNNN:
Lịch sử phát triển của các nền kinh tế thế giới cho thấy trong nền kinh tế
thị trƣờng, DNNN là một trong những công cụ quan trọng nhất để Nhà nƣớc
can thiệp, điều chỉnh thị trƣờng và đẩy nhanh phát triển kinh tế. Vậy DNNN là
gì?
Ở nƣớc ta, theo Luật Doanh nghiệp nhà nƣớc năm 2003 thì DNNN đƣợc
quan niệm : “ Doanh nghiệp nhà nƣớc là tổ chức kinh tế do Nhà nƣớc sở hữu
toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, đƣợc tổ chức dƣới hình

thức công ty nhà nƣớc, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn”.
Ở nƣớc Anh, ngay từ năm 1956 khi thành lập Uỷ ban đặc biệt về quốc
hữu hóa công nghiệp đã quy định DNNN phải có đủ 3 điều kiện sau: Một là,
hội đồng quản trị doanh nghiệp do Chính phủ bổ nhiệm; Hai là, Uỷ ban quốc
hữu hóa công nghiệp kiểm tra tài khoản kinh doanh của doanh nghiệp; Ba là,
thu nhập của doanh nghiệp phần lớn không dựa vào sự cung cấp của quốc hội
hoặc cơ quan tài chính nhà nƣớc.
Ở nƣớc Pháp, DNNN đƣợc xác định là những doanh nghiệp thỏa mãn đủ
3 điều kiện: Một là, tính công hữu của quyền sở hữu doanh nghiệp, nhờ đó
chính phủ xác lập đƣợc địa vị lãnh đạo của nhà nƣớc đối với doanh nghiệp; Hai
là, có địa vị pháp nhân độc lập, nghĩa là địa vị của nó trong quá trình kinh tế
giống nhƣ các doanh nghiệp pháp nhân khác; Ba là, thực hiện các hoạt động
công thƣơng độc lập, quy định nó là tổ chức kinh tế có hạch toán lỗ lãi chứ
không phải là đơn vị hành chính sự nghiệp của chính phủ.


6
Các tổ chức quốc tế nhƣ Liên hợp quốc, Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ
quốc tế đã đƣa ra 3 đặc điểm chính của DNNN là: Một là, chính phủ là cổ đông
chính trong doanh nghiệp, hoặc nếu không thì chính phủ có thể thực hiện việc
kiểm soát những chính sách chung mà doanh nghiệp theo đuổi và bổ nhiệm
hoặc cách chức ban quản lý doanh nghiệp; Hai là, doanh nghiệp có nhiệm vụ
sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ bán cho công chúng, hoặc cho các doanh
nghiệp tƣ nhân, DNNN khác. Ba là, doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về thu
chi trong hoạt động về sản xuất kinh doanh.
* Đặc điểm của DNNN:
Từ những nội dung trên, chúng ta có thể thấy DNNN có những điểm
chung là: Nhà nước sở hữu phần lớn vốn của doanh nghiệp, nhờ đó có thể gây
ảnh hưởng có tính chi phối trực tiếp hoặc gián tiếp đối với các doanh nghiệp;
Các doanh nghiệp đều tổ chức theo chế độ công ty là một pháp nhân; Nguồn

thu chủ yếu đều từ hoạt động kinh doanh và thường phải thực hiện song song
cả mục tiêu sinh lợi lẫn mục tiêu xã hội.
Sự phát triển của DNNN ở các nƣớc trên thế giới đã góp phần không
nhỏ trong việc thực hiện các mục tiêu của chính phủ đặt ra nhƣ tạo của cải cho
xã hội, đóng góp tài chính cho nhà nƣớc, góp phần tạo ra công ăn việc làm,
đem lại thu nhập cho nhiều ngƣời lao động và tạo thế cho nhà nƣớc trong việc
giải quyết các vấn đề kinh tế-xã hội của đất nƣớc. DNNN thƣờng có một khối
lƣợng vốn rất lớn và ngƣời sở hữu số vốn đó chính là nhà nƣớc. Sản phẩm của
các doanh nghiệp nhà nƣớc sản xuất thƣờng là những sản phẩm có tính đặc thù,
đòi hỏi vốn lớn, hoặc những sản phẩm mà nhà nƣớc muốn giữ độc quyền trong
việc sản xuất.
Tuy nhiên, các DNNN ở các nƣớc trên thế giới đều có một căn bệnh
chung, đó là hiệu quả kinh tế thấp hơn nhiều so với các công ty tƣ nhân. Sự
thua lỗ của DNNN đã dẫn đến sự thâm hụt lớn của ngân sách nhà nƣớc, làm rối
loạn khả năng điều hành kinh tế vĩ mô.
Có thể nói những tiêu cực, hạn chế trong DNNN đều nảy sinh từ tính
chất phi thƣơng mại của chúng do sở hữu thuộc về nhà nƣớc. Ngƣời quản lý
DNNN không có quyền linh hoạt đối phó với những điều kiện thay đổi của thị
trƣờng bằng khu vực kinh tế tƣ nhân, do đó làm tăng thêm chi phí đầu vào của


7
họ. Các tổ chức lao động trong các DNNN mạnh hơn trong khu vực tƣ nhân
nên các doanh nghiệp ít có khả năng thay đổi đầu vào về nguồn lao động của
mình cho phù hợp với điều kiện khách quan bên ngoài doanh nghiệp. Bên cạnh
đó, việc quyết định các mặt hàng sản xuất nhiều khi thuộc quyền của chính phủ,
doanh nghiệp không thể đa dạng hóa một cách dễ dàng đầu ra của mình cho
phù hợp với nhu cầu của thị trƣờng. Và trong khi các công ty tƣ nhân lấy lợi
nhuận tối đa làm mục đích bao trùm thì các DNNN nhiều khi phải đầu tƣ phù
hợp với kế hoạch quốc gia hoặc phải hy sinh lợi nhuận để thực hiện các mục

tiêu xã hội. Một hệ quả khác của quyền sở hữu nhà nƣớc là chủ thể sở hữu
không có mối liên hệ lợi ích bao nhiêu đối với sự thành công hay thất bại của
doanh nghiệp. Không những thế, các DNNN vẫn đƣợc hƣởng những ƣu đãi, có
đƣợc những thế mạnh từ phía nhà nƣớc hỗ trợ. Do đó, DNNN dễ dựa dẫm vào
nhà nƣớc, không nỗ lực tự vƣợt qua khó khăn. Điều này cũng dẫn đến sự kém
hiệu quả trong hoạt động của DNNN.
* Vai trò của DNNN:
Sự ra đời và tồn tại của các DNNN ở mỗi nƣớc trên thế giới đều do
những nguyên nhân kinh tế, xã hội nhất định chi phối. Do đó, vai trò của bộ
phận này đối với các nền kinh tế các nƣớc cũng khác nhau. Tuy mang những
đặc trƣng riêng nhƣng DNNN luôn có vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế
của mỗi nƣớc, cụ thể là:
- Thứ nhất, DNNN là một trong những thực lực quan trọng của nền kinh
tế.
Lịch sử kinh tế thế giới đã chứng minh, các nƣớc trên thế giới đều đã
duy trì, phát triển loại hình DNNN. Đây là một bộ phận đóng góp quan trọng
trong tổng thu nhập quốc dân và thu ngân sách nhà nƣớc ở mỗi quốc gia. Ở mỗi
quốc gia, trong mỗi thời kỳ khác nhau, vai trò này có những sự chuyển đổi
không giống nhau.
Thứ hai, DNNN là công cụ hữu hiệu để nhà nƣớc thực hiện chức năng
điều tiết nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trƣờng, do sự tác động của bàn tay vô hình đã tạo
ra nhiều khuyết tật cho nền kinh tế, lợi ích của các doanh nghiệp luôn khác
nhau và không phải luôn hoàn toàn thống nhất với lợi ích của toàn xã hội. Do


8
vậy, nếu không đƣợc điều chỉnh sẽ dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp sẽ tự
vận động và phát triển theo từng xu hƣớng riêng vốn có của mình, điều đó sẽ
làm cho nền kinh tế phát triển theo hƣớng mất cân đối, dễ dẫn đến sự khủng

hoảng và suy thoái nền kinh tế. Để điều chỉnh, nhà nƣớc sử dụng hệ thống các
chính sách, pháp luật tạo hành lang và tạo ra sự kích thích, điều tiết quan trọng
nhằm vừa phát huy thế mạnh vốn có, vừa bảo đảm hành lang cần thiết hƣớng
vào mục tiêu chung. Đó là hƣớng quan trọng nhất, song chỉ riêng điều đó là
chƣa đủ. Nhà nƣớc cần có một thực lực kinh tế, một sức mạnh nằm ngay trong
đời sống kinh tế xã hội, thông qua điều hành trực tiếp các DNNN mà tác động
gián tiếp vào các doanh nghiệp thuộc các khu vực kinh tế khác phát triển theo
quỹ đạo của mình từ đó góp phần làm cho nền kinh tế tăng trƣởng và phát triển
ổn định.
Thứ ba, DNNN là công cụ để nhà nƣớc thực hiện các chức năng quản lý
xã hội của mình.
Trong nền kinh tế thị trƣờng, các doanh nghiệp luôn hƣớng tới mục tiêu
là tối đa hóa lợi nhuận trong kinh doanh. Do vậy, các doanh nghiệp thƣờng đầu
tƣ vào những ngành, những lĩnh vực có thể đạt đƣợc mục tiêu của họ. Còn các
ngành, các lĩnh vực khó khăn mang lại lợi nhuận ít hoặc không có lợi nhuận thì
họ không đầu tƣ. Song chính các ngành, lĩnh vực này đƣợc đầu tƣ thì lại có ý
nghĩa hoặc hiệu quả rất lớn về mặt xã hội và không thể thiếu đƣợc. Để thực
hiện chức năng xã hội của mình, nhà nƣớc buộc phải đầu tƣ vào các lĩnh vực
trên dƣới hình thức là các DNNN công ích, sản xuất và cung ứng các dịch vụ
công cộng hoặc phục vụ quốc phòng, an ninh.
Thứ tư, thông qua các DNNN mà nhà nƣớc tác động trực tiếp đến sự
phân bổ các nguồn lực. Do kinh tế thị trƣờng chạy theo lợi nhuận và tự do cạnh
tranh, mặt khác do các nguồn lực kinh tế của đất nƣớc đƣợc phân bổ không
đồng đều nên không phát huy đƣợc tổng thể các nguồn lực kinh tế. Nhờ các
DNNN, nhà nƣớc đã điều chỉnh và tác động trực tiếp đến việc phân bổ này
trong xã hội, đảm bảo phát huy tối đa các nguồn lực của đất nƣớc.
Ở Việt Nam, ngoài những vai trò then chốt trên, DNNN còn giữ một vai
trò đặc biệt quan trọng. DNNN là nhân tố mang đầy đủ bản chất của nền kinh tế
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nó giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân,



9
làm nền móng, làm nòng cốt cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nƣớc.

1.1.2- Sự cần thiết xác định giá trị doanh nghiệp
1.1.2.1. Giá trị doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.1.2.1.1. Các khái niệm cơ bản
* Doanh nghiệp và giá trị của nó
Doanh nghiệp là một thực thể kinh tế đồng thời cũng là một loại hàng
hoá cho dù nó có những nét đặc thù: nó sản xuất ra của cải và cung cấp dịch vụ.
Doanh nghiệp có điều lệ hoạt động mang tính pháp lý, nó cấu thành một địa vị
ƣu đãi cho việc cụ thể hoá các quan hệ kinh tế, xã hội. Việc đánh giá về mặt tài
chính có quan hệ tới doanh nghiệp nhƣ là vật trao đổi giữa ngƣời mua và ngƣời
bán dựa trên một thị trƣờng có tổ chức - Thị trƣờng chứng khoán. Giá trị của
doanh nghiệp ngoài việc đƣợc xác định dựa trên cơ sở những tài sản mà nó hiện
có còn tuỳ thuộc vào khả năng sinh lợi của nó trong tƣơng lai thông qua hoạt
động sản xuất sản phẩm và cung cấp dịch vụ. Một doanh nghiệp có thể có tài
sản hiện tại là rất nhỏ nhƣng ngƣời mua (các nhà đầu tƣ) vẫn có thể sẵn sàng trả
giá cao nếu doanh nghiệp đó có thể mang lại cho họ những khoản thu nhập hấp
dẫn trong tƣơng lai. Ngƣợc lại, một doanh nghiệp có thể có khối lƣợng tài sản
lớn ở hiện tại nhƣng cũng khó có thể gây sự chú ý tới các nhà đầu tƣ nếu triển
vọng hoạt động của nó trong tƣơng lai là u ám, trừ trƣờng hợp các nhà đầu tƣ
mua doanh nghiệp với mục đích “mua đi bán lại” nhằm hƣởng chênh lệch giá.
Việc đánh giá doanh nghiệp liên quan đến nhiều thời điểm khác nhau
của chính đời sống doanh nghiệp : từ ngày đầu thành lập cho tới ngày thanh lý,
giải thể, phá sản doanh nghiệp. Việc xác định giá trị doanh nghiệp thƣờng đƣợc
tiến hành vào thời điểm có sự chuyển nhƣợng quyền sở hữu của một doanh
nghiệp đang hoạt động. Trong một vài trƣờng hợp, việc đánh giá có thể chỉ liên
quan tới một bộ phận của doanh nghiệp với điều kiện bộ phận đó có thể đƣợc

nêu danh rõ ràng và tách biệt khỏi toàn bộ doanh nghiệp.
* Giá trị tài chính
Khái niệm nói trên tƣơng ứng với một hình ảnh xác thực của doanh
nghiệp trong một thời điểm nhất định. Nó không chú ý tới các điều kiện đã hình


10
thành nên tài sản của doanh nghiệp trong quá trình hoạt động và theo đó không
chú ý tới khả năng sinh lời hoặc các rủi ro, thua lỗ có thể xuất hiện trong tƣơng
lai. Ngƣời mua tiến hành việc mua doanh nghiệp với hy vọng kiếm đƣợc lợi
nhuận dƣới dạng cổ tức đƣợc phân chia và các khoản thu nhập dƣới dạng giá trị
siêu ngạch khi bán lại doanh nghiệp đó. Họ tiến hành một cuộc mua bán đối
chiếu với các chứng khoán khác hiện có sẵn, hoặc của các doanh nghiệp, hoặc
của việc bỏ vốn thuần tuý tài chính. Giá trị tài chính thƣờng bắt nguồn từ cái
nhìn bên ngoài của doanh nghiệp và các chuyển dịch trên chứng khoán đƣợc
thực hiện mà không có ý đồ làm thay đổi việc quản lý và kiểm soát.
* Giá trị kinh tế
Trong nhiều trƣờng hợp, giá trị tài chính của doanh nghiệp bộc lộ những
hạn chế vì ngƣời mua coi doanh nghiệp chỉ thuần tuý nhƣ một hàng hoá thông
thƣờng có thể mua đi bán lại để kiếm lời. Vì thế, một quan điểm khác về giá trị
đã đƣợc bổ sung, đó chính là giá trị kinh tế của doanh nghiệp. Để xác định tốt
hơn các khả năng phát triển cũng nhƣ khả năng sinh lời cùng với các kỳ vọng
tƣơng lai của doanh nghiệp, giá trị kinh tế của doanh nghiệp đòi hỏi một sự hiểu
biết doanh nghiệp về mặt cấu trúc của nó. Nó giả thiết một cuộc chẩn đoán tổng
thể của doanh nghiệp diễn ra bằng các yếu tố thặng dƣ hoặc thiếu hụt của tài
sản và bằng việc định lƣợng các yếu tố về rủi ro hoặc thành công mà nó phải
tính tới trong các dự toán và trong việc vốn hoá các kết quả. Trong trƣờng hợp
này, doanh nghiệp đƣợc nhìn nhận nhƣ một dự án kinh tế. Ở đây, nhà đầu tƣ
không phải mua doanh nghiệp với mục đích thu đƣợc một khoản lợi từ việc bán
lại doanh nghiệp đó, điều mà họ quan tâm chính là luồng thu nhập mà doanh

nghiệp đó mang lại trong tƣơng lai.
*Giá trị lợi thế thƣơng mại (goodwill)
Khi giá trị cuối cùng hay giá tiền khác với giá trị tài sản hữu hình đã
đƣợc kiểm kê thì chính là vì còn phải kể đến sự đánh giá các yếu tố vô hình.
Các yếu tố vô hình này tập trung lại thành khái niệm “Lợi thế thƣơng mại”.
Theo đó, doanh nghiệp là một tổng thể vô cùng phức tạp của các yếu tố góp
phần tạo nên sự thành công mà không có cách nào kiểm kê, đánh giá từng yếu
tố một cách rõ ràng và riêng biệt.


11
Giá trị của các yếu tố vô hình thƣờng đƣợc xác định nhƣ là hiệu số giữa
giá trị kiểm kê và giá trị kinh tế, hoặc nhƣ là việc vốn hoá một phần lợi nhuận.
1.1.2.1.2. Khái niệm giá trị doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trƣờng, doanh nghiệp đƣợc coi nhƣ một loại hàng
hoá, nó cũng có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng. Tuy nhiên doanh
nghiệp lại là một loại hàng hoá đặc biệt vì doanh nghiệp là một hệ thống phức
tạp của nhiều yếu tố cấu thành và mối quan hệ giữa các yếu tố đó. Có những
yếu tố vật chất nhƣ các tài sản hữu hình song cũng có những yếu tố phi vật chất
nhƣ tài sản vô hình. Giá trị của các yếu tố cấu thành tài sản của doanh nghiệp
lại luôn thay đổi theo thời gian. Nhìn chung, giá trị doanh nghiệp bao gồm 3 bộ
phận chính: Giá trị tài sản hữu hình của doanh nghiệp; giá trị quyền sử dụng
đất; giá trị lợi thế thƣơng mại.
Mặc dù đƣợc coi nhƣ một loại hàng hoá nhƣng không phải bất cứ ai có
tiền cũng có thể mua đƣợc doanh nghiệp, bởi lẽ doanh nghiệp không phải là
một hàng hoá thông thƣờng mà là một hệ thống phức tạp của nhiều yếu tố cấu
thành và có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Vì vậy, việc xác định giá trị và giá trị
trao đổi của nó phức tạp hơn nhiều so với các hàng hoá khác. Khi nhìn nhận giá
trị doanh nghiệp dƣới góc độ này, cần chú ý tới một số vấn đề sau:
Thứ nhất: Doanh nghiệp là một tổ chức, một thực thể hoạt động chứ

không phải là các tài sản rời rạc được tập hợp vào nhau. Khi hoạt động, các tài
sản trong doanh nghiệp gắn kết với nhau để tạo ra giá trị và giá trị thặng dƣ cho
doanh nghiệp nhƣng khi giải thể, phá sản nó chỉ đơn giản là một sự hỗn hợp các
loại tài sản đơn lẻ, rời rạc mà ngƣời ta có thể thanh lý, nhƣợng bán nhƣ hàng
hoá thông thƣờng nhƣng với một mức giá rất rẻ so với giá trị thực của nó. Do
vậy, giá trị doanh nghiệp là một khái niệm chỉ đƣợc dùng cho những doanh
nghiệp còn đang hoạt động và sẵn sàng hoạt động.
Thứ hai: Doanh nghiệp là một loại hàng hoá đơn chiếc. Mỗi doanh
nghiệp đều có những đặc điểm riêng về cơ sở vật chất, kỹ thuật, về vị trí địa lý
và về vị thế kinh doanh. Vì thế, giá trị doanh nghiệp là giá cá biệt, đơn chiếc,
không giống nhau và có nhiều mức giá khác nhau.
Thứ ba: Doanh nghiệp được coi là tế bào của nền kinh tế. Sự tồn tại của
mỗi doanh nghiệp luôn đặt trong mối quan hệ chung với các phần tử khác của


12
nền kinh tế. Sự tồn tại đó không chỉ đƣợc quyết định bởi các mối quan hệ trong
nội bộ doanh nghiệp mà còn bởi các mối quan hệ với các yếu tố bên ngoài nhƣ:
khách hàng, ngƣời cung cấp, ngƣời cho vay, luật pháp, lạm phát, tỷ giá Sự
hoạt động của doanh nghiệp thực chất là sự thích ứng của doanh nghiệp với
môi trƣờng hoạt động của nó. Do đó, khi đánh giá giá trị doanh nghiệp không
chỉ đơn thuần bao gồm nội dung đánh giá về những tài sản trong doanh nghiệp,
mà điều quan trọng hơn là phải đánh giá nó về mặt tổ chức và sự thích ứng của
nó với môi trƣờng kinh doanh.
Thứ tư: Việc thành lập hay mua lại doanh nghiệp nhằm mục đích cơ bản
là tìm kiếm thu nhập phát sinh từ quyền sở hữu doanh nghiệp. Các nhà đầu tƣ
thành lập hay mua lại doanh nghiệp không phải với mục đích nắm quyền sở
hữu các tài sản hiện có tại doanh nghiệp hay nắm quyền sử dụng bộ máy kinh
doanh của doanh nghiệp mà nhằm vào mục tiêu là tìm kiếm thu nhập phát sinh
từ các quyền sở hữu đó. Điều họ quan tâm là sức sinh lời của doanh nghiệp, là

các khoản lợi nhuận kỳ vọng trong tƣơng lai. Chính vì vậy, giá trị của một
doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào các khoản thu nhập kỳ vọng và độ lớn
của giá trị doanh nghiệp cũng phụ thuộc vào độ lớn của các khoản thu nhập kỳ
vọng đó.
Từ các nhận xét trên, có thể thấy rằng: Doanh nghiệp là một hàng hoá
đặc biệt, vì vậy giá trị của doanh nghiệp là sự biểu hiện bằng tiền của các khoản
thu nhập mà doanh nghiệp đó mang lại cho các nhà đầu tƣ trong suốt quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sở các tài sản hiện có của doanh nghiệp.
1.1.2.2. Xác định gía trị doanh nghiệp là gì?
Để có một quan điểm đầy đủ và chính thức về xác định giá trị doanh
nghiệp cần đƣa ra một số nhận định cơ bản sau đây:
+ Thứ nhất: Giá trị doanh nghiệp là một khái niệm cơ bản khác với giá
bán của doanh nghiệp trên thị trƣờng. Giá trị của doanh nghiệp đƣợc đo bằng
độ lớn của các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể đem lại cho các nhà đầu
tƣ. Giá bán thực tế của doanh nghiệp là mức giá đƣợc hình thành trên thị
trƣờng, có thể có khoảng cách rất xa so với đánh giá của các chuyên gia kinh tế
và các nhà đầu tƣ. Giá mua bán của doanh nghiệp còn chịu sự tác động của các


13
yếu tố về cung cầu “hàng hoá doanh nghiệp” , cung cầu về chứng khoán và
cung cầu về tiền tệ trên thị trƣờng.
+ Thứ hai: Giá trị doanh nghiệp luôn tồn tại ngay cả khi không có sự
mua bán, chuyển nhƣợng hay chuyển đổi hình thức sở hữu. Giá trị doanh
nghiệp không chỉ đơn giản là một khái niệm đƣợc các nhà đầu tƣ, các chuyên
gia sử dụng trong việc đánh giá tổng thể các khoản thu nhập mà doanh nghiệp
có thể mang lại mà còn bao gồm cả các tài sản hữu hình và vô hình mà doanh
nghiệp hiện có. Để xác định giá trị doanh nghiệp thƣờng đòi hỏi phải có các
chuyên gia trong lĩnh vực thẩm định giá trị. Đó là một điều kiện cần thiết để
đảm bảo tính trung thực, vô tƣ, khách quan, hạn chế sự chi phối của yếu tố thị

trƣờng làm xuyên tạc, sai lệch giá trị thực của doanh nghiệp.
+ Thứ ba: Xác định giá trị doanh nghiệp không chỉ phục vụ cho việc
chuyển đổi hình thức sở hữu mà còn phục vụ cho nhiều hoạt động giao dịch
kinh tế khác nhƣ: xác định vị thế tín dụng, cung cấp thông tin cho hoạt động
quản lý kinh tế vĩ mô, cho hoạch định chiến lƣợc trong doanh nghiệp.
Nhƣ vậy, xác định giá trị doanh nghiệp về thực chất là việc lượng hoá
các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể tạo ra trong quá trình sản xuất
kinh doanh làm cơ sở cho các hoạt động giao dịch thông thường của thị
trường.
Có thể nói, quan điểm trên đây về giá trị doanh nghiệp và xác định giá trị
doanh nghiệp là một quan điểm hết sức cơ bản. Nó đƣợc coi là phƣơng châm
chi phối, xuyên suốt các phƣơng pháp xác định giá trị doanh nghiệp sau này, là
nền tảng cơ sở lý luận đối với tất cả các phƣơng pháp xác định giá trị doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trƣờng.
1.1.2.3. Sự cần thiết phải xác định giá trị doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trƣờng, doanh nghiệp đƣợc coi nhƣ một loại hàng
hoá. Chúng có thể đƣợc mua bán, trao đổi. Vì vậy mà nhu cầu đánh giá hay xác
định gía trị doanh nghiệp đƣợc xem là tất yếu. Trong việc điều hành kinh tế vĩ
mô của nhà nƣớc cũng nhƣ trong hoạt động quản trị kinh doanh của các doanh
nghiệp luôn cần thiết các thông tin về giá trị doanh nghiệp. Giá trị của doanh
nghiệp là bao nhiêu, cao hay thấp luôn là mối quan tâm của các pháp nhân và
thể nhân kinh tế có lợi ích liên quan và gắn bó trực tiếp với doanh nghiệp.


14
- Giá trị doanh nghiệp là cơ sở để tiến hành quá trình chuyển đổi (mua,
bán, khoán, cho thuê, cổ phần hoá). Đây là các hoạt động diễn ra thƣờng xuyên
trong cơ chế thị trƣờng, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. Nó phản ánh các
nhu cầu về đầu tƣ trực tiếp vào sản xuất kinh doanh, phản ánh nhu cầu đi tìm
nguồn tài trợ cho sự tăng trƣởng và phát triển bằng các yếu tố từ bên ngoài, làm

gia tăng một cách nhanh chóng tiềm lực tài chính, tăng cƣờng khả năng tồn tại
và phát triển trong môi trƣờng tự do cạnh tranh đối với các doanh nghiệp. Để
thực hiện các giao dịch đó, đòi hỏi phải có sự đánh giá trên một phạm vi rộng
lớn các yếu tố tác động tới doanh nghiệp, trong đó giá trị doanh nghiệp là một
yếu tố có tính quyết định, là căn cứ trực tiếp để các bên thoả thuận với nhau
trong quá trình chuyển đổi doanh nghiệp.
- Giá trị doanh nghiệp là căn cứ để đƣa ra các quyết định về sản xuất
kinh doanh, đầu tƣ.
- Giá trị doanh nghiệp phản ánh hình ảnh của doanh nghiệp trên thị
trƣờng, thu hút các nhà đầu tƣ.
- Giá trị của doanh nghiệp là cơ sở để đánh giá năng lực lãnh đạo của
ngƣời đứng đầu doanh nghiệp. Nội dung cốt lõi của quản trị tài chính doanh
nghiệp là tối đa hoá giá trị của doanh nghiệp. Giá trị của doanh nghiệp càng lớn
càng chứng tỏ năng lực lãnh đạo của các nhà quản trị là tốt và ngƣợc lại. Vì
vậy, việc xác định giá trị doanh nghiệp một cách thƣờng xuyên, định kỳ sẽ là cơ
sở quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động quản trị doanh nghiệp nói chung
và quản trị tài chính nói chung trong các doanh nghiệp.
- Giá trị doanh nghiệp cung cấp thông tin cho Nhà nƣớc trong quá trình
hoạch định chính sách điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Từ tất cả những nhận định đó có thể kết luận xác định giá trị doanh
nghiệp là một nhu cầu cấp bách và thƣờng xuyên. Đó vừa là những yêu cầu có
tính chất tình huống trong đời sống kinh tế nói chung, cũng vừa là đòi hỏi có
tính chất thƣờng nhật trong hoạt động sản xuất kinh doanh đối với các doanh
nghiệp nói riêng. Xác định giá trị doanh nghiệp chính là những đòi hỏi, là mối
quan tâm của ba loại chủ thể khác nhau đó là Nhà nƣớc, nhà đầu tƣ và nhà quản
trị doanh nghiệp. Tuy nhiên, xác định giá trị doanh nghiệp là một vấn đề không


15
đơn giản xét trên cả phƣơng diện lý luận và thực tiễn của nƣớc ta cũng nhƣ trên

thế giới.

1.1.2.4. Một số yêu cầu khi xác định giá trị doanh nghiệp
Là một hàng hoá đặc biệt có tính xã hội rất cao, giá trị doanh nghiệp cần
phải đƣợc xem xét dƣới ảnh hƣởng của các quy luật kinh tế khách quan của
kinh tế thị trƣờng cũng nhƣ ảnh hƣởng của hệ thống chính trị.
Các quy luật chủ yếu của nền kinh tế thị trƣờng không ngừng vận động,
gắn bó chặt chẽ với nhau trên cơ sở mối liên hệ phổ biến của các sự vật hiện
tƣợng cũng nhƣ sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Chính vì lẽ đó,
việc xác định giá trị doanh nghiệp cần phải đƣợc xem xét trên quan điểm lịch
sử cụ thể và phát triển toàn diện, dƣới sự chi phối của các quy luật khách quan
của nền kinh tế thị trƣờng và các nhân tố khác nhƣ điều kiện mua bán giữa các
bên có liên quan, sự quản lý điều tiết của chính phủ thông qua các chính sách
kinh tế.
1.1.2.4.1. Xác định giá trị doanh nghiệp phải căn cứ vào quy luật giá trị
Trong kinh tế chính trị, C. Mác đã chỉ rõ: Hàng hoá là sản phẩm do con
ngƣời sản xuất ra mà một là nó có thể thoả mãn một nhu cầu nào đó của con
ngƣời, hai là nó đƣợc sản xuất ra để bán, để trao đổi trên thị truờng chứ không
phải cho ngƣời sản xuất ra nó sử dụng.
Trong nền kinh tế thị trƣờng, hàng hoá bao gồm các sản phẩm hoặc dịch
vụ đƣợc đƣa ra trao đổi, mua bán trên thị trƣờng. Mọi hàng hoá đều có hai
thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng của hàng hoá phản ánh
công dụng của bản thân hàng hoá đó. Giá trị sử dụng chỉ đƣợc thể hiện thông
qua sử dụng, hay tiêu dùng. Giá trị của hàng hoá phản ánh lƣợng lao động xã
hội cần thiết kết tinh trong hàng hoá. Giá trị của hàng hoá chỉ đƣợc thể hiện
thông qua trao đổi, mua bán dƣới hình thức giá cả hàng hoá. Điều này có nghĩa
là giá cả hàng hoá đƣợc hình thành trên cơ sở giá trị.
Quy luật giá trị đòi hỏi giá trị hàng hoá phải đƣợc xác định trên cơ sở
hao phí lao động xã hội cần thiết và sự trao đổi ngang giá. Giá cả hàng hoá
đƣợc xác định trên cơ sở giá trị và không tách rời khỏi giá trị. Do vậy, với tƣ

cách là một hàng hoá, giá trị doanh nghiệp cũng tuân theo quy luật này. Tuy


16
nhiên cần nhấn mạnh rằng điều này chỉ hoàn toàn đúng trong điều kiện môi
trƣờng kinh tế ổn định, nền kinh tế nói chung và ngành kinh tế nói riêng đạt
trạng thái cân bằng, có sự phù hợp giữa cung và cầu.
1.1.2.4.2. Xác định giá trị doanh nghiệp phải trên cơ sở quy luật cung
cầu
Trong thực tế, thị trƣờng không ở trạng thái cân bằng tức là khi có sự dƣ
cung và dƣ cầu thì không thể chỉ dựa vào lƣợng lao động xã hội kết tinh trong
hàng hoá để xác định giá cả của nó. Lúc này, giá cả của hàng hoá tách rời giá trị
của nó. Rõ ràng là bất kỳ khi nào cung lớn hơn cầu thì hàng hoá dù có giá trị
cao cũng phải hạ thấp giá bán mới có thể bán đƣợc. Ngƣợc lại khi cầu lớn hơn
cung thì hàng hoá dù có giá trị xã hội thấp cũng có thể bán với giá cao hơn.
Mặc dù là một hàng hoá đặc biệt, song giá trị của doanh nghiệp cũng chịu sự
điều tiết của quy luật cung cầu.
Trong quá trình thiết lập giá trị doanh nghiệp có thể thấy rằng các hiện
tƣợng của quy luật cung cầu không biểu hiện thật rõ rệt và sôi động nhƣ các
hàng hoá thông thƣờng khác. Tuy nhiên không thể phủ nhận rằng những yếu tố
đó có ảnh hƣởng tới giá trị của doanh nghiệp mà ta đang xem xét.
1.1.2.4.3. Xác định giá trị doanh nghiệp phải tính đến quy luật lợi nhuận
Có thể nói, toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trƣờng đều chịu sự chi phối của quy luật lợi nhuận. Tối đa
hoá lợi nhuận là quy luật hàng đầu của mọi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
và là động lực chính cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Khi quyết định mua một doanh nghiệp, lợi ích của nhà đầu tƣ không chỉ
là để sở hữu giá trị của các tài sản hiện có của doanh nghiệp mà quan trọng hơn
chính là nhằm sở hữu khả năng thu đƣợc lợi nhuận trong tƣơng lai mà doanh
nghiệp mang lại. Khả năng này không chỉ phụ thuộc vào mức độ sinh lợi trong

quá khứ và hiện tại của doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
nhƣ lợi thế thƣơng mại (goodwill), uy tín doanh nghiệp, bí quyết kinh doanh và
năng lực quản lý doanh nghiệp. Nói cách khác, đánh giá giá trị doanh nghiệp là
đánh giá lợi ích thực sự mà doanh nghiệp có thể mang lại trên cơ sở dự đoán
tổng hợp và toàn diện về nó, có tính đến sự tác động tổng hợp của môi trƣờng
kinh doanh.


17
*Kết luận.
Trên đây là một số căn cứ khách quan để các nhà chuyên môn xem xét
trong quá trình định giá doanh nghiệp. Để đảm bảo có đƣợc giá trị doanh
nghiệp đáng tin cậy, trƣớc hết ta phải xem xét một cách toàn diện các yếu tố
cấu thành giá trị doanh nghiệp bao gồm giá trị của các tài sản hữu hình và vô
hình trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, giá trị của doanh nghiệp chỉ đƣợc xã hội
(các nhà đầu tƣ) thừa nhận khi nó đƣợc hình thành thông qua trao đổi trên thị
trƣờng. Trong quá trình đó, giá trị doanh nghiệp là mức giá mà tại đó có sự cân
bằng tƣơng đối về mặt lợi ích giữa ngƣời mua và ngƣời bán.
Việc xác định giá trị doanh nghiệp cần đề cập đến các khía cạnh giá trị
khác nhau không chỉ là giá trị tài sản mà quan trọng hơn còn là khả năng sinh
lời của doanh nghiệp trong tƣơng lai. Trong quá trình đó cũng cần nhìn nhận
giá trị doanh nghiệp từ nhiều giác độ khác nhau: ngƣời mua, ngƣời bán, chính
phủ và doanh nghiệp.
Vì vậy, việc xem xét, lựa chọn phƣơng pháp xác định giá trị doanh
nghiệp phù hợp, thoả mãn đƣợc lợi ích của tất cả các bên liên quan cũng là một
yêu cầu cấp thiết khi xác định giá trị doanh nghiệp.

1.2. Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp
Hiện nay, trên thế giới đã hình thành nhiều phƣơng pháp xác định giá trị
doanh nghiệp khác nhau trong đó có một số phƣơng pháp cơ bản sau:

1.2.1 Phương pháp tài sản (Giá trị tài sản ròng)
Trong nền kinh tế thị trƣờng, doanh nghiệp cũng là một loại hàng hoá.
Vì vậy để phát huy đƣợc giá trị sử dụng của mình (tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh) đòi hỏi bản thân doanh nghiệp cũng phải bao gồm những tài sản
cấu thành nên nó. Số lƣợng tài sản thực trong doanh nghiệp có thể nhiều hay ít
tuỳ thuộc vào quy mô, đặc điểm của từng doanh nghiệp, song có thể chắc chắn
một điều rằng doanh nghiệp sẽ không thể hoạt động khi không có một lƣợng tài
sản có thực nhất định. Các tài sản này chủ yếu đƣợc hình thành bằng 3 nguồn
đó là vốn chủ sở hữu, nợ vay và các khoản chiếm dụng. Cơ cấu nguồn hình
thành tài sản là sự khẳng định và thừa nhận về mặt pháp lý các quyền sở hữu và
lợi ích của các nhà đầu tƣ đối với số tài sản đó.


18
Có thể nói, giá trị của doanh nghiệp chính là tổng giá trị của các tài sản
hữu hình và vô hình cấu thành nên doanh nghiệp đó. Tuy nhiên, về mặt pháp lý,
ngƣời chủ sở hữu chỉ có thể bán những tài sản thuộc quyền sở hữu của mình
trong tổng số các tài sản cấu thành nên doanh nghiệp mà họ đang sử dụng.
Chính vì vậy, để có thể thực hiện một giao dịch mua bán doanh nghiệp trên thị
trƣờng, ngƣời ta phải tiến hành xác định giá trị ròng (net value) của các tài sản
hiện có trong doanh nghiệp đó.
Trên quan điểm đó, giá trị doanh nghiệp đƣợc xác định nhƣ sau:

V
o
= V
T
- V
N


Trong đó:
V
o
: Giá trị tài sản ròng của doanh nghiệp
V
T
: Giá trị tài sản hiện có trong doanh nghiệp (Theo giá trị thị trƣờng hoặc giá
trị sổ sách kế toán)
V
N
: Giá trị các khoản nợ của doanh nghiệp
Dựa vào công thức tổng quát trên đây, ta thấy giá trị tổng tài sản của
doanh nghiệp có thể đƣợc hình thành trên 2 cơ sở:
- Thứ nhất là giá trị tổng tài sản của doanh nghiệp đƣợc tính toán dựa
vào số liệu trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp đó tại thời điểm xác
định (Giá trị sổ sách). Theo đó, giá trị tài sản ròng của doanh nghiệp sẽ đƣợc
tính toán bằng cách lấy tổng giá trị tài sản phản ánh ở phần tài sản trừ đi các
khoản nợ phải trả đƣợc phản ánh bên phần nguồn vốn của bảng cân đối kế toán.
Đây là một cách tính toán đơn giản, dễ dàng. Nếu nhƣ việc ghi chép, phản ánh
đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, doanh nghiệp chấp hành tốt các quy
định của chế độ kế toán hiện hành thì giá trị tài sản thuần tính toán đƣợc sẽ là số
liệu có độ tin cậy nhất định về giá trị tài sản ròng của doanh nghiệp.
- Thứ hai là giá trị tổng tài sản của doanh nghiệp đƣợc xác định dựa trên
giá trị thị trƣờng của từng loại tài sản cấu thành. Theo phƣơng pháp này, ngƣời
ta sẽ loại ra khỏi danh mục đánh giá những tài sản không cần thiết và không có
khả năng đáp ứng những yêu cầu của sản xuất kinh doanh. Sau đó tiến hành
đánh giá số tài sản còn lại trên nguyên tắc sử dụng giá thị trƣờng để tính cho


19

từng tài sản hoặc từng loại tài sản cụ thể. Sau cùng, giá trị tài sản ròng của
doanh nghiệp sẽ đƣợc tính bằng cách lấy tổng giá trị của các tài sản đã đƣợc
xác định theo giá thị trƣờng trừ đi các khoản nợ phản ánh bên nguồn vốn của
bảng cân đối kế toán và khoản tiền thuế tính trên giá trị tăng thêm của số tài sản
đƣợc đánh giá lại tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.

- Ƣu, nhƣợc điểm của phƣơng pháp.
Ƣu điểm:
+ Phƣơng pháp giá trị tài sản ròng đã chỉ ra giá trị của những tài sản cụ
thể cấu thành giá trị doanh nghiệp. Có thể nói, giá trị của các tài sản đó là một
căn cứ cụ thể, có tính pháp lý rõ ràng nhất về khoản thu nhập mà ngƣời mua
chắc chắn sẽ nhận đƣợc khi sở hữu doanh nghiệp. Nó nói lên rằng, số tiền mà
ngƣời mua bỏ ra luôn luôn đƣợc đảm bảo bằng một lƣợng tài sản có thật, đồng
thời số tài sản đó cũng chính là khoản thu nhập tối thiểu mà ngƣời sở hữu
doanh nghiệp sẽ nhận đƣợc. Đó cũng chính là mức giá thấp nhất, là cơ sở đầu
tiên để các bên có liên quan đƣa ra trong quá trình giao dịch và đàm phán về giá
bán doanh nghiệp.
+ Đối với những doanh nghiệp nhỏ mà số lƣợng tài sản không nhiều,
việc định giá tài sản không đòi hỏi những kỹ thuật phức tạp, giá trị các yếu tố
vô hình là không đáng kể, các doanh nghiệp có chiến lƣợc kinh doanh không rõ
ràng, thiếu căn cứ xác định các khoản thu nhập trong tƣơng lai thì giá trị doanh
nghiệp đƣợc xác định theo phƣơng pháp tài sản sẽ trở thành một tiêu chuẩn cơ
bản và thích hợp nhất để các bên xích lại gần nhau trong quá trình đàm phán.

Nhƣợc điểm: Bên cạnh những ƣu điểm nổi bật trên đây thì phƣơng pháp
tài sản cũng bộc lộ không ít những nhƣợc điểm, cụ thể là:
+ Phƣơng pháp này đánh giá doanh nghiệp trong một trạng thái tĩnh.
Doanh nghiệp không đƣợc coi nhƣ một thực thể đang tồn tại và còn có thể hoàn
chỉnh và phát triển. Từ đó, nó không phù hợp với một tầm nhìn chiến lƣợc về
doanh nghiệp. Trong khi đó, mục đích của ngƣời mua doanh nghiệp là nhằm sở

hữu các khoản thu nhập trong tƣơng lai chứ không phải để bán lại ngay các tài
sản hiện thời.

×