PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong những năm qua, kinh tế Việt Nam có nhiều đổi mới. Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng theo hướng CNH, HĐH là con đường đã được Đảng và
Nhà nước ta xác định là hướng đi tất yếu để phát triển kinh tế, đưa nước ta
thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển trở thành một quốc gia văn minh,
hiện đại. Cơ cấu kinh tế hợp lý là đảm bảo cho sự phát triển, tăng trưởng đồng
bộ và cân đối, tạo điều kiện thúc đẩy những ngành trọng điểm mũi nhọn nhằm
tạo ra tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Ngoài ra, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
còn dẫn tới giải phóng sức sản xuất xã hội, khai thác có hiệu quả những tiềm
năng của đất nước, thu hút được nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài để tạo ra những
công ăn việc làm cho người lao động.
Đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi
Việt Nam phải có những bước đi mang tính đột phá để tận dụng những cơ hội,
vượt qua những thách thức khi đã vào sân chơi lớn WTO, nhiệm vụ Công
nghiệp hoá - Hiện đại hoá nền kinh tế Quốc Dân được đặt lên hơn bao giờ hết,
trong đó nhiệm vụ trọng tâm là chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Quảng Điền, một huyện thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế, trong những năm qua
thực hiện đường lối phát triển chung của cả nước, nền kinh tế có nhiều biến
đổi. Đây là huyện có nhiều vùng đầm phá thuận lợi để phát triển ngành thủy
sản. Ngoài ra, đây cũng là một thị trường cung cấp nhiều nông sản như: sắn,
ngô, khoai lang... không chỉ đáp ứng nhu cầu trong địa bàn huyện mà còn thỏa
mãn nhu cầu của toàn tỉnh, và một số vùng, tỉnh khác.
Cũng giống như toàn tỉnh, huyện Quảng Điền luôn chịu ảnh hưởng nặng nề
của thiên tai lũ lụt hàng năm. Trong thời gian đó, mọi hoạt động kinh tế bị gián
đoạn, ngưng trệ. Do đó, muốn phát triển kinh tế đòi hỏi phải xác định đúng
bước đi, chính sách đúng đắn. Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện nhất quán
đường lối phát triển chung của cả tỉnh nói riêng và cả nước nói chung, nền kinh
tế của huyện Quảng Điền có sự chuyển dịch theo hướng tích cực góp phần thúc
đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước.
1
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một đề tài khá quen thuộc. Đã có rất nhiều
người, nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này nhưng trong tiến
trình CNH, HĐH cơ cấu kinh tế có nhiều sự thay đổi. Do đó, việc nghiên cứu
và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trên quan điểm phát triển bền vững có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Đó cũng là lý do chúng tôi chọn đề tài “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở huyện
Quảng Điền, tỉnh Thừa thiên Huế trong quá trình Công nghiệp hoá, hiện đại
hoá” làm đề tài nghiên cứu khoa học cho mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Đánh giá đúng thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở huyện
Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, trên cơ sở đó đề tài đưa ra một số giải pháp
nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Đề tài còn làm rõ cơ sở lý luận: Khái niệm, đặc điểm, vai trò, tác
dụng...của chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Trên cơ sở thực trạng đánh giá tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở
huyện Quảng Điền bao gồm:
+ Những thuận lợi và kết quả đạt được.
+ Những khó khăn gặp phải.
+ Nguyên nhân và cách giải quyết những vấn đề còn tồn tại.
- Đưa ra một số giải pháp, phương hướng có tính thực thi để áp dụng vào
thực tế.
- Đưa ra những kiến nghị, đề xuất.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Thực trạng và xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở huyện Quảng Điền
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
4. Phạm vi nghiên cứu:
- Nội dung: Nghiên cứu sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Quảng Điền,
tỉnh Thừa Thiên Huế trong quá trình CNH, HĐH.
- Thời gian: Từ năm 2001 đến nay.
- Không gian: huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
2
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp duy vật biện chứng.
- Phương pháp luận nghiên cứu.
- Phương pháp thu thập tổng hợp.
- Phương pháp thống kê.
6. Ý nghĩa của đề tài:
Đề tài nghiên cứu một cách có hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở huyện Quảng Điền trong giai đoạn CNH, HĐH,
làm cơ sở cho việc phát triển kinh tế của huyện Quảng Điền trong thời gian sắp
tới.
Đề tài còn là một tài liệu tham khảo có giá trị đích thực cho những ai quan
tâm.
7. Kết cấu của dề tài:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận kiến nghị, đề tài được kết cấu làm 3
chương.
3
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
KINH TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
1.1. Những vấn đề cơ bản về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình
CNH, HĐH.
1.1.1. Cơ cấu kinh tế
1.1.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu (hay kết cấu): Là một khái niệm mà triết học duy vật biện chứng
dùng để chỉ cách thức tổ chức bên trong hay một hệ thống, biểu hiện sự thống
nhất các mối quan hệ qua lại vững chắc giữa các bộ phận của nó. Trong khi chỉ
rõ mối quan hệ biện chứng giữa bộ phận và toàn thể, nó biểu hiện ra như là một
thuộc tính của sự vật, hiện tượng và biến đổi cùng với sư biến đổi của sự vật
hiện tượng. Như vậy, có thể thấy có rất nhiều trình độ, nhiều kiểu tổ chức cơ
cấu của các khách thể và các hệ thống. [16, 269]
Cũng như vậy đối với nền kinh tế quốc dân, khi xem nó là một hệ thống
phức tạp thì có thể thấy rất nhiều các bộ phận và các kiểu cơ cấu hợp thành
chúng, tuỳ theo cách mà chung ta tiếp cận khi nghiên cứu hệ thống ấy. Đặc biệt
sự vận động và phát triển của nền kinh tế theo thời gian và bao hàm trong đó sự
thay đổi bản thân các bộ phận cũng như sự thay đổi cơ cấu. Vì vậy có thể thấy
rằng, cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ
hữu cơ tương đối ổn định hợp thành. [17, 610]
Cơ cấu kinh tế là tổng thể bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với
nhau tác động lẫn nhau trong một khoảng không gian và thời gian nhất định là
những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Nó thể hiện đầy đủ cả hai mặt định
tính và định lượng, cả hai mặt chất lượng và số lượng, phù hợp với mục tiêu
xây dựng của nền kinh tế. Như vậy, mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước
trong từng thời kỳ quyết định việc hình thành các yếu tố, các bột phận cấu
thành về cả hai mặt số lượng và chất lượng, trong đó mặt chất lượng quyết định
vai trò, vị trí của các yếu tố, các bộ phận, còn mặt số lượng thể hiện quan hệ tỷ
lệ của các bộ phận phù hợp với mặt chất lượng đã được xác định. Nhưng khi số
4
lượng (quan hệ tỷ lệ, tốc độ…) thay đổi sẽ tạo khả năng thay đổỉ vè chất, lúc
đó sẽ dẫn đến sự thay đổi về cơ cấu kinh tế. Do vậy, khi nói đến chuyển dịch
cơ cấu kinh tế là nói đến sự chuyển dịch cả về mặt chất lượng và số lượng
tương ứng với chất lượng đó. Như vậy, trong cơ cấu kinh tế có thể hiện:
- Tính khách quan của cơ cấu kinh tế.
- Tính lịch sử cụ thể về thời gian, không gian và điều kiện kinh tế - xã hội.
- Tính có mục tiêu trong từng giai đoạn phát triển nhất định.
Dựa vào những đặc trưng của các bộ phận cấu thành hệ thống và cách thức
quan hệ giữa chúng với nhau trong quá trình phát triển, cơ cấu nền kinh tế quốc
dân bao gồm:
- Cơ cấu các thành phần kinh tế (quan hệ sản xuất trong nền kinh tế).
- Cơ cấu vùng lãnh thổ.
- Cơ cấu ngành kinh tế.
Các loại cơ cấu nói trên có mối quan hệ gắn kết, tương tác với nhau.
Thứ nhất: Cơ cấu thành phần kinh tế có cơ sở hình thành là chế độ sở hữu,
bởi vậy, sự hợp lý của nó phản ánh một hệ thống tổ chức kinh tế với chế độ sở
hữu có khả năng thúc đẩy lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát
triển. Với ý nghĩa đó, cơ cấu thành phần kinh tế tác động đến cơ cấu ngành
kinh tế và cơ cấu lãnh thổ, đồng thời nó cũng chịu tác dụng ngược trở lại của
hai loại cơ cấu này. Ở nước ta hiện nay có năm thành phần kinh tế: Kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài.
Thứ hai: Cơ cấu vùng - lãnh thổ: Là sự bố trí các ngành sản xuất và dịch vụ
theo không gian cụ thể nhằm khai thác mọi ưu thế, tiềm năng to lớn của các
vùng. Từ đó hình thành nên tổng sơ đồ phân bố lực lượng sản xuất nhằm phát
huy tới mức cao nhất sức mạnh kinh tế của từng vùng và toàn bộ nền kinh tế. Ở
đây, xu thế chuyển dịch cơ cấu vùng, lãnh thổ là đi vào chuyên môn hoá và tập
trung hoá sản xuất và dịch vụ, hình thành những vùng sản xuất hàng hoá lớn,
tập trung hiệu quả cao, mở rộng với quan hệ với các vùng chuyên môn khác,
gắn cơ cấu kinh tế của từng khu vực với cơ cấu kinh tế của cả nước.
5
Thứ ba: Cơ cấu ngành kinh tế: Hình thành trên cơ sở phân chia lao động xã
hội (chung, đặc thù, cá biệt) và chuyên môn hoá sản xuất còn cơ cấu lãnh thổ
được hình thành dựa trên phân bố lực lượng sản xuất ở tầm tổng thể nhằm phát
huy cao nhất sức mạnh kinh tế của từng vùng cũng như sức mạnh của toàn bộ
nền kinh tế.
Sự phát triển nền sản xuất xã hội từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá
cũng có nghĩa là xuất hiện những ngành sản xuất độc lập nhau, dựa trên những
đối tượng sản xuất khác nhau. Ở đây, cơ cấu ngành kinh tế biểu hiện ra dưới
các hình thức ngành lớn (ngành cấp I); nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, các
phân ngành (ngành cấp II); chăn nuôi, trồng trọt…Sự vận động của các ngành
kinh tế và mối quan hệ của nó vừa tuân theo những đặc điểm chung của sự phát
triển sản xuất xã hội, lại vừa mang những nét đặc thù của mỗi giai đoạn và mỗi
quốc gia.
Vì vậy, nghiên cứu loại cơ cấu này là nhằm tìm ra những cách thức duy trì
tính tỷ lệ hợp lý của chúng ta và những lĩnh vực cần ưu tiên tập trung các
nguồn lực có hạn của quốc gia trong mỗi thời kỳ thúc đẩy sự phát triển của toàn
bộ nền kinh tế quốc dân một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất.
Cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ có thể coi là hai mặt của một thể thống
nhất đều phản ánh phân công lao động xã hội, cơ cấu ngành thể hiện mình ở
trong không gian lãnh thổ cụ thể còn cơ cấu lãnh thổ hình thành gắn liền với cơ
cấu ngành và thống nhất với cơ cấu ngành. Vì vậy, nó thể hiện “cơ cấu ngành
kinh tế là tổ hợp các ngành hợp thành tương quan tỷ lệ biểu hiện mối quan hệ
giữa các ngành đó trong nền kinh tế quốc dân” hoặc “cơ cấu ngành kinh tế là
tổng thể hợp thành của nền kinh tế quốc dân trong mối quan hệ hữu cơ, tương
tác lẫn nhau cả về số lượng lẫn chất lượng trong không gian, thời gian và
những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định”.
1.1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của cơ cấu kinh tế.
Đặc trưng cơ bản của cơ cấu kinh tế là luôn luôn vận động và biến đổi. Sự
biến đổi ấy rất đa dạng giữa các nước, các địa phương có những điều kiện kinh
6
tế - xã hội và trình độ khác nhau. Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế nước ta có xu
hướng vận động và phát triển như sau:
- Sự vận động từ một nền kinh tế tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá.
- Sự vận động theo hướng tỷ trọng công nghiệp ngày càng cao, tỷ lệ nông
nghiệp giảm tương đối nhưng tăng tuyệt đối, phần dịch vụ tăng nhanh hơn
trong tỷ trọng sản phẩm quốc dân.
- Xu hướng biến đổi từ cơ cấu kinh tế khép kín trong phạm vi quốc gia thậm
chí trong từng địa phương sang cơ cấu kinh tế mở trong phạm vi cả nước và
quốc tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta theo mô hình sau:
- Vế cơ cấu ngành: chuyển từ cơ cấu nông nghiệp - công nghiệp trước đây
sang cơ cấu nông nghiệp - công nghiệp và tiến tới cơ cấu công nghiệp - nông
nghiệp - dịch vụ. Trong những năm trước mắt, phát triển mạnh công nghiệp chế
biến và kết cấu hạ tầng, chuẩn bị điều kiện để phát triển các ngành mũi nhọn và
có lợi thế so sánh.
- Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần: Chuyển từ cơ cấu kinh tế quốc doanh,
tập thể là chủ yếu sang cơ cấu kinh tế nhiều thành phần: Kinh tế nhà nước, kinh
tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài trong đó phải củng cố kinh tế nhà nước, phát triển mạnh kinh tế tập thể
và kinh tế tư nhân.
- Cơ cấu lãnh thổ: Cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần chỉ có thể đạt được
chuyển dịch trên một lãnh thổ nhất định. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế lãnh thổ
theo hướng phát triển toàn diện và tập trung có trọng điểm, phát triển tổng hợp
kết hợp với chuyên môn hoá. Trong những năm tới, cần đầu tư phát triển các
vùng kinh tế trọng điểm, các khu kinh tế đặc biệt và các cực phát triển kinh tế
để tạo ra sự tăng trưởng nhanh, trên cơ sở lôi cuốn, thúc đẩy sự phát triển toàn
diện.
1.1.1.3. Các tiêu chí để đánh giá một cơ cấu kinh tế hợp lý.
Một là: Kinh tế - xã hội, nhất là các quy luật kinh tế như: Quy luật quan hệ
sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, những quy luật kinh tế thị trường như: Quy luật giá trị, quy luật cung cầu,
7
quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ, các quy luật của tái sản xuất
như: quy luật năng suất lao động, quy luật tích luỹ, phân phối tổng sản phẩm xã
hội và thu nhập quốc dân.
Hai là: Đảm bảo khai thác tối đa các tiềm năng, nguồn lực của cả nước,
các ngành, các địa phương, các lãnh thổ qua các phương án sản xuất kinh
doanh.
Ba là: Sử dụng được ngày càng nhiều lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh
giữa các nước, các vùng và khu vực. Vai trò này gắn với việc hình thành cơ cấu
“kinh tế mở”. Ở góc độ vĩ mô phải gắn với việc xây dựng chiến lược hướng
mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu các mặt hang trong nước sản
xuất không hiệu quả gắn với phân công lao động và thương mại quốc tế.
Bốn là: Phải phản ánh được xu hướng phát triển của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ, xu hướng quốc tế hoá và khu vực hoá.
Năm là: Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm thước đo kết quả cuối cùng của
một cơ cấu kinh tế tối ưu.
1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
Đảng ta xác định muốn thực hiện được mục tiêu CNH, HĐH đất nước thì
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH với những định hướng cơ
bản:
Một là: Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm mục tiêu cơ bản chi phối quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH
phải đảm bảo cho nền kinh tế thị trường Việt Nam phát triển, phải xuất phát từ
khả năng của nền kinh tế Việt Nam. Khả năng đó bao gồm khả năng trong nội
bộ nền kinh tế và khả năng phát triển các quan hệ hợp tác quốc té đa phương,
đa hình thức. Những khả năng này phải được tính toán cụ thể đối với từng
ngành, từng thành phần kinh tế, từng vùng lãnh thổ qua việc xác định các chỉ
tiêu về nguồn lực hiện có như: Lao động, vốn, đất đai, cơ sở vật chất kỹ thuật.
Đây là điều kiện quyết định khả năng thanh toán của nền kinh tế, là mức cầu
mà nền kinh tế có thể chuyển dịch tới.
8
Hai là: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH phải đảm bảo
khai thác thế mạnh và sức mạnh tổng hợp của các ngành, các lĩnh vực kinh tế,
các thành phần kinh tế và các vùng lãnh thổ, trong đó cần ưu tiên tập trung phát
triển các ngành trọng điểm và mũi nhọn, các thành phần kinh tế và các trọng
điểm, các khu công nghiệp kỹ thuật cao. Như vậy sẽ tạo ra sự tăng trưởng và
phát triển nhanh ở các ngành, các thành phần kinh tế, các vùng trọng điểm
nhằm tạo thế cho kinh tế đất nước tăng trưởng và phát triển nhanh.
Ba là: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH đòi hỏi phải kết
hợp tối ưu các loại quy mô kỹ thuật, công nghệ và chuyên môn hoá hợp lý
trong toàn bộ nền kinh tế và trong từng ngành, lĩnh vực, thành phần kinh tế và
vùng lãnh thổ. Kinh tế Việt Nam muốn phát triển nhanh cần kết hợp chặt chẽ
giữa các loại quy mô lớn, vừa, nhỏ. Trong thời gian đầu, cần phát triển mạnh
các loại quy mô vừa và nhỏ, vì nó dễ thích nghi với sự thay đổi của kinh tế thị
trường, phù hợp với nguồn vốn còn hạn hẹp và phát huy được hiệu quả nhanh
đồng thời phải coi trọng những quy mô lớn cần thiết như các tập đoàn sản xuất
lớn thì mới có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tương ứng với các loại
quy mô đó cần kết hợp chặt chẽ giữa kỹ thuật công nghệ hiện đại với kỹ thuật
truyền thống, trong đó phải ưu tiên các loại kỹ thuật công nghệ hiện đại thích
hợp với các ngành, lĩnh vực, thành phần kinh tế và vùng trọng điểm.
Bốn là: Cơ cấu kinh tế cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH đòi hỏi phải
thực hiện quan điểm kinh tế “mở” trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền của
đất nước, bảo đảm an ninh quốc gia và sự bền vững của môi trường.
1.1.3. Các nhân tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế. Tuỳ từng mục tiêu nghiên cứu và từng góc độ tiếp cận mà người ta có
thể phân chia chúng thành những tổ hợp khác nhau, chẳng hạn: Những nhân tố
bên trong và bên ngoài, những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và những nhân tố
ảnh hưởng gián tiếp…
9
1.1.3.1. Các nhân tố đầu vào của sản xuất
Nhóm các nhân tố đầu vào của sản xuất gồm tập hợp các nguồn lực mà xã
hội có thể huy động vào quá trình sản xuất, bao gồm các nhân tố chính là:
- Các nguồn lực tự nhiên (tài nguyên nước, đất, rừng, khoáng sản…).
Nhà kinh tế học cổ điển William Petty đã từng nói: “lao động là cha của
của cải, còn đất là mẹ của nó”. Cơ cấu kinh tế của một quốc gia như thế nào
đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của nguồn tài nguyên mà thiên nhiên ban tặng. Quy
mô đất đai, địa hình, khí hậu, nguồn nước…là điều kiện tự nhiên của các loại
hình sản xuất nông nghiệp khác nhau.
Có thể thấy rằng tài nguyên thiên nhiên là cơ sở xuất phát tự nhiên quan
trọng để hình thành cơ cấu kinh tế của các nền kinh tế trên thế giới. Ở nước ta,
nông nghiệp lúa nước, mỏ than, mỏ dầu…là những cơ sở tự nhiên để phát triển
một nền kinh tế mà cơ cấu bao gồm trong đó các ngành sản xuất lúa gạo, than
và dầu mỏ…
Vị trí địa lý có ý nghĩa quan trọng, là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn
đến việc hình thành cơ cấu kinh tế. Nếu ở vị trí thuận lợi, một nước hay một
vùng có khả năng rất tốt để mở rộng thị trường, tiếp nhận các nguồn lực từ bên
ngoài thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ngược lại, nếu vị trí
địa lý bất lợi thì việc thu hút đầu tư, các nguồn lực bên ngoài, phát huy các
nguồn lực bên trong gặp nhiều khó khăn.
Địa hình là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hình thành và biến đổi cơ cấu
kinh tế. Căn cứ vào vị trí và địa hình để bố trí ngành sản xuất trọng điểm có tác
dụng lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Khí hậu thuỷ văn là nguồn tài nguyên liên quan và tác nhân ảnh hưởng đến
các ngành kinh tế quốc dân. Đăc biệt là sản xuất nông nghiệp, yếu tố thuỷ văn
có ảnh hưởng tới mùa vụ, cơ cấu cây trồng, vật nuôi, năng suất, chất lượng sản
phẩm vì hiệu quả sản xuất.
- Nguồn lực con người: Nguồn lực con người khi được xem xét ở một góc
độ đầu vào của quá trình sản xuất (sức lao động) từ lâu đã được coi như một
nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với quá trình sản xuất, ở những thời điểm
10
nhất định, việc phân bổ nguồn lực này như thế nào có ý nghĩa rất quan trọng
đối với việc hình thành cơ cấu nguồn kinh tế. Tuy nhiên để có căn cứ cho việc
quyết định phân bổ nguồn nhân lực vào những lĩnh vực sản xuất khác nhau như
thế nào, những khía cạnh cần lưu ý là:
+ Quy mô nguồn nhân lực: Là một trong những yếu tố quan trọng góp phần
hình thành cơ cấu nền kinh tế. Để cho các hoạt động kinh doanh đạt được hiệu
quả kinh tế theo quy mô, trong những điều kiện về khoa học - công nghệ nhất
định cần phải có một lượng lao động thích hợp.
+ Chất lượng lao động: Ngoài các tố chất về sức khoẻ, về phẩm chất và đạo
đức (tính cần cù, siêng năng, yêu lao động, có trách nhiệm trước công việc và
sản phẩm, có tự trọng cao về mặt xã hội, có kỷ luật trong lao động…) chất
lượng lao động còn thể hiện ở trình độ tay nghề, kỹ năng lao động và kiến
thức(bao gồm cả kiến thức chuyên môn và nững kiến thức xã hội cần thiết
khác). Vì vậy, đầu tư cho giáo dục là loại đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế - xã
hội tổng hợp lớn nhất, mặt khác đầu tư cho giáo dục là loại đầu tư trực tiếp cho
sản xuất chứ không phải là đầu tư cho lĩnh vực sản xuất, vốn chỉ được xét đến
sau khi đã đầu tư cho các ngành sản xuất như trong hầu hết các báo cáo kinh tế
cũng như cách phân loại thống kê học.
- Nguồn vốn: Nhân tố kinh tế quan trọng luôn ảnh hưởng trực tiếp tới quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một quốc gia là quy mô nguồn vốn đầu tư.
Do khởi phát quá trình CNH trong điều kiện trong điều kiện một nền kinh tế
nghèo nàn, hầu như dối với tất cả các nước đang phát triển, nguồn vốn đầu tư
luôn là chiếc “cổ họng hẹp” đối với quá trình tăng trưởng và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế. Ngày nay, dưới tác động của quá trình toàn cầu hoá kinh tế với một
trong những đặc trưng nổi bật nhất là toàn cầu hoá tài chính, dòng chảy vốn
đấu tư tài chính mang tính chất toàn cầu đang gia tăng với tốc độ nhanh, quy
mô lớn, đã góp phần quan trọng vào việc nới bớt “nút thắt” về nguồn vốn đầu
tư đối với các nước đang phát triển vì xét một cách tổng quát vốn là căn bệnh
đối với những quốc gia đang mong muốn đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH. Vì
11
lẽ đó, việc xác định cơ cấu kinh tế không thể không tính tới khả năng của
nguồn vốn đầu tư có thể huy động được.
Dòng vốn đầu tư nước ngoài có thể trở thành một trong những động lực
mạnh, tạo ra “cú huých” lớn, thúc đẩy nhanh chóng quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế. Các dòng vốn nước ngoài có thể chảy theo các kênh đầu tư trực
tiếp (FDI), hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho vay thương mại, kiều hối
hoặc đầu tư gián tiếp trên thị trường chứng khoán. Vì vậy, để có thể khơi thông
dòng chảy vốn đầu tư từ bên ngoài, một mặt cần cải thiện mạnh mẽ môt trường
đầu tư, và mặt khác không thể không xây dựng và phát triển thị trường chứng
khoán.
Ngoài nguồn vốn từ ngân sách của nhà nước trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh
vực, các chính sách khuyến khích hoặc không khuyến khích đầu tư vào một số
lĩnh vực cũng góp phần đáng kể vào việc hướng dòng chảy của vốn vào những
lĩnh vực, những ngành sản phẩm khác nhau.
1.1.3.2. Nhóm các nhân tố đầu ra của sản xuất (yếu tố thị trường).
Nếu như nhóm các yếu tố đầu vào phản ánh tác động của các nguồn nhân
lực có thể huy động cho sản xuất và sự phân bổ của chúng vào những lĩnh vực
kinh doanh khác nhau, thì nhóm các yếu tố đầu ra của sản xuất quyết định xu
hướng vận động của thị trường, nơi phát ra tín hiệu quan trọng bậc nhất dẫn dắt
các các nguồn vốn đầu tư cũng như các nguồn lực sản xuất khác được quy định
phân bổ vào những lĩnh vực sản xuất nào và với quy mô bao nhiêu. Những
nhân tố này bao gồm:
- Dung lượng thị trường:
Độ lớn của dung lượng thị trường là một trong những nhân tố có ý nghĩa đối
với sự di chuyển các nguồn lực được phân bổ vào các lĩnh vực sản xuất khác
nhau. Thông thường, dung lượng thị trường được quy định bởi quy mô dân số
và mức thu nhập. Rõ ràng, những dấu hiệu chuyển dịch cơ cấu có khả năng
thanh toán chi tiêu của người dân có tác động dẫn dắt hướng đầu tư kinh doanh
của các nhà đầu tư và vì thế, tác động không nhỏ đến sự hình thành cơ cấu kinh
tế.
12
- Thói quen tiêu dùng:
Cùng với quy mô, thói quen tiêu dùng là một nhân tố “đầu ra” rất ý nghĩa
mà các nhà kinh doanh thường rất quan tâm khi quyết định bỏ vốn đầu tư và
lựa chọn sản phẩm để đưa ra thị trường. Tính ưa thích theo thói quen tiêu dùng
một số loại sản phẩm nào đó đòi hỏi các nhà đầu tư phải nghiên cứu để tìm
cách đáp ứng và vì thế, tình trạng thoả dụng của người tiêu dùng đã trở thành
một trong những chỉ tiêu tác động vào sự hình thành cơ cấu của nền kinh tế.
- Các chính sách của nhà nước:
Cũng như các nhân tố cung, các chính sách kinh tế của nhà nước đối với
khía cạnh cần có tác động mạnh tới sự hình thành và phát triển của những phân
ngành kinh tế nhất định. Sự khuyến khích hay không khuyến khích, thậm chí
cấm ngặt đối với một số lĩnh vực nào đó sẽ có tác dụng làm gia tăng mức tăng
trưởng hay kìm hãm, thậm chí loại bỏ một số lĩnh vực (sản phẩm hàng hoá và
dịch vụ), mặc dù tiềm năng cung và mức cầu của dân cư vẫn tồn tại.
Như vậy, trong điều kiện của kinh tế thị trường, việc nghiên cứu tác động
của yếu tố thị trường (đầu ra của các sản phẩm) là một nội dung không thể bỏ
qua đối với các chính sách về cơ cấu kinh tế. Lí do đơn giản là vì mức độ ảnh
hưởng của chúng đối với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ không
kém các nhân tố cung (đầu vào của sản xuất). Tuy nhiên, đây lại đang là một
điểm yếu trong tiếp cận nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
hiện nay, một phần do cơ chế chỉ tập trung vào khía cạnh các nhân tố của sản
xuất vật chất trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây vẫn còn chi
phối mạnh trong tư duy và chính sách kinh tế.
1.1.3.3. Các nhân tố về cơ chế chính sách
Trong một thời gian dài trong cơ chế hế hoạch hoá tập trung, xu hướng hình
thành cơ cấu kinh tế tổng quát của Việt Nam và những nước xã hội chủ nghĩa
thời kỳ đó là “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng”. Từ sự chỉ đạo này, phần
lớn nhất nguồn lực quốc gia của Việt Nam trong một thời kỳ dài cũng đã được
dành cho phát triển lĩnh vực công nghiệp nặng. Một chủ trương khác được thay
thế vào đầu những năm 1980 là ba chương trình kinh tế mới: Lương thực -
13
Thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”. Cơ cấu kinh tế nhờ đó mà có
sự điều chỉnh nhất định do do các nguồn lực được phân bổ lại theo hướng ưu
tiên cho những ngành kinh tế này. Tình hình cũng diễn ra tương tự như vậy đối
với các thành phần kinh tế, khi mà đường lối đổi mới với chủ trương đa dạng
hoá các thành phần kinh tế đựợc khẳng định, các thành phần kinh tế ngoài nhà
nước đã có điều kiện phát triển lên.
Có thể thấy rằng quá trình chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế chịu tác động
của nhiều nhân tố. Trong điều kiện hiên nay, dưới tác động của quá trình toàn
cầu hoá, thị trường hoá và tiến bộ khoa học công nghệ diễn ra nhanh chóng,
bản thân những nhân tố tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng không
ngừng biến đổi và hàm chứa nững nôi dung kinh tế không hoàn toàn giống
nhau. Ở nước ta, khoa học công nghệ đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển một số
ngành như dầu khí, đầu tư làm thay đổi quy mô, tốc độ phát triển của các ngành
chế biến dịch vụ. Việc ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất có
tác dụng mạnh mẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao chất lượng
hiệu quả của các ngành. Vì vậy, khoa học công nghệ còn có tác dụng nâng cao
chất lượng cơ cấu nền kinh tế.
Tóm lại, dù có tiếp cận vấn đề như thế nào đi nữa thì trong một nền kinh tế
thị trường, tập hợp các nhân tố đầu vào(nguồn lực sản xuất), đầu ra (điều kiện
thị trường) và cơ chế chính sách (chủ yếu là tác động của nhà nước) vẫn là
những tác nhân quan trọng nhất đối với xu hướng chuyển dịch cơ cấu của nền
kinh tế.
1.2. Kinh nghiệm của các địa phương về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là yêu cầu tất yếu của quá trình phát triển kinh
tế - xã hội, song để có một cơ cấu kinh tế hợp lý cho mỗi vùng, mỗi quốc gia
cần phải xuất phát từ điều kiện lịch sử của vùng, của quốc gia đó. Để đạt được
mức độ phù hợp nhất định, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải trên cơ sở phát
huy các nguồn lực vốn có của vùng, của quốc gia, đồng thời tham khảo kinh
nghiệm thành công từ các mô hình kinh tế cụ thể.
14
Qua nghiên cứu tài liệu về một số địa phương và từ thực tiễn ở tỉnh Thừa
Thiên Huế, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau đây:
1.2.1. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một số địa phương trong
nước nói chung
Một là: Lấy hiệu quả kinh doanh thực tế là yếu tố động lực quan trọng nhất
cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu sản xuất trong nội bộ ngành.
Những năm qua, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, Hà Tây đã có bước phát triển khá cao, tăng trưởng kinh tế hàng
năm trong giai đoạn 1996 - 2000 là 7,3 %, năm 2002 là 9,8%, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 48,03% (1995)
xuống còn35,9% (2002), cũng trong thời kỳ này tỷ trọng công nghiệp xây dựng
tăng từ 25,3% lên 34,59%, dịch vụ du lịch từ 26,3% lên 29,51%. [21]
Hai là: Với điều kiện nước ta hiện nay, đồng thời với việc tham khảo kinh
nghiệm các quốc gia đã chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiến hành công nghiệp
hoá thành công thì phải tập trung chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp
nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá đi đôi với đô thị hoá, bảo đảm sự phát
triển bền vững, tăng nhanh tích luỹ từ nội bộ nông nghiệp, tăng thu nhập, cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; không ngừng tăng năng suất
lao động nông nghiệp, từng bước chuyển lao động nông nghiệp sang các ngành
kinh tế khác.
Ba là: Đẩy mạnh công tác chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật và sản
xuất đồng thời cung cấp các thông tin thị trường cần thiết và có sự hỗ trợ cụ thể
cho mỗi hộ sản xuất để có thể thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất nhanh và
đạt hiệu quả cao.
Chẳng hạn, ở xã Quỳnh Thắng, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An khi hạch
toán đối với cây dứa cho thấy suất đầu tư khoảng 6 tấn phân NPK cho một ha,
thời gian đầu do chủ động được chồi giống nên phải nhập với giá 600 - 650
đồng/chồi, nay nhờ áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật nên đã giảm được suất
đầu tư giống xuống còn một nửa. [21]
15
Việc cung cấp thông tin thị trường cần thiết là một trong những điểm rất
mới và thiết thực đối với mỗi hộ, mỗi vùng sản xuất. Ở thành phố Hồ Chí Minh
đã hình thành những trung tâm giao dịch mua bán sỉ và lẻ cho mỗi loại cây,
con, lập các trang web để triển khai mua bán, tìm đối tác qua các chợ trên mạng
Internet, thiết lập trung tâm tư vấn hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp nhà nước.
Bốn là: Tạo môi trường thuận lợi, thu hút mọi nguồn vốn đầu tư trong nước
và ngoài nước. Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ ngân
sách.
Trong nền kinh tế, vốn là vấn đề hết sức quan trọng cho sự phát triển. Chính
vì vậy, việc tập trung tìm kiếm các giải pháp để thu hút vốn đầu tư luôn được
các địa phương quan tâm và đặt lên hàng đầu. Tỉnh Hải Dương, tỉnh luôn coi
trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để tạo tiền đề và điều kiện cho việc phát
triển các vùng trọng điểm, các ngành mũi nhọn. Tổng số vốn đầu tư cho xây
dựng cơ bản ở Hải Dương trong bốn năm qua (1996 - 1999) là 7.409tỷ đồng,
trong năm 2001, toàn tỉnh có 36 dự án đầu tư nước ngoài và 42 dự án đầu tư
trong nước. [21]
Năm là: Phát triển và khai thác hợp lý nguồn tài nguyên vùng ao đầm, nước
lợ, vùng biển để nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản để đẩy mạnh tốc độ tăng
trưởng ngành thuỷ sản.
Ở tỉnh An Giang, diện tích nuôi trồng thuỷ sản được mở rộng từ 325 ha năm
1991 lên 1.788 ha vào năm 2002; lồng bè nuôi cá tăng từ 602 cái lên 4.053 cái
và nâng tổng sán lượng nuôi từ 66.686 tấn lên 190.666 tấn. Năm 1999 sau hơn
một năm triển khai thực hiện đề án chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát
triển thuỷ sản, toàn tỉnh lợi nhuận hơn 60 tỷ đồng” . [21]
Sáu là: Thị trường đầu ra phải đủ lớn để có thể ra tăng sản lượng mà không
làm tụt giá sản phẩm,từ đó ổn định hiệu quả sản xuất.
Thị trường đầu ra của sản xuất ổn định là yếu tố quan trọng giúp cho sản
xuất phát triển bền vững. Ở thành phố Hồ Chí Minh, việc tăng sản lượng tôm
sú từ 481 tấn năm 2000 lên 6.740 tấn năm 2003, tức tăng 14 lần chỉ có thể khả
thi khi có thị trường tiêu thụ lớn và khá ổn định, làm ra đến đâu tiêu thụ hết đến
16
đó. Cụ thể mặt hàng tôm sú Việt Nam được tiêu thụ hết ở thành phố Hồ Chí
Minh và thị trường thế giới với dung lượng rất lớn. Việc nuôi bò sữa của thành
phố Hồ Chí Minh trong những năm qua cũng phát triển rất mạnh, từ 25.000 con
năm 2004, chiếm 60% tổng số đàn trong nước. Không phải vì dân thành phố
tiêu thụ hết lượng sữa tươi này hàng ngày, mà do công ty sữa Việt Nam mua
hơn 80%.[18]
Bảy là: Tăng cường vai trò đặc biệt quan trọng của chính phủ trong việc
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hóa,
giữ vững ổn định tình hình chính trị và an ninh xã hội ở nông thôn.
Chính phủ đóng vai trò quyết định tạo ra tình hình ổn định kinh tế - xã hội,
trong đó ổn định chính trị là điều kiện tiên quyết cho tăng trưởng kinh tế. Chính
phủ ban hành các chính sách, biện pháp và các công cụ khác nhau để chủ động
tác động một cách tích cực đến việc xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối
chiến lược đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tiến hành sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đồng thời, chính phủ còn tạo điều kiện và
môi trường thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển, kịp thời
đưa ra các chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng, đầu tư phát triển nguồn nhân lựcvà tích lũy vốn.
1.2.2. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong tỉnh Thừa Thiên Huế
Kinh tế tỉnh Thừa Thiên Huế trong những năm qua tăng trưởng khá cao, cơ
cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trong 5 năm 2001 - 2005 đạt gần 9,5% cao
hơn 3,2% so với thời kỳ 1996-2000, cao hơn trung bình của cả nước 7,1%,
bằng mức trung bình các tỉnh Bắc Trung Bộ 9,2% là thời kỳ có mức tăng
trưởng khá cao, tương đối ổn định và có tính bền vững hơn so với các thời kỳ
trước .[2, 5]
Nông nghiệp phát triển theo chiều hướng tích cực, có tiến bộ vượt bậc trong
ứng dụng khoa học công nghệ mới về giống và chyển đổi cơ cấu cây trồng vật
nuôi làm năng suất tăng nhanh, hiệu quả sản xuất cao hơn trước, góp phần nâng
cao giá trị sản lượng bình quân trên diện tích canh tác, từng bước đa dạng hoá
17
ngành nghề trong nông thôn, nông nghiệp, tạo bước ngoặt quan trọng về nâng
cao đời sống các tầng lớp dân cư, góp phần cơ bản giữ vững ổn định kinh tế -
xã hội, giá trị sản xuất tăng bình quân hàng năm 8,4%.
Ngành công nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh toàn diện, hình thành
các ngành kinh doanh mũi nhọn, đóng vai trò chủ đạo, động lực cho toàn bộ
nền kinh tế. Giá trị sản xuất tăng bình quân 15,9%/năm, giải quyết việc làm cho
hơn 31 nghìn lao động trực tiếp và hàng nghìn lao động gián tiếp. Cơ cấu
ngành chuyển biến tích cực. So với năm 2000, công nghiệp chế biến khoáng
sản tăng 6,5 lần, công nghiệp chế biến thực phẩm tăng 1,8 lần, công nghiệp vật
liệu xây dựng tăng 1,9 lần. Hình thành một số ngành và cơ sở công nghiệp mũi
nhọn, có sản phẩm chủ lực như: xi măng, sợi, bia, vật liệu xây dựng.
Sản xuất tiểu thủ công nghiệp chuyển biến. Đã hình thành một số cụm tiểu
công nghiệp và làng nghề ở các huyện Phong Điền, Nam Đông, Hương Thuỷ
và thành phố Huế.
Các ngành dịch vụ từng bước khai thác tiềm năng, lợi thế so sánh, xây dựng
mạng lưới rộng khắp và đa dạng, tăng trưởng bình quân hàng năm 8,1%, tiếp
tục chiếm tỷ trọng cao nhất trong GDP.
Du lịch phát triển cả quy mô và chất lượng, sản phẩm du lịch từng bước đa
dạng. Hoạt động tuyên truyền quảng bá, xúc tiến mở rộng thị trường được mở
chú trọng, tiềm năng văn hoá và du lịch được phát huy, đặc biệt thành công của
5 kỳ Festival đã mở ra cơ hội thúc đẩy phát triển du lịch và dịch vụ. Hoạt động
của nhân dân được mở rộng nhiều hình thức như: Du lịch nhà vườn, du lịch
sinh thái, lễ hội, gắn du lịch với khôi phục ngành nghề thủ công truyền thống.
Tóm lại, cơ sở lý luận và thực tiễn trên đây cho thấy việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta nói chung và
trên địa bàn huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng là yêu cầu vừa
bức thiết vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Để thực hiện thành công sự nghiệp
đó, đòi hỏi chúng ta chẳng những phải nghiên cứu những đặc trưng cơ bản,
những nhân tố ảnh hưởng, xu thế phát triển khách quan,… của việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế mà còn phải nghiên cứu kỹ thực tiễn, rút ra những bài học
18
kinh nghiệm từ các địa phương trong cả nước. Đó là những luận cứ khoa học
để tiếp tục nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất những giải
pháp có hiệu quả nhằm thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn huyện Quảng Điền.
19
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ TRONG THỜI
KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ -HIỆN ĐẠI HOÁ Ở HUYỆN QUẢNG ĐIỀN
TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
2.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện Quảng Điền ảnh
hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
2.1.1 Điều kiện tự nhiên
2.1.1.1 Vị trí địa lí
Quảng Điền là một huyện phía Bắc tỉnh Thừa Thiên Huế, cách thành phố
Huế khoảng 10 - 15km. Phía Đông và Nam giáp huyện Hương Trà, phía Tây và
Tây - Bắc giáp huyện Phong Điền, phía Bắc và Đông - Bắc giáp biển Đông.
Với giới hạn đó, Quảng Điền năm gọn trong khoảng 16
o
30’58” - 16
o
40’13” vĩ
độ bắc và 107
o
21’38” - 107
o
34’ kinh độ đông.
Toàn huyện được tổ chức theo 11 đơn vị hành chính, trong đó có một thị
trấn và 10 xã, đó là: Thị trấn Sịa và 10 xã gồm: Quảng Thái, Quảng Lợi, Quảng
Ngạn, Quảng Công, Quảng Phước, Quảng An, Quảng Thành, Quảng Vinh,
Quảng Phú, Quảng Thọ. Phía nam huyện Quảng Điền có sông Bồ chảy ngang
qua. Sông Bồ là một phụ lưu quan trọng của sông Hương, bắt nguồn từ phía
đông A Lưới chảy qua địa phận 2 huyện Phong Điền và Hương Trà làm ranh
giới phân chia 2 huyện trên, sau đó tiếp tục chảy qua địa phận huyện Quảng
Điền rồi đổ vào sông Hương ở ngã ba Sình. Đây là con sông cung cấp nguồn
nước ngọt và bồi đắp phù sa cho địa phận của huyện.
2.1.1.2. Khí hậu thời tiết
Thừa Thiên Huế nói chung và Quảng Điền nói riêng có một mùa mưa lệch
pha so vớ hai miền Nam - Bắc. Mùa mưa ở đây trùng với mùa Đông - lạnh.
- Nằm gọn trong vùng nhiệt đới gió mùa, địa hình vừa có duyên hải, vừa có
cao nguyên, khí hậu Thừa Thiên Huế nói chung và Quảng Điền nói riêng có hai
mùa rõ rệt:
- Mùa khô từ tháng 3 đến thàng 8, chịu ảnh hưởng gió Tây Nam nên không
khí khô nóng, oi bức.
20
- Mùa mưa từ tháng 9 năm trước đến tháng giêng năm sau. Tháng 9 - 10
thường kéo theo lũ lụt. Tháng 11 mưa giai dẳng. Nhiệt độ trung bình là 25
o
C,
nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất là 29,4
o
C, nhiệt độ trung bình tháng nóng
nhất là 19,7
o
C. Nhiệt độ lúc cao nhất 39,9
o
C và lúc thấp nhất là 8,8
o
C. Các
tháng 7,8,9,10 thường hay có bão.
- Do cấu tạo địa hình có độ dốc từ Tây sang Đông khá lớn (15
o
) cùng các
đợt gió mùa kèm mưa lớn bị chặng lại ở đèo Hải Vân, Thừa Thiên Huế nói
chung và Quảng Điền nói riêng luôn luôn phải chịu sự đối xử tương đối khắc
nghiệt của thiên nhiên “chưa mưa đã úng, chưa nắng đã hạn” ở một số vùng.
Độ ẩm trung bình năm dao động 81% - 86%.
- Tuy vậy với những điều kiện tự nhiên thời tiết như trên đã tạo nhiều điều
kiện thuân lợi cho Quảng Điền phát triển kinh tế, đặc biệt là trồng trọt và nuôi
trồng thuỷ sản.
2.1.1.3. Địa hình đất đai, thổ nhưõng
Tổng diện tích của huyện là 163,07 km
2.
. Hình thành 3 vùng: Vùng trọng
điểm lúa thuộc lưu vực sông Bồ, vùng đất cát nội đồng và vùng đầm phá ven
biển. Tổng chiều dài bờ biển 12km và vùng đầm phá có diện tích 4.414 ha.Đất
nông nghiệp 5.996,6 ha,diện tích đất lâm nghiệp 2.368 ha.
Quảng Điền là một vùng đất thấp trũng, vựa lúa của tỉnh, chiếm diện tích
hơn 8684 ha. Đây là địa bàn quần tụ dân cư rất sớm, đời sống cư dân chủ yếu là
kinh tế nông nghiệp như các xã Quảng Thọ, Quảng Phước, Quảng Phú, Quảng
An, Quảng Thành....
Vùng cát nội địa, diện tích 4718ha, đại bộ phận đất chua phèn, úng ngập về
mùa mưa, khô hạn về mùa nắng. Đời sống dân cư chủ yế là nông nghiệp, kết
hợp một số cây công nghiệp như Quảng Lợi, Quảng Thái...Vùng cát biển, đầm
phá, diện tích 2292ha, đất trơ trụ, đại bộ phận là đất cát trắng, nghèo dinh
dưỡng. Đời sống dân cư chủ yếu là ngư nghiệp. Vùng này còn đang trỗi dậy
việc triển khai kinh tế nuôi trồng hải sản (nuôi tôm, cua xuất khẩu...).
21
2.1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội
2.1.2.1. Tình hình phát triển kinh tế
Quảng Điền vốn là một huyện từ xưa có nhiều ngành thủ công truyền thống,
tuy có một số nghề ngày nay đã mai một (như trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa....)
nhưng có một số nghề vẫn tồn tại và phát triển như đan lát ở Bao La, làng tơi
nón ở Ô Sa, nuôi vịt đàn, ấp trứng ở Thủ Lễ, làm bún ở Thanh Cần, mộc nề
vùng Sịa, Tây Ba, trồng rau màu ở Thành Trung....Từ nền kinh tế đó, đã tạo
nên nhiều chợ lớn, nhỏ và có nơi đã thành trung tâm mua bán, lưu thông có
tiếng như Sịa, Tây Ba.... những vùng đất - vệ tinh - gắn bó với kinh đô Huế một
thời.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân trong 5 năm 2001 - 2005 đạt
gần 7,6%, cao hơn so với bình quân thời kỳ 1996 - 2000 là 2,4%. Cơ cấu kinh
tế từng bước chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng các ngành nông, lâm,
ngư nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, xây dựng - dịch vụ chiếm tương ứng là
57,3% - 13,2% - 29,5% (chỉ tiêu là 63% - 12% - 25%). Cơ cấu đầu tư đúng
hướng, đã tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nhằm tạo ra năng
lực sản xuất mới. Các ngành, vùng kinh tế đều phát triển phù hợp với điều kiện
có được. Tổng sản phẩm trong huyện bình quân 5 năm qua đạt 222,755 tỷ
đồng, tăng 35,2% so với thời kỳ 1996 - 2000. Thu nhập bình quân đầu người
đến năm 2005 đạt 4,71 triệu đồng/năm, tăng 45,3% so với năm 2001. Cơ cấu
lao động trong các ngành Nông - Lâm - Ngư nghiệp, công nghiệp - xây dựng,
dịch vụ là 59,9% - 12% - 28,1% (chỉ tiêu là 67% - 10% - 23%).
Đến nay cơ cấu kinh tế vẫn là “Nông nghiệp - Dịch vụ- Công nghiệp” theo
nghị quyết đại hội X Đảng bộ huyện Quảng Điền đề ra thì phấn đấu đến 2010
thì cơ cấu kinh tế sẽ là “Dịch vụ - Nông nghiệp - Công nghiệp”.
2.1.2.2. Về tình hình xã hội
+ Giáo dục: Trong thời gian qua, các đơn vị đã chủ động trong việc cải
tiến, đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề, công tác
soạn giảng, chấm chữa, công tác khảo sát chất lượng học tập của học sinh để có
kế hoạch phụ đạo, bồi dưỡng đối với học sinh yếu kém; một số đơn vị có điều
22
kiện về cơ sở vật chất trang thiết bị dạy học đã động viên giáo viên tích cực
ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học nhằm không ngừng nâng cao chất
lượng giáo dục.
Đến năm 2008 thì 100% trường tiểu học; xây dựng phòng thực hành, phòng
bộ môn; huy động các nguồn lực để xây dựng tủ sách dùng chung và đầu tư xây
dựng thư viện chuẩn, tiếp tục chỉ đạo đơn vị THCS Quảng Phú xây dựng
trường đạt chuẩn quốc gia trong năm học 2007 - 2008 đang chuẩn bị hồ sơ đề
nghị tỉnh về kiểm tra công nhận.
Quan tâm đầu tư mua sắm thêm các trang thiết bị dạy học phục vụ cho hoạt
động chuyên môn của các đơn vị trường học.
Công tác giáo dục hướng nghiệp cho khối học sinh THCS cũng đã được
Phòng Giáo dục phối hợp với trung tâm khoa học kỹ thuật hướng nghiệp huyện
để huy động học sinh trên địa bàn huyện tham gia học nghề và tổ chức thi nghề
cho các em.
Hoàn thành kiểm tra phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2007 của các xã,
thị trấn, kết quả có 10/11 xã, thị trấn đạt chuẩn và huyện tiếp tục đạt chuẩn phổ
cập THCS (xã Quảng Vinh không đạt), đồng thời thông qua bước 1 đề án nâng
Trung tâm dạy nghề huyện thành Trường trung cấp nghề.
Huyện thường xuyên tập trung rà soát đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất
trường lớp, mua sắm trang thiết bị phục vụ cho giáo dục, tổ chức tập huấn
nghiệp vụ cho giáo viên và cán bộ quản lý khối Tiểu học và chỉ đạo hội thảo
trao đổi chuyên môn khối THCS.
Nhìn chung, công tác giáo dục luôn được các cấp, các ngành quan tâm. Đến
thời điểm hiện nay, tình hình đội ngũ, cơ sở vật chất, trang thiết bị cho dạy học
đáp ứng tốt yêu cầu giáo dục của huyện.
+ Y tế: Huyện luôn luôn thực hiện tốt các chương trình y tế cộng đồng, nâng
cao chất lượng, tăng cường công tác tuyên truyền, giám sát dịch bệnh và chăm
sóc sức khoẻ cho nhân dân. Huyện thường xuyên thực hiện công tác kiểm tra
liên ngành về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm ở các cơ sở sản xuất kinh
doanh và hướng dẫn toàn dân đảm bảo vệ sinh thực phẩm, ăn chín uống sôi,
23
chủ động phương án phòng chống dịch bệnh, đồng thời đã chỉ đạo các cơ sở y
tế nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, đặc biệt là bố trí đội ngũ y bác sỹ,
chuẩn bị các điều kiện phục vụ tốt nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân, chất
lượng khám chữa bệnh ở các trạm y tế đã có nhiều chuyển biến tích cực, lực
lượng y tế thôn ngày càng có hiệu quả.
Qua bảng sau cho ta thấy 100% số xã có trạm y tế cấp xã, số giường bệnh
ngày càng được bổ sung, số bác sĩ ngày càng tăng đáp ứng nhu cầu khám chữa
bệnh cho nhân dân tuy nhiên số y sĩ kỹ thuật viên đang ngày càng giảm, số
dược sỹ thiếu vì vậy cần bổ sung kịp thời để phục vụ tốt hơn nữa công tác
khám chữa bệnh và cấp bán thuốc cho bà con.
Bảng1 : Số cơ sở y tế, cán bộ y tế và số giường bệnh
Năm 2003 2004 200
5
2006
Số cơ sở y tế
Bệnh viện 1 1 1 1
Phòng khám đa khoa khu
vực
2 1 1 1
Trạm y tế xã Thị Trấn 11 11 11 11
Số giường Bệnh
Bệnh viện 50 60 60 60
Phòng khám đa khoa khu
vực
20 10 10 10
Trạm y tế 88 88 88 88
Số cán bộ y tế
Ngành y 48 40 38 37
Bác sỹ trình độ cao 28 28 30 32
Y sỹ kỹ thuật viên 48 40 38 37
Y tá, nữ hộ sinh 44 54 58 67
Ngành dược 6 7 7 7
Nguồn niên giám thống kê huyện Quảng Điền năm 2007
+ Hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, thông tin liên lạc
Huyện đã tích cực đầu tư cho giao thông nông thôn, với chính sách nhà
24
nước và nhân dân cùng làm, với phương châm nhà nước góp vốn, nhân dân
góp vốn và ngày công, trong thời gian qua toàn huyện đã bê tông hoá giao
thông nông thôn nhiều tuyến đường, thuận lợi chio giao thông và đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế xã hội, trong thời gian qua huyện cũng đã quan tâm đầu
tư đúng mức bê tông hoá kênh mương phục vụ tưới tiêu cho nông nghiệp.
Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động ý thức chấp hành luật giao
thông của mọi người dân trong địa phương, đồng thời tăng cường tuần tra,
kiểm soát nhằm ngăn chặn, phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
Phối hợp với ngành giáo dục tổ chức thi tìm hiểu luật giao thông đường bộ cho
tất cả các học sinh 11/11 trường THCS.
Trong huyện 11/11 xã được phủ sóng truyền thanh và truyền hình, 11/11 xã
có bưu điện văn hoá xã, 100% số xã được hoà mạng lưới điện quốc gia, đặc
biệt 11/11 xã có mạng Internet công cộng.
Tổng vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng trong giai đoạn đạt 299,9 tỷ
đồng, tăng bình quân hàng năm 13,1% và 18,2% so với thời kỳ 1996 - 2000.
Kết quả đầu tư đã làm tăng thêm năng lực sản xuất mới, từng bước phục vụ cho
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Một số công trình quan trọng đã đưa vào sử
dụng như đường Vinh - Phú, Sịa - Quảng Thọ, Tây Ba - Quán Cửa, La Vân -
Thanh Hà, Sịa - Mai Dương, cầu Vĩnh Hoà... Nâng cấp 2,3 km tỉnh lộ 11A, và
2 km tỉnh lộ 4 đoạn An Gia đi Quảng Lợi. Một số công trình thiết yếu đang tiếp
tục triển khai xây dựng như cầu Sịa, cầu Tứ Hạ - Quảng Phú, đường Nguyễn
Chí Thanh, tỉnh lộ 11... Chương trình bê tông hoá giao thông nông thôn đã
hoàn thành được 60% với 52,8/88,2km, chương trình kiên cố hoá kênh mương
đã hoàn thành 82,6% với 53,8/65km. Đã xây dựng và đưa vào sử dụng 3 trạm
bơm; các đê, đập dọc sông Bồ, phá Tam Giang được củng cố, đảm bảo chủ
động tưới tiêu cho 60,1% diện tích và chống sạt lở. Chương trình kiên cố hoá
trường học đã hoàn thành 60% với 267/446 phòng. Mạng lưới điện mở rộng
đến 98,9% số thôn và trên 95% số hộ được dùng điện. Hệ thống cấp nước sinh
hoạt đã phát triển đến 25,5% thôn, nâng tỷ lệ hộ được dùng nước sạch, hợp vệ
sinh toàn huyện lên 78%. Hoàn thành quy hoạch trung tâm huyện lỵ, trung tâm
25