Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo khoa học: "Mối quan hệ giữa kế hoạch và thị tr-ờng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam" ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.62 KB, 7 trang )


Mối quan hệ giữa kế hoạch v thị trờng
trong nền kinh tế thị trờng định hớng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

CN. Phạm thị xuân
Bộ môn Kinh tế chính trị
Khoa Mác Lênin, t tởng Hồ Chí Minh
Trờng Đại học GTVT

Tóm tắt: Vấn đề kế hoạch v thị trờng l mối quan tâm hng đầu của nhiều nh nghiên
cứu hiện nay, không những ở nớc ta m cả nhiều nớc trên thế giới. Vì muốn tìm tòi mô hình
quản lý kinh tế vĩ mô thích hợp v có hiệu quả hơn, kế hoạch hóa v cơ chế thị trờng cần đợc
kết hợp với nhau trong nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN. Nội dung của mối quan hệ ny
l kết hợp tính định hớng, cân đối của kế hoạch với tính năng động, nhạy bén của thị trờng
nhằm tạo động lực phát triển nền kinh tế.
Summary: Nowadays, market and planning are of most interest to researchers, in our
country and also in many countries in the world. As we would like to seek a more suitable and
effective model of macroeconomic management, market mechanism and planning should
coordinate in the socialist oriented market economy. The content of this relationship is to
combine orientation, balance of plans with dynamics, sensitivity of markets to create a driving
force for the economy's development.

KT-ML
i. đặt vấn đề
Lâu nay, ở nớc ta cũng nh các nớc xã
hội chủ nghĩa trớc đây có những mơ hồ trong
một số lý luận quan trọng nh: quan hệ của
các nớc xã hội chủ nghĩa đối với kế hoạch và
thị trờng, quan hệ giữa kinh tế kế hoạch và
kinh tế thị trờng; các nớc xã hội chủ nghĩa


có thể làm kinh tế thị trờng hay không v.v;
xác lập rõ biện pháp điều tiết kinh tế thị trờng
và địa vị do con ngời làm nên của chế độ xã
hội chủ nghĩa; mang phơng thức sản xuất
của toàn nhân loại, giải thích một cách phiến
diện thành mối chuyên lợi của chủ nghĩa t
bản; mang kinh tế kế hoạch với thị trờng gắn
cho chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ t bản
chủ nghĩa và ban cho nó nội hàm giai cấp.
ii. nội dung
Ngày nay, chúng ta nhận thức rằng kế
hoạch nhiều hơn một chút hay là thị trờng
nhiều hơn một chút không phải là sự phân
biệt của bản chất của chủ nghĩa xã hội hay
chủ nghĩa t bản. Kinh tế kế hoạch không
đồng nghĩa với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa t
bản cũng có kế hoạch; kinh tế thị trờng
không đồng nghĩa với chủ nghĩa t bản, chủ
nghĩa xã hội cũng có thị trờng. Kế hoạch và
thị trờng đều là biện pháp kinh tế.
Nớc ta đang xây dựng và phát triển nền
kinh tế thi trờng định hớng xã hội chủ nghĩa.

Nói kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa có nghĩa là kinh tế của ta không phải là
kinh tế bao cấp, quản lý theo cơ chế kế hoạch
hoá tập trung quan liêu bao cấp, nhng đó
cũng không phải là kinh tế thị trờng tự do nh
cách nói của t bản, tức không phải là kinh tế
thị trờng t bản chủ nghĩa và cũng không

phải là kinh tế thị trờng xã hội chủ nghĩa nh
Trung Quốc, bởi vì nớc ta còn đang trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, còn có sự
đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới,
vừa có vừa cha có đầy đủ yếu tố chủ nghĩa
xã hội.
Phù hợp với những điểm nói trên, có thể
nói rằng: kinh tế thị trờng định hớng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh
tế xã hội vừa dựa trên những nguyên tắc và
quy luật của kinh tế thị trờng, vừa dựa trên cơ
sở và đợc dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên
tắc, bản chất của chủ nghĩa xã hội trên cả ba
mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Do
đó, kinh tế thi trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa có hai nhóm nhân tố cơ bản tồn tại
trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho
nhau. Đó là nhóm nhân tố của kinh tế thị
trờng và nhóm của xã hội đang định hớng
xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nhóm thứ nhất,
đóngvai trò nh là động lực thúc đẩy sản
xuất xã hội phát triển nhanh, nhóm thứ hai
đóng vai trò hớng dẫn chế định sự vận động
của nền kinh tế theo những mục tiêu đã đợc
xác định. Do đó, có thể nói rằng nền kinh tế
thị trờng ở nớc ta vừa mang những đặc
trng chung của kinh tế thị trờng, vừa mang
tính đặc thù định hớng xã hội chủ nghĩa. Một
trong những đặc trng bản chất của kinh tế thi
trờng định hớng xã hội chủ nghĩa: cơ chế

vận hành nó là cơ chế thị trờng có sự quản lý
của Nhà nớc dới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt Nam. Cơ chế đó đảm bảo tính
hớng dẫn, điều khiển h
ớng tới đích xã hội
chủ nghĩa của nền kinh tế thị trờng theo
phơng châm: Nhà nớc điều tiết vĩ mô, thị
trờng hớng dẫn doanh nghiệp.
Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trờng
định hớng xã hội chủ nghĩa nêu ở trên thể
hiện rõ các mặt cơ bản.
Một là, Nhà nớc xã hội chủ nghĩa nhà
nớc của dân, do dân và vì dân là nhân tố
đóng vai trò nhân vật trung tâm và điều tiết
nền kinh tế vĩ mô nhằm tạo dựng và đảm bảo
môi trờng pháp lý, kinh tế, xã hội thuận lợi
cho các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế
thị trờng; thực hiện các chính sách xã hội,
đảm bảo công bằng xã hội; can thiệp trực tiếp
vào các hoạt động kinh tế để đạt đợc mục
tiêu đề ra.
Hai là, cơ chế thị trờng là nhân tố trung
tâm của nền kinh tế và xã hội theo nguyên
tắc kết hợp kế hoạch với thị trờng, phát huy
mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu
cực của cơ chế thị trờng, bảo vệ lợi ích của
ngời lao động và của toàn thể nhân dân.
KT-ML
Có một số ngời cho rằng khi chuyển
sang kinh tế thị trờng thì Nhà nớc đừng can

thiệp vào nền kinh tế và kế hoạch hoá vĩ mô
của nhà nớc cũng không cần thiết nữa. Quan
niệm đó là đơn giản, hoàn toàn sai lầm và
không có căn cứ lý luận và thực tiễn.
Ngày nay, trên thế giới hầu nh ở tất cá
các nớc, nhà nớc đều quản lý nền kinh tế
thị trờng. Kể cả trong lý thuyết và trên thực
tiễn, không có nền kinh tế thị trờng nào có
thể hoạt động mà không có sự đều tiết của cả
thị trờng, cơ chế thị trờng và nhà nớc. Vì
thế, cái gọi là vấn đề nhà nớc và cơ chế thị
trờng thực ra không phải là vấn đề lựa chọn
giữa nhà nớc và cơ chế thị trờng, càng
không phải là đã chọn nhà nớc thì thôi cơ
chế thị trờng và ngợc lại, mà vấn đề là xác

định phạm vị hợp lý cho cả nhà nớc và cơ
chế thị trờng. Điều này hàm ý là:
Trong điều hành, quản lý vĩ mô nền kinh
tế nhà nớc cần hạn chế tối đa những mệnh
lệnh hành chính để cho các hoạt động thị
trờng đợc diễn ra chủ yếu theo sự hớng
dẫn của các quy luật kinh tế thị trờng; quy
luật giá trị; quan hệ cung cầu và cạch tranh
v.v đảm bảo nguyên tắc vận hành nền kinh
tế là nguyên tắc thị trờng, cơ chế thị trờng
tự điều chỉnh. Mặt khác, do thị trờng trong
nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa không phải là thị trờng tự điều tiết hoàn
toàn mà còn phải phục vụ các mục tiêu kinh

tế xã hội của đất nớc trong từng thời kỳ, do
đó, nó còn phải chịu sự điều chỉnh, quản lý
của Nhà nớc xã hội chủ nghĩa. Do vậy,
không thể xem các quan hệ thị trờng, cơ chế
thị trờng hoạt động theo những quy luật kinh
tế khách quan một cách độc lập, biệt lập hoàn
toàn với kế hoạch hoá định hớng và các
chính sách kinh tế của Nhà nớc.
KT-ML
Kế hoạch hoá và cơ chế thị trờng cần
đợc kết hợp với nhau trong cơ chế vận hành
nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa , thực chất của mối liên hệ giữa kế
hoạch hoá và cơ chế thị trờng có thể đợc
xem xét dới các khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, kế hoạch hoá và cơ chế thị
trờng đều là những phơng tiện, công cụ để
phát triển kinh tế, chúng có những tác dụng
tích cực và những hạn chế nhất định, nên kết
hợp kế hoạch hoá và cơ chế thị trờng trong
cơ chế vận hành kinh tế thị trờng định hớng
xã hội chủ nghĩa để bổ sung cho nhau, tạo
động lực mạnh mẽ phát triển kinh tế xã hội.
Kế hoạch hoá là hình thức thực hiện tính
kế hoạch, nó là động lực chủ quan của chủ
thể quản lý, sản phẩm của kế hoạch hoá là kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội. Để thực hiện
chức năng kinh tế của mình, nhà nớc của
các quốc gia dù lớn hay nhỏ, dù ở trình độ
phát triển kinh tế cao hay thấp cũng cần phải

kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân.
Một trong những lý do cho sự cần thiết
khách quan của kế hoạch hóa kinh tế vĩ mô là
sự thất bại của thị trờng. ở nớc ta, thị trờng
cha phát triển đầy đủ, đồng bộ những thành
tố chủ yếu của nó. Do vậy, giá cả trên thị
trờng nh vậy dễ bị xuyên tạc vì ngời sản
xuất và ngời tiêu dùng thiếu những thông tin
cần thiết, sự điều tiết của thị trờng và cơ chế
thị trờng trong điều kiện nh vậy sẽ có nhiều
khả năng dẫn đến những quyết định sai lầm
và kém hiệu quả của sản xuất và lu thông.
Đặc biệt là thị trờng vốn còn sơ khai cha
đảm bảo đợc vai trò trung gian cần thiết cho
quá trình phát triển. Trong điều kiện ấy, nếu
không có sự can thiệp của Chính phủ thông
qua kế hoạch hoá thì những nguồn lực kinh tế,
nhất là những nguồn lực khan hiếm dễ bị phân
bổ một cách sai lệch, không đạt hiệu quả kinh
tế xã hội mong muốn. Năm 1970, tổ chức
phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc
(UNIDO) cũng đã đa ra lập luận sau đây về
thất bại của thị trờng nh một lý do cho sự
cần thiết kế hoạch hoá ở các nớc đang phát
triển: Chính phủ không thể và không nên chỉ
đóng vai trò thụ động trong quá trình mở rộng
công nghiệp. Kế hoạch hoá đã trở thành một
bộ phận chủ yếu và cần thiết của các chơng
trình phát triển công nghiệp, về bản thân các
tác nhân của thị trờng không thể không khắc

phục sự cứng nhắc về cơ cấu đã ăn sâu trong
nền kinh tế của các nớc đang phát triển
)(1)
Kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trờng
dĩ nhiên phải khác kế hoạch hoá trong nền
kinh tế hiện vật, bao cấp. Kế hoạch hoá trong
điều kiện nền kinh tế thị trờng phải thực thi
những nhiệm vụ chủ yếu dới đây:

Dự báo phát triển kinh tế - xã hội.
Xây dựng chiến lợc phát triển kinh tế xã
hội trong từng thời kỳ nhất định.
Xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế xã hội, quy hoạch ngành và vùng
lãnh thổ.
Xây dựng kế hoạch 5 năm và hàng năm.
Đảm bảo các cân đối chủ yếu và các lĩnh
vực then chốt của nền kinh tế.
Xây dựng và thực hiện các chơng trình
quốc gia.
Chỉ đạo thực hiện kế hoạch.
Thực hiện đợc các nhiệm vụ này, kế
hoạch hoá thể hiện đợc vai trò là cơng lĩnh
thứ hai của Đảng và là công cụ và phơng
pháp phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo cân
bằng tổng thể, gắn mục tiêu phát triển kinh tế
với phát triển xã hội ngay từ đầu. Nó đảm bảo
cho nền kinh tế tăng trởng ổn định, đạt hiệu
quả cao, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã
hội.

KT-ML
Tuy vậy, cũng cần thấy rằng, kế hoạch
hoá có những hạn chế của nó, khi áp đặt chủ
quan duy ý chí trong công tác kế hoạch hoá
và trong điều kiện của nền kinh tế thị trờng,
kế hoạch hoá thờng không đợc nhanh,
nhay. Ngời ta thờng nói tới hai nhóm
nguyên nhân hạn chế của kế hoạch hoá là:
1. Khoảng cách giữa các lợi ích kinh tế
trên lý và kết quả đạt đợc trong thực tế kế
hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội.
2. Nhợc điểm cơ bản trong quá trình kế
hoạch hoá, đặc biệt là những khiếm khuyết
liên quan đến năng lực, chất lợng bộ máy và
thực thi kế hoạch. Chính vì thế, cần phải đợc
bổ sung bởi thị trờng và cơ chế thị trờng
trong việc quản lý, điều tiết kinh tế vĩ mô.
Nền kinh tế thị trờng tất yếu vận động
theo cơ chế thị trờng. Thị trờng và cơ chế
thị trờng là những phạm trù kinh tế khách
quan và là phơng tiện để đạt mục tiêu kinh
tế. Một mặt, nó có tác dụng tích cực, kích thích
các nhà kinh doanh cạnh tranh, cải tiến sản
xuất, kỹ thuật, đổi mới công nghệ, cải tiến mặt
hàng nhằm mục đích nâng cao hiệu quả
kinh tế lợi nhuận. Song mặt khác, thị trờng
và cơ chế thị trờng có những hạn chế. Các
nghiên cứu đã tổng thể kết thành 5 mặt hạn
chế và khuyết tật của cơ chế thị trờng nh
sau:

* Cơ chế thị trờng nếu không có sự điều
tiết vĩ mô của nhà nớc sẽ dẫn đến sản xuất
mù quáng gây nên các cuộc khủng hoảng
thừa, thiếu.
* Cơ chế thị trờng canh tranh tự do sẽ
dẫn đến phá sản các doanh nghiệp, gây ra
những hậu quả tiêu cực về mặt xã hội nh mất
việc làm, thất nghiệp.
* Trong cơ chế thị trờng do chạy theo lợi
nhuận, các doanh nghiệp không đầu t kinh
doanh vào các ngành. Các lĩnh vực ít lợi
nhuận hoặc không có lợi nhuận, thậm chí thua
lỗ, song xã hội rất cần, đặc biệt là các sản
phẩm và dịch vụ công cộng.
* Cơ chế thị trờng không có khả năng tự
điều tiết sự phát triển ở các vùng kém lợi thế
so sách vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa so
với những vùng thuận lợi, đồng thời có xu
hớng làm sâu sắc thêm sự phân hoá thu
nhập giữa các vùng.
* Cơ chế thị trờng là môi trờng dễ nảy
sinh tình trạng kinh doanh lừa đảo, làm hàng
giả, lối sống chạy theo đồng tiền, các tệ nạn
xã hội, thậm chí tội ác do chạy theo đồng tiền
và huỷ hoại môi trờng sinh thái.
Vì thế việc điều hành, quản lý nền kinh tế

không chỉ dựa vào cơ chế thị trờng.
Cơ chế thị trờng mà chúng ta hớng tới
là cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà

nớc thông qua các công cụ và biện pháp,
trong đó kế hoạch hoá mang tính tổng hợp và
định hớng. Các nhà kinh tế học Phơng Tây,
khi phân tích cơ chế thị trờng cũng phải thừa
nhận rằng, song song với việc mở rộng thị
trờng cần phải có sự can thiệp của nhà nớc
thông qua kế hoạch hoá. Điều đó không phải
chỉ vì thị trờng, cơ chế thị trờng có khuyết
tật, mà còn vì xã hội đặt ra những mục tiêu mà
thị trờng và cơ chế thị trờng dù có hoạt
động tốt cũng không đáp ứng đợc.
Nh vậy, có thể nói rằng, thực chất mối
liên hệ giữa kế hoạch hoá và cơ chế thị trờng
là mối quan hệ hữu cơ, nội tại của hai bộ phận
hợp thành cơ chế vận hành nền kinh tế thị
trờng định hớng xã hội chủ nghĩa, là mối
quan hệ giữa quản lý nhà nớc và sự điều tiết
của cơ chế thị trờng.
KT-ML
Thứ hai, thực chất của mối quan hệ kế
hoạch và cơ chế thị trờng có thể đợc hiểu là
sự kết hợp điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch
và điều khiển gián tiếp thông qua cơ chế thị
trờng các hoạt động kinh tế trong xã hội.
Chúng ta đều biết rằng, trong tất cả mô
hình kinh tế đợc đúc kết đến nay trên thế giới
đều có hai dạng điều tiết kinh tế; một là, điều
khiển trực tiếp bằng kế hoạch và các biện
pháp hành chính. Hai là; điều khiển gián tiếp
thông qua thị trờng, vận dụng cơ chế thị

trờng để tác động đến hoạt động của các
doanh nghiệp, dùng các chính sách và đòn
bẩy kinh tế để khuyến khích hay gây áp lực
buộc các doanh nghiệp phải phát triển trong
khuôn khổ và theo hớng kế hoạch do nhà
nớc đề ra. Hai dạng điều tiết này chỉ khác
nhau ở mức độ, liều lợng, hình thức của mỗi
dạng trong cơ chế chung. Sở dĩ nh vậy là vì,
với t cách là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô,
là biện pháp, thủ đoạn kinh tế, cả kế hoạch
hoá và thị trờng, cơ chế thị trờng đều có u
thế và khuyết tật của nó.
Ngợc dòng lịch sử chúng ta sẽ thấy
đợc t tởng về sự kết hợp hai dạng điều tiết
kinh tế. Chúng ta đều biết Adam Smith (1723
- 1790) một nhà kinh tế học nổi tiếng ngời
Anh đã đa thuyết Bàn tay vô hình và
nguyên lý nhà nớc không can thiệp vào tổ
chức nền kinh tế hàng hoá. Theo ông, phát
triển kinh tế cần tuân theo những nguyên tắc
tự do. Sự hoạt động của toàn bộ kinh tế là do
các quy luật khách quan tự điều tiết; sự vận
động của thị trờng là do quan hệ cung cầu
và sự biến đổi tự phát của giá cả trên thị
trờng quyết định; quan hệ giữa ngời với
ngời chủ yếu là quan hệ lợi ích kinh tế. Nh
vậy, để cho nền kinh tế phát triển lành mạnh,
nhà nớc không nên can thiệp vào kinh tế thị
trờng, vào hoạt động của các doanh nghiệp.
Tuy coi trọng bàn tay vô hình, song

Adam Smith cũng nhận thấy rằng đôi khi nhà
nớc cũng có nhiệm vụ kinh tế nhất định; đó
là trờng hợp các nhiệm vụ kinh tế vợt quá
khả năng của một doanh nghiệp nh: làm
đờng giao thông, xây dựng bến cảng, đào
các con kênh lớn lĩnh vực của ngoài nhà
nớc ra, không ai đảm nhận đợc. Nh vậy, rõ
ràng là kinh tế càng phát triển, xã hội hoá sản
xuất càng mở rộng, thị trờng càng phát triển
càng cần có sự quản lý của nhà nớc đối với
nền kinh tế. Tuy vậy, nhìn chung các nhà kinh
tế vẫn coi tự do kinh tế là sức mạnh của nền
kinh tế thị trờng, quy luật kinh tế là vô địch,
mặc dù chính sách kinh tế có thể kìm hãm hay
thúc đẩy ở một mức độ nhất định sự hoạt
động của nó.
Vào đầu những năm 30 của thế kỷ XX,
nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra thờng
xuyên, đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới những năm 1929 1933, cho thấy,

bàn tay vô hình không thể đảm bảo cho nền
kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa phát triển
ổn định. Hơn nữa, trình độ xã hội hoá sản xuất
phát triển cao đã làm cho các nhà kinh tế thấy
rõ là cần có một lực lợng nhân danh xã hội
can thiệp vào quá trình hoạt động của thị
trờng, góp phần điều tiết kinh tế. Từ đó, nhà
kinh tế học ngời Anh John May nard Keynes
(1884 - 1946) đã đa ra lý thuyết nhà nớc

điều tiết nền kinh tế thị trờng J.M. keynes và
những ngời theo ông cho rằng, nhà nớc cần
can thiệp vào kinh tế cả ở tầm vĩ mô và vi mô.
ở tầm vi mô, nhà nớc trực tiếp phát triển các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ
công cộng.
Học thuyết Keynes cho rằng, sự can
thiệp của nhà nớc vào nền kinh tế sẽ giúp
khắc phục đợc khủng hoảng, thất nghiệp, tạo
ra sự ổn định cho phát triển kinh tế - xã hội.
Song những chấn động lớn trong nền kinh tế
lúc đó, nh khủng hoảng, thất nghiệp, lạm
phát ngày càng xảy ra trầm trọng. Từ đó, đã
xuất hiện ý tởng phối hợp, bàn tay vô hình
và ban tay nhà nớc để điều tiết nền kinh tế
thị trờng. Trong số các nhà kinh tế ủng hộ t
tởng điều hành nền kinh tế thông qua cơ chế
phối hợp, quan điểm của Paul samuelson
(nhà kinh tế học ngời Mỹ) là rất đợc chú ý.
Trong cuốn kinh học, ông viết: Điều hành một
nền kinh tế không có chính phủ hoặc thị
trờng thì cũng nh định vỗ tay bằng một bàn
tay. Với xu hớng phối hợp này, các nhà kinh
tế đều đã thừa nhận rằng, các nhà kinh tế
hiện đại muốn phát triển phải dựa vào cả cơ
chế thị trờng cũng nh sự quản lý của nhà
nớc. Hiện nay quan điểm về s phù hợp này
đang là cơ sở lý luận cho mô hình quản lý, điều
tiết kinh tế ở nhiều nớc với mức độ khác nhau.
Từ sự trình bày ở trên, có thể nhận xét

rằng: thực chất của vấn đề kế hoạch hoá và
thị trờng, cơ chế thị trờng, xét từ góc độ nhà
nớc, có thể đợc coi là sự kết hợp giữa điều
khiển trực tiếp của nhà n
ớc bằng kế hoạch
và điều khiển gián tiếp thông qua cơ chế thị
trờng đối với các hoạt động kinh tế. Thực tế
ngày càng chứng tỏ, sẽ hợp lý và hiệu quả
hơn nếu thông qua công cụ kế hoạch hoá mà
nhà nớc điều tiết thị trờng để thị trờng điều
tiết sản xuất và điều chỉnh các hàng vi của
doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trờng
định hớng xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh
tế theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị
trờng (kế hoạch hoá và cơ chế thị trờng) sẽ
càng có thêm điều kiện giải phóng, phát huy
lực lợng sản xuất, đẩy nhanh sự phát triển
kinh tế xã hội.
Mối quan hệ giữa kế hoạch hoá và cơ
chế thị trờng (giữa kế hoạch và thị trờng)
đợc thực hiện ở cả tầm vi mô lẫn vĩ mô và ở
trong tất cả các khâu của quá trình tái sản
xuất xã hội - sản xuất phân phối - trao đổi và
tiêu dùng và cả trong kế hoạch phát triển kinh
tế lẫn trong kế hoạch phát triển xã hội.
Mối quan hệ giữa kế hoạch hoá và cơ
chế thị trờng trong phát triển kinh tế thị
trờng định hớng xã hội chủ nghĩa theo nội
dung định hớng chung là: Kết hợp tính định
hớng và cân đối của kế hoạch với tính năng

động, nhạy cảm của thị trờng. Trên cơ sở nội
dung định hớng chung ấy, những nội dung
định hớng cụ thể của mối liên hệ kế hoạch
hoá và cơ cơ chế thị trờng có thể đợc xác
định nh sau:
KT-ML
1. ở tầm vi mô, thị trờng là căn cứ để
xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh,
thông qua sự biến động của quan hệ cung
cầu và giá cả thị trờng, các doanh nghiệp lựa
chọn các phơng án sản xuất tối u và từ đó
mà các doanh nghiệp lựa chọn cơ cấu sản
xuất, cơ cấu đầu t của mình. Thoát ly yêu
cầu của thị trờng, các mục tiêu của kế hoạch
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ
không thực hiện đợc tốt.

2. ở tầm vĩ mô, mặc dù thị trờng không
phải là căn cứ duy nhất, có tính quyết định,
song kế hoạch hoá không thể thoát ly khỏi
tình hình biến động của thị trờng, thoát ly thị
trờng, kế hoạch hoá vĩ mô trở nên duy ý chí.
Kế hoạch hoá vĩ mô nhằm đảm bảo các cân
đối lớn, tổng thể của nền kinh tế quốc dân
nh: tổng cung, tổng cầu, sản xuất và tiêu
dùng, hàng hoá, tiền tệ, phát triển kinh tế và
phát triển xã hội cần chú ý các vấn đề dới
đây.
- Tôn trọng các quy luật vận động của
kinh tế thị trờng, nghĩa là phải nhận thức, tiếp

cận và tạo môi trờng cho thị trờng vận động
phù hợp với quy luật, chứ không thể áp đặt
quyền lực hành chính lên thị trờng.
- Phải xuất phát từ nhu cầu thị trờng,
nghiên cứu thị trờng để lựa chọn các mục
tiêu và phải hợp lý.
- Trong điều kiện nớc ta, khi nền kinh tế
thị trờng trong quá trình hình thành và phát
triển thì kế hoạch hoá có nhiệm vụ góp phần
tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trờng,
hoàn thiện các loại thị trờng đi đôi với việc
xây dựng khung khổ pháp lý và thể chế, tăng
cờng sự kiểm tra, giám sát của nhà nớc để
thị trờng hoạt động năng động, có hiệu quả,
có trật tự kỷ cơng trong môi trờng cạnh
tranh lành mạnh.
KT-ML
- Kế hoạch hoá nhằm xây dựng các mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội, các cân đối lớn
của nền kinh tế, tính toán sức mua trên thị
trờng, các biện pháp bảo đảm cân đối cung
cầu để định hớng cho sự vận động của thị
trờng, bảo đảm cho nền kinh tế ổn định, tăng
trởng và có hiệu quả.
- Kế hoạch hoá cần nắm chắc và sử
dụng linh hoạt các công cụ kinh tế, các chính
sách tài chính, tiền tệ, thuế, lãi suất, tỷ giá
để điều chỉnh sự hoạt động của thị trờng
hớng theo mục tiêu đã xác định.
iii. Kết luận

Vấn đề mối liên hệ giữa kế hoạch hoá và
cơ chế thị trờng trong việc phát triển kinh tế
thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa là một
đề tài rộng lớn và khá phức tạp. Do đó, những
điểm nêu ra trong bài viết này chắc chắn còn
cha đầy đủ. Song có thể kết luận rằng: bản
chất của mối liên giữa kế hoạch và thị trờng
là mối quan hệ giữa quản lý nhà nớc và sự
điều tiết của cơ chế thị trờng; là sự kết hợp
điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch và điều
khiển gián tiếp qua cơ chế thị trờng các hoạt
động kinh tế. Định hớng nội dung của mối
quan hệ này là kết hợp tính định hớng, cân
đối của kế hoạch với tính năng động, nhạy
bén của thị trờng.
Chú thích:
1. R.heflgoth và S. Schivaxo Campo:
Phần mở đầu cho kế hoạch hoá phát triển
1970 , tr11 .
Tài liệu tham khảo
[1]. Bộ khoa học công nghệ và môi trờng. Tài liệu
hội thảo; đề tài khoa học cấp nhà nớc: Cơ sở khoa
học và thực tiễn của việc đổi mới công tác kế
hoạch hoá kinh tế vĩ mô ở Việt Nam trong điều kiện
đẩy mạnh CNH HĐH. Chủ nhiệm đề tài: TS.
Đặng Đức Đạm. Hà nội, tháng 3 năm 2000.
[2]. Đề cơng các bài giảng nghiên cứu quán triệt
Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng. Hà nội,
2001.
[3]. Giáo trình: Lịch sử các học thuyết kinh tế. Nhà

xuất bản chính trị Quốc gia. Hà nội, 1999.
[4]. GS.TS. Lơng Xuân Quý (chủ biên). Cơ chế thị
trờng và vai trò của nhà nớc trong nền kinh tế
Việt Nam. NXB thống kê. Hà nội,1994
[5]. Mã Hồng ( chủ biên). Kinh tế thị trờng XHCN,
Nhà xuất bản chính trị Quốc gia. Hà nội,1995


×