Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Quan hệ phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.06 KB, 27 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Từ đại hội lần thứ IX Đảng ta đã chính thức sử dụng thuật ngữ “ kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa “. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực
chất là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong chặng đường đầu của thời kì quá độ ở nước ta, nền kinh tế còn tồn tại nhiều
thành phần kinh tế và nhiều hình thức lợi ích kinh tế khác nhau, và tất yếu là còn tồn
tại những mâu thuẫn giữa các hình thức kinh tế đó . Một trong những u cầu của việc
vận dụng hệ thống quy luật kinh tế khách quan của nền kinh tế là phải biết kịp thời
phát hiện những mâu thuẫn và tìm cách giải quyết chúng. Việc giải quyết các quan hệ
về lợi ích kinh tế được thể hiện thông qua quan hệ phaan phối thu nhập .
Phân phối thu nhập có vị trí quan trọng trong kinh tế chính, nó liên quan đến các
vấn đề kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước. Phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội là một vấn đề vô cùng quan trọng để tạo ra động lực mạnh mẽ
thúc đẩy sản xuất phát triển, ổn định tình hình kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân
dân, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Để hiểu được cuộc sống ở một quốc gia như thế nào thì vấn đề thu nhập bình quân
đầu người của quốc gia đó là chưa đủ . Số người nghèo của một quốc gia và chất
lượng cuộc sống trung bình cịn phụ thuộc vào phân phối thu nhập ở nước đó có bình
đẳng hay khơng, tức là chúng ta phải tìm hiểu về vấn đề phân phối thu nhập của nước
đó .


Trên cơ sở đó , đồng thời đã được nghiên cứu qua bộ mơn kinh tế chính trị , để
hiểu hơn về tình hình kinh tế nói chung cũng như chất lượng cuộc sống trong nền kinh
tế mới . Tác giả đã nghiên cứu về “Quan hệ phân phối thu nhập trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”.

1

NỘI DUNG


A-CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUAN HỆ PHÂN PHỐI THU NHẬP
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở VIỆT NAM.

I-

BẢN CHẤT VÀ VỊ TRÍ CỦA PHÂN PHỐI THU NHẬP.


1.

Thu nhập và phân phối thu nhập.

Nếu lợi ích kinh tế là những quan hệ kinh tế phản ánh những nhu cầu, động cơ
khách quan về sự hoạt động của các giai cấp, những nhóm xã hội hay của từng người
lao động riêng biệt, do quan hệ sản xuất quyết định. Thì thu nhập là những của cải
vật chất mà người lao động, những nhóm xã hội… có được do các hoạt động sản xuất,
lao động mang lại. Các tầng lớp dân cư khác nhau có các thu nhập khác nhau, đó là
tiền lương, tiền cơng, lợi tức, lợi tức cổ phần và thu nhập từ các quỹ tiêu dùng cơng
cộng. Trình độ của người lao động ln khác nhau, mỗi người làm ở một cấp bậc khác
nhau, công việc của họ cũng khác nhau, do vậy mà những lợi ích kinh tế cũng như
thu nhập mà họ nhận được là khác nhau. Nếu trong nền kinh tế quan liêu, bao cấp
ngày xưa , mọi người làm việc như nhau và sản phẩm được chiađều công bằng tức là
thu nhập của họ gần như là ngang nhau cho dù trình độ của họ khác nhau, đã khơng
khuyến khích được người lao động tích cực hưn cũng như đối với những người có
trình độ cao, do đó khơng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thì trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa lại khác, trình độ khác nhau thì thu nhập cũng
khác nhau.
Phân phối thu nhập là phân phối những của cải vật chất đó cho người lao động
một cách công bằng nhất. Thu nhập khác nhau đó là do có sự phân phối thu nhập hợp

lí . Do đó , phân phối thu nhập là vấn đề quan trọng tạo sức mạnh thúc đẩy phát triển
sản xuất , ổn định kinh tế – xã hội, tạo công bằng trong xã hội . Và phân phối thu nhập
cho ta biết một phần nào về sự giàu nghèo trong xã hội . Phân phối thu nhập bất bình
đẳng sẽ ảnh hưởng tới đời sống kinh tế xã hội như thế nào ?


2.

2. Vị trí của phân phối thu nhập.
Phân phối là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội.
Quá trình tái sản xuất xã hội bao gồm 4 khâu: sản xuất, phân phối, trao đổi , tiêu
dùng. Và các khâu này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau mà trong đó sản xuất là khâu
cơ bản có vai trò quyết định. Các khâu còn lại phụ thuộc vào sản xuất và cũng có tác
động tới sản xuất, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng phát triển, đồng thời chúng còn là
trung gian nối sản xuất với tiêu dùng . Nếu khơng có sản xuất thì sẽ khơng có các
khâu cịn lại vì khi đó sẽ khơng có sản phẩm để phân phối, trao đổi và tiêu thụ. Còn
nếu khơng có khâu phân phối thì sản phẩm sẽ khó trao đổi và khi sản phẩm khơng
được tiêu thụ thì sẽ gây ra sự ứ đọng sản phẩm gây khó khăn cho nhà sản xuất vì bị lỗ
vốn, khi đó q trình sản xuất se khơng được tiếp tục tiến hành. Nói cách khác , q
trình tái sản xuất xã hội không thể thiếu một trong các khâu trên , nếu thiếu một trong
các khâu đó thì q trình tái sản xuất sẽ không thực hiện được , dẫn tới nền kinh tế bị
trì trệ, khơng phát triển được . Chính vì vậy mà phân phối có vai trị rất quan trọng
trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Phân phối bao gồm các bộ phận như phân phối cho tiêu dùng sản xuất, phân phối
thu nhập . Trong đó , phân phối cho tiêu dùng sản xuất là sự phân phối tư liệu sản
xuất, sức lao động của xã hội vào các nghành sản xuất , phân phối tiêu dùng sản xuất
chính là tiền đề, điều kiện và là một yếu tố sản xuất quyết định tới quy mô, cơ cấu và
tốc độ phát triển của sản xuất. Phân phối thu nhập quốc dân hình thành thu nhập của
các tầng lớp dân cư trong xã hội . Phân phối thu nhập là kết quả của sản xuất, do sản
xuất quyết định.Thu nhập của người lao động là một chỉ báo quan trọng phản ánh mức

sống của dân cư và trình độ phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đối với Việt Nam,
kinh tế thị trường chưa phát triển, đại bộ phận dân cư sống ở nông thôn và làm nông


nghiệp, một bộ phận không nhỏ làm việc ở khu vực phi kết cấu, thu nhập, tiền lương,
tiền công… của họ thường được trả trực tiếp bằng tiền mặt thậm chí bằng hiện vật .
Và một bộ phận có thu nhập ngoài lương. Tuy phân phối phụ thuộc trực tiếp vào sản
xuất, nhưng nó cũng có tác động khơng nhỏ tới q trình sản xuất đó là thúc đẩy hoặc
kìm hãm sự phát triển của sản xuất . Ph.Ănghen có viết: “ Phân phối không phải chỉ
đơn thuần là kết quả thụ động của sản xuất và trao đổi” 1. Nó cũng liên quan mật thiết
tới việc ổn định tình hình kinh tế – xã hội và nâng cao đời sống nhân dân.
Phân phối là phân phối tổng sản phẩm xã hội và phân phối thu nhập quốc dân và
nó được thực hiện dưới hình thức phân phối hiện vật và phân phối dưới hình thái giá
trị(phân phối qua quan hệ tài chính , tín dụng…).
Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, phân
phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm xã hội. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của
___________________
1. S đ d, t20, tr120.

3.

sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trong các mặt sản xuất, tổ chức
quản lí , phân phối và lưu thơng. Như vậy, trong quan hệ sản xuất đã bao hàm cả quan
hệ phân phối như C.Mac đã nói: “ quan hệ phân phối về thực chất cũng đồng nhất với
quan hệ sản xuất ấy, rằng chúng cấu thành mặt sau của quan hệ sản xuất ấy” 1. Xét về
quan hệ giữa người với người thì phân phối do quan hệ sản xuất quyết định. Vì vậy,
mỗi phương thức sản xuất có quy luật phân phối của cải vật chất thích ứng với nó.
Quan hệ sản xuất như thế nào thì quan hệ phân phối như thế ấy, cơ sở của quan hệ
phân phối là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ trao đổi hoạt động cho

nhau. Sự biến đổi lỉch sử của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất kéo theo sự biến


đổi của quan hệ phân phối. Quan hệ phân phối có tác động trở lại đối với quan hệ sở
hữu và do đó nó có thể làm tăng hoặc giảm quy mơ sở hữu hay làm biến dạng tính
chất của quan hệ sở hữu .
Quan hệ sản xuất vừa có tính đồng nhất vừa có tính lịch sử. Tính đồng nhất thể
hiện ở chỗ , trong bất cứ xã hội nào thì sản phẩm đều được chia cho các bộ phận sau:
một bộ phận cho tiêu dùng sản xuất , một bộ phận cho dữ trữ và một bộ phận cho tiêu
dùng xã hội và tiêu dùng cá nhân. Như vậy, sản phẩm sau khi sản xuất sẽ được mang
phân phối đều cho các bộ phận trong xã hội .
Tính lịch sử của quan hệ phân phối là mỗi xã hội có quan hệ phân phối riêng phù
hợp với tính chất của quan hệ sản xuất xã hội đó, nghĩa là quan hệ phân phối là một
mặt của quan hệ xã hội. Do quan hệ phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất mà
quan hệ sản xuất mang tính lịch sử nên quan hệ phân phối cũng mang tính lịch sử.
Trong mỗi xã hội, khi lực lượng sản xuất thay đổi thì quan hệ sản xuất phải thay đổi
sao cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất do đó quan
hệ phân phối cũng phải thay đổi sao cho phù hợp. Trong thời kì quan liêu bao cấp
ngày xưa thì lực lượng sản xuất còn yếu kém, nền kinh tế chưa phát triển , mọi người
còn làm việc dưới mọi sự chỉ huy của Nhà nước, các doanh nghiệp làm việc không
độc lập mà tất cả các khâu hầu hết đều do Nhà nước đảm nhiệm , do đó khơng có tính
linh động và mọi người làm việc chung , sản phẩm được chia đều theo sản lượng mà
mọi người làm được . Và như vậy là đã tốt hơn rất nhiều so với thời kì mà tất cả mọi
người làm chung, ăn chung do đó sản phẩm được chia đều . Tức là trong mỗi xã hội
thì phân phối thu nhập lại có những kiểu cách riêng của nó miễn sao phù hợp với nền
kinh tế đó.Và với trình độ lực lượng sản xuất phát triển như hiện nay thì phân phối sản
xuất cũng như phân phối thu nhập cũng thay đổi phù hợp với nó, nếu như phân phối
thu nhập mà q bất bình đẳng thì sẽ khơng tốt đối với tính hiệu quả của nền kinh tế,
cịn nếu như nó phù hợp với tính chất của nền kinh tế thì nó sẽ thúc đẩy nền kinh tế
phát triển.



C.Mac viết: “ Quan hệ phân phối nhất định chỉ là biểu hiện của một quan hệ sản
xuất lịch sử nhất định”2.
1. S đ d t25, phầnII, tr634
2. Sđ d tr640.

4.

Do đó , mổi hình thái phân đều biến đi cùng một lúc với phương thức sản xuất
nhất định tương ứng với hình thái phân phối ấy. Chỉ khi nào quan hệ sản xuất tương
ứng thay đổi thì quan hệ phân phối mới thay đổi. Phân phối có tác động rất lớn đối với
sản xuất nên cần phải sử dụng phân phối như là một công cụ để phát triển nền kinh tế
và xây dựng xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa .
II-TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA SỰ TỒN TẠI NHIỀU HÌNH
THỨC PHÂN PHỐI THU NHẬP TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA.
Xuất phát từ yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan và từ đặc điểm kinh tế
– xã hội nước ta , phân phối thu nhập tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau.
Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhều thành phần, có nhiều hình thức sở hữu
khác nhau. Các thành phần kinh tế không tồn tại độc lập mà có liên hệ chặt chẽ với
nhau, tác động tới nhau tạo thành cơ cấu kinh tế bao gồm nhiều thành phần kinh tế.
Trong mỗi thành phần kinh tế, tồn tại các hình thức tổ chức kinh tế với quy mơ và
trình độ cơng nghệ nhất định, chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế, cơ chế quản lí
nhất định, trong đó lại có các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất và lực lượng sản xuất
nhất định. Và với quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, trong nền kinh tế chưa thực sự phát triển cao , lực
lượng sản xuất ln tồn tại ở nhiều trình độ khác nhau; tương ứng với mỗi trình độ



của lực lượng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản xuất. Do đó, phân phối thu nhập
cũng phải tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau vì quan hệ phân phối thu nhập là
một mặt của quan hệ sản xuất .
Trong nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều hình thức kinh doanh khác nhau. Xây
dựng và phát triển kinh tế hàng hố có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, thực hiện sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã
hội… là những nhiệm vụ trọng yếu của thời kì quá độ ở nước ta. Nhưng trong điều
kiện ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp, thu nhập quốc dân cịn thấp, nếu chỉ trơng chờ
vào Nhà nước thì các nhiệm vụ trên sẽ gặp nhiều khó khăn. Do đó cần giải phóng mọi
năng lực bị kìm hãm từ trước tới nay, khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng
về vốn, cơng nghệ, kinh nghiệm về tổ chức quản lý… tức là cần phải tồn tại nhiều
hình thức kinh doanh khác nhau. Với lực lượng lao động dồi dào nhưng trình độ người
lao động cịn thấp , thất nghiệp nhiều gây lãng phí nguồn lao động, lại gây ra những
khó khăn về kinh tế – xã hội. Do đó cần phải tăng thu nhập của người dân bằng cách
tạo việc làm, sử dung nguồn lao động vốn có một cách có hiệu quả nhất . Và do có
nhiều nghành nghề khác nhau, nên tất yếu là tồn tại những nguồn thu nhập rất khác
nhau.

5

Mỗi thành phầnkinh tế có phương thức sản xuất khác nhau. Trong mỗi thời kì , kể
cả thành phần kinh tế nhà nước cũng có các phương thức sản xuất và kinh doanh khác
nhau, do đó kết quả và thu nhập cũng khác nhau , tức là phân phối thu nhập khac
nhau. Trong một nền kinh tế, số người nghèo của một quốc gia phụ thuộc vào mức thu
nhập trung bình và phân phối thu nhập có binh đẳng hay khơng. Nếu phân phối thu
nhập quá bất bình đẳng thì con người khơng có động lực một cách tích cực vào các


hoạt động kinh tế để làm việc chăm chỉ và có tinh thần kinh doanh mãnh liệt. Hậu quả
của nó là người lao động kỷ luật kém và ít sáng kiến, chất lượng hàng hố dịch vụ

thấp và ít khả năng lựa chọn, chậm cải tiến kỹ thuật và tất yếu là tăng trưởng kinh tế
chậm, dẫn đến tình trạng nghèo đói. Do đó cần phải phân phối thu nhập theo nhiều
hình thức để giảm bớt bất bình đẳng.
Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các chủ thể
sản xuất,kinh doanh tham gia vào nền kinh tế đều có sự khác nhau về sở hữu của cải,
tiền vốn, trình độ chun mơn, tay nghề, năng lực sở trường, cơ hội… Nên tất yếu nó
phải khác nhau về thu nhập và vì vạy mà khơng thể tồn tại chỉ một hình thức phân
phối thu nhập được mà phải có nhiều hình thức khác nhau.

B- THỰC TRẠNG VỀ QUAN HỆ PHÂN PHỐI THU NHẬP.
I- THỰC TRẠNG VỀ THU NHẬP CỦA NGƯỜI VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN
ĐÂY.

Để hiễu được phần nào cuộc sống của người dân ở một quốc gia, người ta thường
nghiên cứu về tình hình thu nhập của người dân nước đó để có được mức thu nhập
trung bình . Thu nhập của người lao động là một chỉ báo quan trọng phản ánh mức
sống của dân cư và trình độ phát triển kinh tế xã hội của nước đó. Việt Nam là nước
đang trong thời kì qua độ lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường mới phát triển vẫn
còn non nớt. đa số dân cư sống ở nông thôn và làm nông nghiệp và một số các ngành
phi kết cấu khác, thu nhập của họ hay tiền lương, tiền công thương được trả bằng tiền
mặt và ngồi ra cịn có những người có nguồn thu ngồi lương. Sự đan xen của nhiều
loại lao động trong thị trường lao động, cùng với tài chính tiền tệ chưa thực sự phát
triển làm tình hình phân phối nói chung và thu nhập của người lao động khó kiểm


soát. Sau đây là một số số liệu của năm 2002 của Tổng cục thống kê về thu nhập bình
quân đầu người:
Bảng : Thunhập bình quân hàng tháng của một nhân khẩu năm2002
Đơn vị: 1000 đồng
6


Chỉ tiêu
Cả nước

Lượng
356.08

Theo khu vực
- Thành thị

622.06

- Nơng thơn

275.13

Theo giới tính chủ hộ
- Nam
- Nữ
Theo vùng

332.59
446.19

- Đồng bằng sông Hồng

353.1

- Đông Bắc


268.75

- Tây Bắc

196.98

- Bắc Trung bộ

235.42

- Duyên hải Nam Trung Bộ

305.84

- Tây Nguyên

244.03

- Đông Nam Bộ

619.68

- Đồng bằng sông Cửu Long

371.85


Thu nhập bình qn cả nước tính theo nguồn thu
- Tiền lương, tiền công


116.4

- Nông nghiệp

82.42

- Lâm nghiệp

4.53

- Thuỷ sản

14.51

- Công nghiệp

19.69

- Xây dựng

1.62

- Thương nghiệp

34.42

- Dịch vụ

24.84


- Khác

57.66

Nguồn: Tổng cục Thống kê: Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm 2002, Nxb.
Thống kê, 2004.

7

Từ biểu trên ta thấy thu nhập bình quân hàng tháng năm 2002 là 356.080
đồng/người, trong đónguồn thu từ tiền lương, tiền cơng chiếm 1/3, nguồn thu từ nông,
lâm, ngư nghiệp chiếm 1/3 và 1/3 còn lại là nguồn thu khác và ta thấy nguồn thu từ
công nghiệp, xây dựng, thương nghiệp và dịch vụ chiếm khơng lớn(khoảng 1/4). Thu
nhập bình qn 1 người/tháng ở thành thị cao hơn thu nhập bình quân ở nông thôn
hơn 2 lần. Tuy nhiên về cơ cấu, nguồn thu nhập từ tiền lương, tiền công chiếm tới gần
2 lần, các nguồn thu khác, kể cả từ nông, lâm, ngư nghịêp và dịch vụ vẫn chiếm tỉ
trọng đáng kể. Điều đó phản ánh sự đan xen giữa các bộ phận kinh tế, ngồi lao động
trong khu vực chính thức, còn nhiều người làm ở khu vực phi kết cấ, thậm chí cả ở


nơng, lâm, ngư nghiệp. Và theo số liệu trên thì thu nhập bình quân của chủ hộ nữ là
cao hơn nam giới. Thu nhập bình quân 1người/tháng chia theo vùng có sự chênh lệch
khá cao. Nếu xếp theo thứ tư từ cao xuống thấp ta có vị trí của các vùng như sau:
Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long, Đông bằng sông Hồng, Duyên hải Nam
Trung Bộ, Đông Bắc, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ và Tây Bắc.
Theo trình độ học vấn của chủ hộ, trình độ càng cao thì thu nhập càng cao: chưa
học hết lớp 1 hoặc chưa bao giờ đến trường có thu nhập bình qn tháng là 251.990 đ;
khơng có bằng cấp là 302.620đ; tơt nghiệp tiểu học là 329.65đ; tôt nghiệp trung học
cơ sở là 318.300đ; tôt nghiệp trung học phổ thông là 486.140đ; công nhân kĩ thuật là
502.980đ; trung học chuyên nghiệp là521.300đ; cao đẳng, đại học là 834.480đ; trên

đại học là 1250.560 đ. Người có trình độ trên đại học có thu nhập cao gấp 5 lần người
chưa đi học.
Theo độ tuổi của chủ hộ, thu nhập bình quân 1người/tháng phân phối như sau:
nhóm tuổi 20-24 tăng dần đến50-54, từ 296.370đ lên đến 399.340đ, sau đó giảm dần
đến nhóm tuổi trên 65, cịn 376.340đ. Tỷ lệ tiền lương, tiền công trong thu nhập
không thay đổi nhiều theo tuổi, nhưng tỷ lệ nguồn thu nhập khác thì tăng lên cùng tuổi
tác. Và, các hộ gia đình có quy mơ nhỏ dường như có ưu thế về thu nhập.
Như vậy , trong nền kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta, tuy thu nhập không cao,
nhưng chênh lệch khá lớn theo các vùng và các nhóm dân cư. Thu nhập như vậy thì
phân phối thu nhập có bình đẳng hay khơng? Phân phối thu nhập q bất bình đẳng có
thể là khơng tốt đối với nền kinh tế vì về mặt lí thuyết khó có thể nhận định khoảng
cách chênh lệch về thu nhập như thế nào là có tác động tốt tới tăng trưởng kinh tế
vàgiải quyết hài hoà các vấn đề xã hội. Mặt khác, quá bất bình đẳng sẽ gây ảnh hưởng
xấu tới chất lượng cuộc sống của người dân, làm tăng tỷ lệ nghèo, cản trở tiến bộ
trong y tế và giáo dục và cịn góp phần làm tăng tinh hình tội phạm . Bất bình đẳng
cao đe doạ sự ổn định về chính trị của quốc gia do có nhiều người bất mãn về tình


trạng kinh tế của mình, khiến cho khó đạt được sự đồng thuận về chính trị giữa các
nhóm dân cư có mức thu nhập cao thấp khác nhau. Bất ổn định về chính trị dẫn đến
tăng rủi ro trong kinh doanh và làm suy giảm đáng kể tiềm năng phát triển của đất
nước. Bất bình đẳng
8

cao cịn làm giảm số người có khả năng tiếp cận tới các nguồn lực cần thiết để giải
phóng tồn bộ tiềm năng sản xuất của họ. Tóm lại, bất bình đẳng cao về phân phối thu
nhập dẫn đến tình trạng phân biệt giàu nghèo qua mức, tăng số người nghèo trong xã
hội, thậm chí còn ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế. Cần phải giảm bất bình đẳng về
phân phối thu nhập để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
II- CÁC HÌNH THỨC PHÂN PHỐI THU NHẬP Ở NƯỚC TA TRONG

NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã khẳng định và Đại hội
Đảng lần thứ IX cũng tiếp tục khẳng định điều đó: “ Thực hiện nhiều hình thức phân
phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời
phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất – kinh
doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội”1.
1.Phân phối theo lao động.
a. Tính tất yếu khách quan của phân phối theo lao động.
Phân phối theo lao động là phân phối trong các đơn vị kinh tế dựa trên cơ sở sở
hữu công cộng về tư liệu sản xuất( kinh tế nhà nước) hoặc các hợp tác xã cổ phần mà


phần góp vốn của các thành viên bằng nhau ( kinh tế hợp tác). Các thành phần kinh tế
này đều dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ở các trình độ
khác nhau. Người lao động làm chủ những tư liệu sản xuất, nên tất yếu cũng phải làm
chủ phân phối thu nhập. Do đó, phân phối phải vì lợi ích của người lao động. Trong
nền kinh tế này, ta chưa thể thực hiện phân phối theo nhu cầu hay theo bình quân mà
chỉ có thể phân phối theo lao động.
Phân phối theo lao động là một tất yếu khách quan vì các lí do sau:
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế nhiều
thành phần , trình độ tay nghề chưa cao, lực lượng sản xuất cịn yếu kém, tuy nguồn
nhân lực thì dồi dào, song trình độ học vấn và kĩ thuật mới đang ở giai đoạn đầu của
sự phát triển cao. Với đội ngũ nhân cơng có tay nghề cao, kĩ năng tốt còn thiếu rất
nhièu trong các thành phần kinh tế nhất là trong các cơng ty có quy mơ lớn đã làm
giảm đáng kể tốc độ phát triển của các cơng ty đó do thiếu nhân lực trong quản lí
doanh nghiệp. Trong khi đó thì đội ngũ thất nghiệp do tay nghề thấp cịn rất nhiều .
Do đó, xét trong tổng thể nền kinh tế quốc dân thì lực lượng sản xuất phát triển chưa
đạt tới mức mà có đủ sản phẩm để phân phối theo nhu cầu. Và lao động lại quyết định
tới phân phối, Hồ Chí Minh có viết: “ Làm tốt, làm nhiều: hưởng nhiều, làm xấu, làm
ít: hưởng ít, có khi phải bồi thường cho Nhà nước” 2.

__________________________________

1. ĐCS Việt Nam:Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VIII,Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996,tr.92.
2. Hồ Chí Minh tồn tập, HN,1996, tr338.
9

Cịn C.Mac viết: “ Quyền khơng bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế
và sự phát triển văn hoá của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định”1.
Sự khác biệt về tính chất và trình độ lao động dẫn tới việc mỗi người có sự cống
hiến khác nhau cho xã hội, có người làm ít, có người làm rất nhiều, do đó phải căn cứ
vào phần lao động đã cống hiến cho xã hội của mỗi người để phân phối cho công


bằng để tránh những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra như kìm hãm sự phát triển của
nền kinh tế, làm tăng số người nghèo trong xã hội . Nói cách khác là do trình độ lực
lượng lao động khơng đồng đều, có người kém , có người giỏi, kĩ năng làm việc khác
xa nhau, mức độ nặng nhọc của công việc cũng như là năng suất lao động khác nhau,
do đó những gì họ được hưởng cũng khơng giống nhau. Do đó phân phối dựa theo lao
động là rất cần thiết.
Mặt khác , lao động chưa thực sự trở thành một nhu cầu của cuộc sống, ngược lại
nó còn là một phương tiện để con người kiếm sống, lao động là nghĩa vụ và cũng là
quyền lợi mà mỗi người đều nhận thấy. Nước ta mới chỉ bước sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ năm 1986 sau Đại hội Đảng lần thứ VI, do đó
chưa phát triển thực sự mạnh, và khơng tránh khỏi những tàn dư của xã hội cũ để lại.
Đó là những tàn dư ý thức, tư tưởng của xã hội cũ để lại như: thái độ coi khinh lao
động, ngại lao động chân tay, tư tưởng lười biếng, thích làm ít ăn nhiều, muốn khơng
làm mà vẫn có ăn, hay ghen tị, so bì giữa cống hiến và hưởng thụ…Tinh thần làm
việc không cao, ý thức kỷ luật kém, cịn lợi dụng của cơng làm cơng việc riêng, và tồi
tệ nhất vẫn là tham ô, tham nhũng quá nhiều ...
Trên tinh thần đó, chúng ta cần phải phân phối theo lao động để khuyến khích

người chăm, người giỏi đồng thời răn đe, giáo dục những ai lười biếng, có thái độ coi
khinh lao động và ỷ lại, ngại làm và tất nhiên nó sẽ gắn sự hưởng thụ của mỗi người
phù hợp với sự cống hiến của họ cho xã hội.Tuy nhiên chúng ta cũng cần phải nghiêm
khắc bài trừ tệ tham nhũng đang ngày càng hoành hành trong nền kinh tế “trẻ con”
này như một căn bệnh nan y khó chữa. Có như vậy thì phân phối theo lao động mới
trở thành hình thức để khắc phục những tàn dư tư tưởng của xã hội cũ, không chỉ
trong thời kì q độ mà cịn trong khi chủ nghĩa xã hội đã được xác lập vững chắc về
sau và nó vẫn là hình thức phân phối chủ yếu.
b. Nội dung của phân phối theo lao động.


Phân phối theo lao động là hình thức phân phối thu nhập căn cứ vào số lượng và
chất lượng lao động của mỗi người mà họ đã đóng góp cho xã hội. Theo cách phân
phối này thì tất nhiên là người làm nhiều, hưởng nhiều, người làm ít, hưởng ít, ai có
sức lao động mà khơng chịu dùng sức ấy để lao động cốnga hiến cho đất nước thì
khơng hưởng; cịn lao động có kỹ thuật cao,ở những ngành nghề độc hại và khó khăn
thì được hưởng phần thích đáng. Tuy nhiên trong thực tế còn tồn tại những nghịch lí
như khơng làm mà vẫn được hưởng nhiều, hay những người đóng góp cho tổ quốc rất
__________________________

1. C,Mac& Angghen,tồn tập,Nxb. chính trị quốc gia,Hà Nội.1995, tr36.
10

nhiều lại khơng được hưởng những gì mà đúng ra họ được hưởng một cách thích
đáng, và đó cũng là một mặt khơng tốt của xã hội.
Những căn cứ cụ thể để phân phối theo lao động là: số lượng lao động được đo
bằng thời gian lao động hoặc số lượng săn phẩm làm ra; trình độ thành thạo cơng việc
và chất lượng sản phẩm làm ra; điều kiện và mơi trường lao động, đó là lao động nặng
nhọc, lao động hầm mỏ, lao động trong những vùng có nhiều khó khăn, xa xơi hẻo
lánh như miền núi, hải đảo…;tính chất của lao động; các ngành nghề cần được khuyến

khích.
c. Các hình thức phân phối theo lao động.
Phân phối theo lao động cần được thực hiện qua những hình thức cụ thể sau đây:
tiền lương, tiền công trong các đơn vị sản xuất- kinh doanh; tiền thưởng; tiền phụ cấp;
tiền lương trong các cơ quan hành chính sự nghiệp.
Tiền lương là sự biểu hiện bằng tiền của sản phẩm cần thiết được tạo ra trong các
doanh nghiệp nhà nước, được phân phối cho những người lao động dựa vào số lượng
và chất lượng lao động mà họ đã hao phí trong q trình sản xuất xã hội.
Tiền cơng lao động là hình thức trả cơng lao động trong các tổ chức kinh tế, các
doanh nghiệp thuộc kinh tế tập thể.


Tiền phụ cấp là hình thức trợ cấp của nhà nước đối với những người có các
chính sách đặc biệt theo quy định của Nhà nước, có thể trợ cấp bằng tiền mặt hay vật
chất…
Lợi tức là phần lợi nhuận mà Nhà nước hoặc các tổ chức kinh tế trả cho người sở
hữu tiền tệ để được sử dụng vốn tiền tệ của người đó.
d. Tác dụng và những hạn chế của phân phối theo lao động.
Thúc đẩy mọi người nâng cao tinh thần trách nhiệm, thúc đẩy nâng cao năng
suất lao động, xây dựng tinh thần và thái độ lao động đúng đắn, khắc phục những tàn
dư tư tưởng cũ, củng cố kỷ luật lao động… Thúc đẩy mọi người nâng cao trình đọ tay
nghề, trình độ văn hố, ổn định lao động. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức lao
động xã hội. Khơng chỉ có vậy, phân phối theo lao động cịn có tác động mạnh tới đời
sống văn hoá và vật chất của người lao động, vừa bảo đảm tái sản xuất sức lao động,
vừa tạo điều kiện cho người lao động phát triển một cách tồn diện.
Phân phối thu nhập theo lao động có thể coi là hợp lí nhất, cơng bằng nhất so với
các hình thức phân phối khác đã tồn tại trong lịch sử. Cơ sở của sự công bằng xã hội
của phân phối thu nhập đó là sự bình đẳng trong quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Bên cạnh những mặt tốt như vậy thì cũng như mọi vấn đề khác , phân phối theo
lao động cũng có những mặt trái của nó. Đó là những hạn chế khơng thể tránh khỏi

trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa . Và sau đây là một số điểm cần lưu
ý về phân phối theo lao động trong kinh tế thị trường: mỗi doanh nghiệp trở thành một
chủ thể phân phối thu nhập cá nhân; phải thừa nhận sự tồn tại khách quan của mức độ
phân phối thu nhập giữa các đơn vị kinh tế; mức chênh lệch thu nhập qua phân phối
lao động giữa các vùng.
11


2. Các hình thức phân phối khác.
Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, với sự đa dạng của các hình
thức tổ chức sản xuất và sở hữu, nên phân phối cịn có cac hình thức khác ngoài phân
phối theo lao động .
Kết hợp phân phối theo vốn và phân phối theo lao động. Hình thức này có trong
những đơn vị kinh tế bậc thấp như Hợp tác xã. Hợp tác xã( kinh tế tập thể) là thành
phần kinh tế bao gồm những cơ sở kinh tế do người lao động tự nguyện góp vốn, cùng
kinh doanh, tự quản lí theo ngun tắc tập trung, bình đẳng, cùng có lợi. Phân phối
thu nhập cá nhân trong hợp tác xã được thực hiện trên cơ sở kết quả lao động và theo
cổ phần của mỗi người đã đóng góp trong tập thể.
Phân phối trong các thành phần kinh tế cá thể. Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế
dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và khả năng lao động của bản thân người lao
động và gia đình. Hiện nay ở nước ta, thành phần kinh tế này hoạt động dưới hình
thức hộ gia đình, đang là một bộ phận đơng đảo, có tiềm năng lớn và vị trí quan trọng.
Phân phối trong kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản Nhà nước. Kinh tế
tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa trên cơ sở
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động
người làm thuê. Trong thành phần kinh tế này, phân phối thu nhập phụ thuộc
vào sở hữu tư bản và sức lao động : người công nhân được hưởng lương, người
chủ sở hữu hoặc người góp vốn hưởng lợi nhuận hay lợi tức cổ phần. Kinh tế tư
bản Nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các hình thức liên doanh liên kết
giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và nước ngồi, mang lại

lợi ích thiết thực cho các bên kinh doanh. Trong thành phần kinh tế này, phân
phối dựa trên cơ sở sở hữu vốn cổ phần, sở hữu sức lao động.
2. Phân phối theo phúc lợi xã hội và phúc lợi tập thể.


Phân phối thông qua phúc lợi tập thể để nâng cao mức sống vật chất và văn hoá
của nhân dân, đặc biệt là các tầng lớp nhân dân lao động, sự phân phối thu nhập của
mọi thành viên xã hội cịn được thực hiện thơng qua quỹ phúc lợi tập thể và xã hội.
Điều đó có ý nghĩa rất quan trọng vì : nó góp phần phát huy tính tích cực lao động
cộng đồng của mọi thành viên trong xã hội; nâng cao thêm mức sống toàn dân, đặc
biệt đối với những người có thu nhập thấp, đời sống khó khăn, làm giảm sự chênh
lệch về thu nhập giữa các thành viên trong xã hội; giáo dục ý thức cộng đồng, xây
dựng chế độ xã hội mới.; quỹ phúc lợi tập thể, xã hội khơng thể thiếu trong q trình
phân phối thu nhập.
Quỹ phúc lợi tập thể mang tính hợp lý : quỹ phúc lợi và tập thể không thể mở
rộng quá khả năng cho phép của nền kinh tế; tốc độ tăng trưởng thu nhập của cá nhân
phải tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng phúc lợi tập thể; trong giới hạn đã
12

xác định cần sử dụng có hiệu quả, tíêt kiệm, hợp lý các quỹ phúc lợi tập thể vàtheo
tinh thần xã hội.
C- MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÂN PHỐI THU NHẬP
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở NƯỚC TA.
Để đạt được mục tiêu : “ khơng có chế độ người bóc lột người , một xã hội bình
đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều thì hưởng
nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, không làm không hưởng” 1 chúng ta phải từng bước thực
hiện công bằng xã hội trong phân phối thu nhập.
1.


Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.


Phương thức phân phối về căn bản là phụ thuộc vào số lượng sản phẩm được phân
phối. Khi lực lượng sản xuất đã phát triển cao, trình độ năng lực và trình độ văn hố
của người lao động được nâng cao, đồng thời nâng cao năng suất lao động và chất
lượng lao động thì thu nhập của người lao động tất yếu cung tăng theo, làm giảm bất
bình đẳng trong phân phối thu nhập .
2.

Tiếp tục hồn thiện chính sách tiền cơng, tiền lương, chống chủ nghĩa bình

qn và thu nhập bất hợp lý, bất chính.
Phân phối thu nhập muốn ngày càng cơng bằng, hợp lý, cần có chính sách phân
phối bảo đảm thu nhập của những người lao động có thể tái sản xuất sức lao động.
Cần gắn chặt tiền lương, tiền công với năng suất, chất lượng và hiệu quả, khi đó sẽ
đảm bảo quan hệ hợp lý về thu nhập cá nhân giữa các ngành nghề. Trong nền kinh tế
này còn tồn tại nhiều thu nhập bất hợp lý, tham ơ, để phân phối được hồn thiện một
cách tốt hơn thì cần phải nghiêm khắc loại trừ những kẻ có thu nhập bất chính, cần
phải tiền tệ hoá tiền lương và thu nhập, xoá bỏ những đặc quyền trong phân phối.
3. Điều tiết thu nhập dân cư, hạn chế sự chênh lệch quá đáng về mức thu
nhập.
Hiện nay thu nhập mức thu nhập bình quân của người lao động ở Việt Nam tuy
khơng cao nhưng lại có sự chênh lệch qua đáng giữa các vùng, các đối tượng, làm
tăng khoảng cách giàu nghèo trong xã hội và có ảnh hưởng khơng tốt tới kinh tế –
chính trị của đát nước. Do đó, Nhà nước phải hạn chế sự chênh lệch đó về thu nhập
để khơng dẫn đến sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập, thông qua điều tiết thu
nhập và các giải pháp quản lý. Đó là điều tất yếu khách quan trong nền kinh tế nước ta
hiện nay để đảm bảo có một nềnchính trị ổn định để phát triển kinh tế vững mạnh.
13



Các hình thức điều tiết thu nhập : điều tiết giảm thu nhập thơng qua hình thức
thuế thu nhập và hình thức tự nguyện đóng góp của cá nhân có thu nhập cao vào quỹ
phúc lợi xã hội… Trong đó thuế thu nhập là quan trọng nhất làm tăng ngân sách Nhà
nước và các quỹ từ thiện, quỹ phúc lợi…
4.

Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đơi với xố đói giảm nghèo.
Đảng ta đã đề ra mục tiêu phấn đấu là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,

dân chủ văn minh . Để giảm bất bình đẳng trong phân phối thu nhập , tạo điều kiện
phát triển toàn diện cho người lao động thì đát nước phải vững mạnh, đồng thời dân
giàu , xã hội công bằng. Muốn vậy phải phát huy nỗ lực làm giàu hợp pháp của người
lao động đồng thời tăng khuyến khích alo động, và giúp đỡ thông qua nhiều biện
pháp.
Nền kinh tế nước ta hiện nay đang là một nền kinh tế mở, hội nhập thế giới, mọi
người dân đều phải tích cực lao động. Mở rộng mọi ngành nghề, mở rộng quy mô sản
xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động, giảm tối thiểu lượng lao động thất
nghiệp. Khi đó, mọi người đều có cơng ăn việc làm , có thu nhập hợp lý và sẽ giảm
người nghèo trong xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế.


14

KẾT LUẬN
Sau một thời gian dài tích cực đổi mới , nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta tuy chưa phát triển tới mức cao song cũng đã đạt được nhiều
thành tích đáng kể. Cuộc sống của nhân dân giờ đây đã được nâng cao, tuy không
đồng đều giữa các vùng trong cả nước, nhưng nhìn chung dân ta đã bớt nghèo khơng

cịn đói khổ như ngày xưa nữa, cuộc sống đầy đủ hơn. Tuy vậy thu nhập bình qn
đàu người cị chưa được cao, cịn có sự chênh lệch q đáng về mức thu nhập. Và hiện
nay, phân phối thu nhập đang được thực hiện dưới hình thức tốt nhất là phân phối theo


lao động, vì nhiều lí do mà chưa thể thực hiện phân phối theo nhu cầu được. Nhà nước
cần có những biện pháp thích đáng để tạo cơng bằng trong phân phối thu nhập, giảm
số hộ nghèo, tăng hộ giàu , đồng thời tăng chất lượng cuộc sống cho người lao động,
khi đó sẽ thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế . Một xã hội gọi là công bằng khi
trong nó khơng cịn tồn tại những hành vi bất hợp pháp, nhưng vấn đề tệ nạn xã hội …
Tuy nhiên đó là một điều rất khó có thể đạt được trong nền kinh tế này, chỉ khi nào
cùng với sự phát triẻn toàn diện của cá nhân, năng suất lao động của họ càng tăng lên
và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào thì khi đó người ta mới có thể
vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể phân phối
theo nhu cầu.
Phân phối thu nhập là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội; cũng là một mặt
của quan hệ sản xuất và nó có tính đồng nhất cùng với tính lịch sử giống như quan hệ
sản xuất. Và sự tồn tại của phân phối thu nhập là một tất yếu khách quan đối với nền
kinh tế của nước ta hiện nay.


15

CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO.

1. Học viện Chính trị quốc gia. Giáo trình kinh tế chính trị Mac- Lênin về

thời kì qua độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - Nxb Chính trị quốc gia .
2. Kinh tế chính trị Mac- Lênin Tập II- NXB giáo dục.
3. Khơng chỉ tăng trưởng

4. Kinh tế Việt Nam năm 2004. Những vấn đề nổi bật- NXB Lý luận chính
trị.
5. Tạp chí thời báo kinh tế Việt Nam 2004.


16

MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu

1


×