TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HỆ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
Môn học:
KINH TẾ VĨ MÔ
Đ
ề
tài
:
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM
GVHD: TS. Trần Thị Bích Dung
Khóa 22 – Lớp Đêm 4 – Nhóm 7
Danh sách nhóm
1.
Phạm Thành Đạt
2.
Hồ Thị Thu Hiền
3.
Trần Thị Ngọc Huệ
4.
Vương Thị Thùy Linh
5.
Lương Thị Hồng Quế
6.
Trần Thị Cẩm Tú
7. Nguyễn Thị Nhật Vy
8. Nguyễn Cơ Thạch
TP.HCM, Tháng 5, năm 2013
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GVHD: TS. TRẦN THỊ BÍCH DUNG
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GVHD: TS. TRẦN THỊ BÍCH DUNG
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
- DN: Doanh nghiệp
- DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước
- NHTM: Ngân hàng Thương mại
- NHNN: Ngân hàng Nhà nước
HVTH: NHÓM 7 – ĐÊM 4 – K22 3/ 52
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GVHD: TS. TRẦN THỊ BÍCH DUNG
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GDP, GDP và GDP bình quân đầu người 2002 – 2006
Bảng 2: Tổng sản phẩm trong nước theo khu vực kinh tế 2002 – 2006
Bảng 3: Tỷ trọng sản phẩm trong nước theo khu vực kinh tế 2002 – 2006
Bảng 4: Tốc độ tăng trưởng GDP, GDP và GDP bình quân đầu người 2007 – 2012
Bảng 5: Tổng sản phẩm trong nước theo khu vực kinh tế 2007 – 2012
Bảng 6: Tỷ trọng sản phẩm trong nước theo khu vực kinh tế 2007 – 2012
Bảng 7: Vốn đầu tư theo thành phần kinh tế từ 2002 – 2006
Bảng 8: Vốn đầu tư theo thành phần kinh tế từ 2007 – 2012
Bảng 9: Xuất nhập khẩu giai đoạn 2002 – 2006
Bảng 10: Tỷ trọng xuất nhập khẩu theo khu vực kinh tế và ngành nghề 2002 – 2006
Bảng 11: Xuất nhập khẩu giai đoạn 2007 – 2012
Bảng 12: Tỷ trọng xuất khẩu theo khu vực và ngành nghề từ 2007 – 2012
Bảng 13: Tỷ trọng nhập khẩu theo khu vực và ngành nghề từ 2007 – 2012
HVTH: NHÓM 7 – ĐÊM 4 – K22 4/ 52
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GVHD: TS. TRẦN THỊ BÍCH DUNG
LỜI MỞ ĐẦU
Trên thế giới hầu như tất cả các quốc gia đều theo đuổi bốn mục tiêu chung – tăng
trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, các cân thanh toán thặng dư. Trong các mục tiêu đó,
tăng trưởng kinh tế cao là mục tiêu có tầm quan trọng hàng đầu, là một nhân tố quyết định sự
phát triển của mọi quốc gia. Đối với nhiều nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam tăng
trưởng kinh tế nhanh và nâng cao chất lượng tăng trưởng là mục tiêu ưu tiên hòan thành.
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2010 – 2020, Đảng cộng sản Việt Nam
xác định: ” Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 7 -
8%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng khoảng 2,2 lần so với năm 2010; GDP bình
quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000 USD”.
Trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010, chúng ta đã
tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những tác động tiêu
cực của hai cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và toàn cầu, đạt được những thành
tựu to lớn và rất quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm
nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Nhiều mục tiêu chủ yếu của Chiến lược 2001-
2010 đã được thực hiện, đạt bước phát triển mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất.
Kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm. Diện mạo của đất nước có nhiều
thay đổi. Thế và lực của nước ta vững mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện
đại hóa và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Có thể thấy tăng trưởng kinh tế ngày
càng được quan tâm nhiều hơn và nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế là một mục tiêu
quan trọng của chính sách tăng trưởng và chính sách phát triển ở Việt Nam trong giai đoạn
tới.
Vì lý do đó nhóm đã lựa chọn đề tài “Tăng trưởng kinh tế Việt Nam” nhằm phân tích
tình hình kinh tế Việt Nam và một số yếu tố, khía cạnh ảnh hưởng tới vấn đề tăng trưởng kinh
tế từ đó đưa ra một số đánh giá và các giái pháp cơ bản để nâng cao chất lượng tăng trưởng
của Việt Nam trong thời gian tới.
HVTH: NHÓM 7 – ĐÊM 4 – K22 5/ 52
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GVHD: TS. TRẦN THỊ BÍCH DUNG
MỤC LỤC
1.1.2.1.2 Tổng sản lượng quốc gia: 9
1.2. Nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế: 11
1.2.1. Khái quát chung: 11
1.2.2.2. Mô hình K. Mark 15
1.2.2.3. Mô hình tân cổ điển: 16
1.2.2.4. Mô hình Keynes: 18
1.2.2.5. Mô hình tăng trưởng Harrod Domar: 20
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
VIỆT NAM TRONG VÒNG 10 NĂM (2002-2012) 23
2.1 Tăng trưởng GDP: 23
2.1.1 Giai đoạn 2002 - 2006 23
2.1.2 Giai đoạn 2007-2012 25
2.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến GDP Việt Nam 28
2.2.1. Vốn đầu tư: 28
2.2.2. Xuất – nhập khẩu: 31
2.3. Thành tựu và những mặt hạn chế 37
2.3.1 Thành tựu 37
2.3.2 Hạn chế 37
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐỂ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ ĐI ĐÔI VỚI
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NỀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM 41
3.2.1 Bền vững về kinh tế 47
3.2.2 Bền vững về xã hội 48
3.2.3 Bền vững về môi trường 50
KẾT LUẬN 51
HVTH: NHÓM 7 – ĐÊM 4 – K22 6/ 52
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GVHD: TS. TRẦN THỊ BÍCH DUNG
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1.1. Khái niệm và đo lường tăng trưởng kinh tế.
1.1.1. Khái niệm:
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về số lượng, chất lượng, tốc độ và quy mô sản
lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Sự tăng trưởng được so sánh theo các thời
điểm gốc sẽ phản ánh tốc độ tăng trưởng. Đó là sự gia tăng quy mô sản lượng kinh tế nhanh
hay chậm so với thời điểm gốc, đồng thời là sự gia tăng các nhân tố sản xuất được sử dụng
trong điều kiện trạng thái kinh tế vĩ mô tương đối ổn định.
1.1.2. Đo lường tăng trưởng kinh tế:
1.1.2.1. Các chỉ tiêu đo lường và ý nghĩa:
1.1.2.1.1.Tổng sản phẩm quốc nội:
Tổng sản phẩm quốc nội hay GDP (viết tắt của Gross Domestic Product) là giá trị thị
trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một lãnh thổ
quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Khi áp dụng cho phạm vi toàn
quốc gia, nó còn được gọi là tổng sản phẩm quốc nội. Gần đây, trong các tài liệu thống kê
mang tính nghiêm ngặt, thuật ngữ tiếng Anh national gross domestic product- NGDP hay
được dùng để chỉ tổng sản phẩm quốc nội, regional (hoặc provincial) gross domestic product
hay dùng để chỉ tổng sản phẩm nội địa của địa phương. GDP là một trong những chỉ số cơ
bản để đánh giá sự phát triển kinh tế của một vùng lãnh thổ nào đó.
Phương pháp tính GDP:
Phương pháp tính theo tổng chi tiêu: Theo phương pháp chi tiêu, tổng sản phẩm
quốc nội của một quốc gia là tổng số tiền mà các hộ gia đình trong quốc gia đó chi mua các
hàng hóa cuối cùng. Như vậy trong một nền kinh tế giản đơn ta có thể dễ dàng tính tổng sản
phẩm quốc nội như là tổng chi tiêu hàng hóa và dịch vụ cuối cùng hàng năm.
GDP = Y = C+G+I+X-M
• C là tiêu dùng của hộ gia đình
• G là tiêu dùng của chính phủ
• I là tổng dầu tư
• X (export): xuất khẩu
• M (import): nhập khẩu
Phương pháp tính theo tổng thu nhập: Theo phương pháp thu nhập hay phương
pháp chi phí, tổng sản phẩm quốc nội bằng tổng thu nhập từ các yếu tố tiền lương (wage), tiền
lãi (interest), lợi nhuận (profit) và tiền thuê (rent); đó cũng chính là tổng chi phí sản xuất các
sản phẩm cuối cùng của xã hội.
GDP=W+R+i+Pr+Ti+De
HVTH: NHÓM 7 – ĐÊM 4 – K22 7/ 52
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GVHD: TS. TRẦN THỊ BÍCH DUNG
• W: tiền lương
• R: tiền thuê
• i: tiền lãi
• Pr: lợi nhuận
• Ti: thuế gián thu
• De: khấu hao
Phương pháp tính theo tổng giá trị gia tăng:
Giá trị gia tăng là khoản chênh lệch giữa giá trị sản lượng đầu ra của một doanh
nghiệp với khoản mua vào về nguyên nhiên vật liệu mua của các doanh nghiệp khác mà
được sử dụng hết trong quá trình sản xuất ra sản phẩm đó.
Giá trị gia tăng của doanh nghiệp ký hiệu là (VA), giá trị tăng thêm của một ngành
(GO), giá trị tăng thêm của nền kinh tế là GDP.
VA = Giá trị thị trường sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp - Giá trị đầu vào được
chuyển hết vào giá trị sản phẩm trong quá trình sản xuất.
Giá trị gia tăng của một ngành (GO):
GO =∑ VAi (i=1,2,3, ,n)
Trong đó:
VAi là giá trị tăng thêm của doanh nghiệp i trong ngành
n là số lượng doanh nghiệp trong ngành
Giá trị gia tăng của nền kinh tế GDP:
GDP =∑ GOj (j=1,2,3, ,m)
Trong đó:
GOj là giá trị gia tăng của ngành j
m là số ngành trong nền kinh tế
GDP danh nghĩa và GDP thực tế:
GDP danh nghĩa là tổng sản phẩm nội địa theo giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ
cuối cùng tính theo giá hiện hành. Sản phẩm sản xuất ra trong thời kỳ nào thì lấy giá của thời
kỳ đó. Do vậy còn gọi là GDP theo giá hiện hành.
GDP
i
n
=∑Q
i
t
P
i
t
Sự gia tăng của GDP danh nghĩa hàng năm có thể do lạm phát.
Trong đó:
• i: loại sản phẩm thứ i với i =1,2,3 ,n
• t: thời kỳ tính toán
• Q: số lượng sản phẩm ; Qi: số lượng sản phẩm loại i
• P: giá của từng mặt hàng; Pi: giá của mặt hàng thứ i.
HVTH: NHÓM 7 – ĐÊM 4 – K22 8/ 52
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GVHD: TS. TRẦN THỊ BÍCH DUNG
GDP thực tế là tổng sản phẩm nội địa tính theo sản lượng hàng hoá và dịch vụ cuối
cùng của năm nghiên cứu còn giá cả tính theo năm gốc do đó còn gọi là GDP theo giá so
sánh.
GDP thực tế được đưa ra nhằm điều chỉnh lại những sai lệch như sự mất giá của đồng
tiền trong việc tính toán GDP danh nghĩa để có thể ước lượng chuẩn hơn số lượng thực sự của
hàng hóa và dịch vụ tạo thành GDP. GDP thứ nhất đôi khi được gọi là "GDP tiền tệ" trong khi
GDP thứ hai được gọi là GDP "giá cố định" hay GDP "điều chỉnh lạm phát" hoặc "GDP theo
giá năm gốc" (Năm gốc được chọn theo luật định).
1.1.2.1.2 Tổng sản lượng quốc gia:
Tổng sản phẩm quốc dân, GNP (viết tắt cho Gross National Product bằng tiếng Anh)
tức Tổng sản lượng quốc gia hay Tổng sản phẩm quốc gia là một chỉ tiêu kinh tế đánh giá sự
phát triển kinh tế của một đất nước nó được tính là tổng giá trị bằng tiền của các sản phẩm
cuối cùng và dịch vụ mà công dân của một nước làm ra trong một khoảng thời gian nào đó,
thông thường là một năm tài chính, không kể làm ra ở đâu (trong hay ngoài nước).
Sản phẩm cuối cùng là hàng hóa được tiêu thụ cuối cùng bởi những người tiêu dùng
chứ không phải là những sản phẩm được sử dụng như là sản phẩm trung gian trong sản xuất
những sản phẩm khác.
Thu nhập được tính như là một phần của GNP, phụ thuộc vào ai là chủ sở hữu các yếu
tố sản xuất chứ không phải là việc sản xuất diễn ra ở đâu.
Công thức tính tổng sản phẩm quốc gia dưới đây dựa trên cơ sở tiếp cận từ khái niệm
chi tiêu.
GNP = C + I + G + (X - M) + NR
• C = Chi phí tiêu dùng cá nhân (hộ gia đình)
• I = Tổng đầu tư cá nhân quốc nội (tất cả các doanh nghiệp đầu tư trên lãnh
thổ 1 nước)
• G = Chi phí tiêu dùng của chính phủ
• X = Kim ngạch xuất khẩu các hàng hóa và dịch vụ
• M = Kim ngạch nhập khẩu của hàng hóa và dịch vụ
• NR= Thu nhập ròng từ các hàng hóa và dịch vụ đầu tư ở nước ngoài (thu
nhập ròng)
Sự khác nhau giữa GDP và GNP:
HVTH: NHÓM 7 – ĐÊM 4 – K22 9/ 52
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GVHD: TS. TRẦN THỊ BÍCH DUNG
GNP và GDP khác nhau phần giá trị hàng hoá và dịch vụ mà người dân quốc gia đó
sản xuất ra ở nước ngoài và phần giá trị hàng hoá và dịch vụ mà người nước ngoài sản xuất ra
trong phạm vi lãnh thổ kinh tế của quốc gia đó. Phần này được gọi là thu nhập ròng từ tài sản
ở nước ngoài bằng chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và dịch vụ mà người dân quốc gia đó sản
xuất ra ở nước ngoài trừ đi phần giá trị hàng hoá và dịch vụ mà người nước ngoài sản xuất ra
trong lãnh thổ kinh tế của quốc gia đó.
GNP = GDP + Thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài.
GDP = GNP - Thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài.
GDP hay GNP chỉ tiêu nào lớn hơn, thì tuỳ thuộc vào mỗi một quốc gia và tuỳ vào
từng thời kỳ.
1.1.2.2 Các công thức đo lường tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế liên quan đến sự gia tăng thu nhập quốc dân thực trên đầu người,
nghĩa là sự gia tăng giá trị hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trên mỗi đầu người trong một
nền kinh tế sau khi đã điều chỉnh lạm phát. Đây là một số đo mục tiêu tương đối về năng lực
kinh tế. Số đo này đã được thừa nhận rộng rãi và có thể được tính với những mức độ chính
xác khác nhau cho hầu hết các nền kinh tế. Trọng tâm của việc nghiên cứu về tăng trưởng
kinh tế là những thay đổi về thu nhập quốc dân. Hai số đo cơ bản của thu nhập quốc dân là
GDP và GNP. Để hiểu được tiến trình tăng trưởng kinh tế yêu cầu chúng ta phải có các
phương pháp đo lường kết quả kinh tế của các nước và theo thời gian. GDP đầu người là một
số đo tổng giá trị sản lượng quốc dân và bất chấp một số hạn chế, đây là tiêu chuẩn phổ biến
nhất để đo lường tăng trưởng kinh tế.
Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ tăng
trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một giai đoạn.
1.1.2.2.1 Mức tăng trưởng tuyệt đối:
Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần so sánh.
K = Yt – Yo
Y : GNP, GDP
Yt : GDP, GNP tại thời điểm t của kỳ thời gian phân tích
Y : GDP, GNP tại thời điểm gốc của kỳ thời gian phân tích.
1.1.2.2.2 Tốc độ tăng trưởng:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô kinh tế kỳ
hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.
y = dY/Y × 100(%)
HVTH: NHÓM 7 – ĐÊM 4 – K22 10/ 52
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GVHD: TS. TRẦN THỊ BÍCH DUNG
Y là qui mô của nền kinh tế, và y là tốc độ tăng trưởng.
Nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ tăng
trưởng GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP)
thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế. Thông thường, tăng trưởng kinh
tế dùng chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu danh nghĩa.
1.2. Nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế:
1.2.1. Khái quát chung:
Sau khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển lẫn các nước đang
phát triển, những nhà kinh tế học đã phát hiện ra rằng động lực của phát triển kinh tế phải
được đi cùng trên bốn bánh xe, hay bốn nhân tố của tăng trưởng kinh tế là nguồn nhân lực,
nguồn tài nguyên, tư bản và công nghệ. Bốn nhân tố này khác nhau ở mỗi quốc gia và cách
phối hợp giữa chúng cũng khác nhau đưa đến kết quả tương ứng.
- Nguồn nhân lực: chất lượng đầu vào của lao động tức là kỹ năng, kiến thức và kỷ luật
của đội ngũ lao động là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Hầu hết các
yếu tố khác như tư bản, nguyên vật liệu, công nghệ đều có thể mua hoặc vay mượn
được nhưng nguồn nhân lực thì khó có thể làm điều tương tự. Các yếu tố như máy
móc thiết bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có thể phát huy được tối đa
hiệu quả bởi đội ngũ lao động có trình độ văn hóa, có sức khỏe và kỷ luật lao động tốt.
Thực tế nghiên cứu các nền kinh tế bị tàn phá sau Chiến tranh thế giới lần thứ II cho
thấy mặc dù hầu hết tư bản bị phá hủy nhưng những nước có nguồn nhân lực chất
lượng cao vẫn có thể phục hồi và phát triển kinh tế một cách ngoạn mục. Một ví dụ là
nước Đức, "một lượng lớn tư bản của nước Đức bị tàn phá trong Đại chiến thế giới
lần thứ hai, tuy nhiên vốn nhân lực của lực lượng lao động nước Đức vẫn tồn tại. Với
những kỹ năng này, nước Đức đã phục hồi nhanh chóng sau năm 1945. Nếu không có
số vốn nhân lực này thì sẽ không bao giờ có sự thần kỳ của nước Đức thời hậu chiến."
(Theo Begg, Trang 559)
- Nguồn tài nguyên thiên nhiên: là một trong những yếu tố sản xuất cổ điển, những tài
nguyên quan trọng nhất là đất đai, khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ, rừng và nguồn
nước. Tài nguyên thiên nhiên có vai trò quan trọng để phát triển kinh tế, có những
nước được thiên nhiên ưu đãi một trữ lượng dầu mỏ lớn có thể đạt được mức thu nhập
cao gần như hoàn toàn dựa vào đó như Ả rập Xê út. Tuy nhiên, các nước sản xuất dầu
mỏ là ngoại lệ chứ không phải quy luật, việc sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú không quyết định một quốc gia có thu nhập cao. Nhật Bản là một nước gần
như không có tài nguyên thiên nhiên nhưng nhờ tập trung sản xuất các sản phẩm có
HVTH: NHÓM 7 – ĐÊM 4 – K22 11/ 52
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GVHD: TS. TRẦN THỊ BÍCH DUNG
hàm lượng lao động, tư bản, công nghệ cao nên vẫn có nền kinh tế đứng thứ hai trên
thế giới về quy mô.
- Tư bản: là một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo mức độ tư bản mà người lao
động được sử dụng những máy móc, thiết bị nhiều hay ít (tỷ lệ tư bản trên mỗi lao
động) và tạo ra sản lượng cao hay thấp. Để có được tư bản, phải thực hiện đầu
tư nghĩa là hy sinh tiêu dùng cho tương lai. Điều này đặc biệt quan trọng trong sự phát
triển dài hạn, những quốc gia có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP cao thường có được sự
tăng trưởng cao và bền vững. Tuy nhiên, tư bản không chỉ là máy móc, thiết bị do tư
nhân dầu tư cho sản xuất nó còn là tư bản cố định xã hội, những thứ tạo tiền đề cho
sản xuất và thương mại phát triển. Tư bản cố định xã hội thường là những dự án quy
mô lớn, gần như không thể chia nhỏ được và nhiều khi có lợi suất tăng dần theo quy
mô nên phải do chính phủ thực hiện. Ví dụ: hạ tầng của sản xuất (đường giao thông,
mạng lưới điện quốc gia ), sức khỏe cộng đồng, thủy lợi
- Công nghệ: trong suốt lịch sử loài người, tăng trưởng kinh tế rõ ràng không phải là sự
sao chép giản đơn, là việc đơn thuần chỉ tăng thêm lao động và tư bản, ngược lại, nó
là quá trình không ngừng thay đổi công nghệ sản xuất. Công nghệ sản xuất cho phép
cùng một lượng lao động và tư bản có thể tạo ra sản lượng cao hơn, nghĩa là quá trình
sản xuất có hiệu quả hơn. Công nghệ phát triển ngày càng nhanh chóng và ngày
nay công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới có những bước
tiến như vũ bão góp phần gia tăng hiệu quả của sản xuất. Tuy nhiên, thay đổi công
nghệ không chỉ thuần túy là việc tìm tòi, nghiên cứu; công nghệ có phát triển và ứng
dụng một cách nhanh chóng được là nhờ "phần thưởng cho sự đổi mới" - sự duy trì cơ
chế cho phép những sáng chế, phát minh được bảo vệ và được trả tiền một cách xứng
đáng.
Xuất phát từ việc nghiên cứu các yếu tố trên, các nhà kinh tế học đã đưa ra các mô
hình kinh tế nhằm diễn đạt các quan điểm về tăng trưởng, phát triển kinh tế thông qua các
biến số hay các nhân tố kinh tế và mối quan hệ giữa chúng. Mục đích nghiên cứu mô hình là
mô tả phương thức vận động của nền kinh tế thông qua mối quan hệ nhân quả giữa các biến
số (nhân tố) quan trọng sau khi đã đơn giản hóa bằng cách lược bỏ những yếu tố phức tạp
không cần thiết. Cách diễn đạt của các mô hình có thể bằng lời văn, sơ đồ, hoặc công thức
toán học.
1.2.2. Một số mô hình phân tích nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế:
HVTH: NHÓM 7 – ĐÊM 4 – K22 12/ 52
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GVHD: TS. TRẦN THỊ BÍCH DUNG
1.2.2.1. Mô hình cổ điển:
Người đại diện đầu tiên và được xem là ông tổ của kinh tế cổ điển là William
Petty (1623-1687), người Anh. Những công trình khoa học của ông chuyên về lĩnh
vực thuế, hải quan và thống kê. Là người được K. Marx đánh giá cao qua các phát minh khoa
học kinh tế. Những tên tuổi lớn của trường phái này gồm Adam Smith (1723-1790), David
Ricardo (1772-1823), Thomas Malthus (1766-1834), John Stuart Mill (1806-1873). Quan
điểm về khoa học kinh tế của họ, giống như các nhà nghiên cứu trước đó, là khoa học về sự
giàu có và cách thức nhân rộng của cải lên.
Xuất phát điểm của mô hình:
Adam Smith được coi là người khai sinh của khoa học kinh tế, với tác phẩm “Của cải
của các nước”. Trong tác phẩm này ông giới thiệu những nội dung cơ bản :
Học thuyết về “giá trị lao động”: Lao động chứ không phải đất đai, tiền bạc là nguồn
gốc cơ bản tạo ra mọi của cải cho đất nước.
Học thuyết “Bàn tay vô hình”: Tự người lao động chứ không phải ai khác biết rõ nhất
cái gì lợi cho họ. Nếu không bị chính phủ kiểm soát, họ được lợi nhuận thúc đẩy, sẽ sản xuất
các hàng hóa và dịch vụ cần thiết. Thông qua thị trường, lợi ích cá nhân sẽ gắn với lợi ích xã
hội. Ông cho rằng mọi cá nhân không có ý định thúc đẩy lợi ích công cộng…Họ được bàn tay
vô hình dẫn dắt để phục vụ một mục đích không nằm trong ý định của mình.
Về vai trò của Chính phủ ông viết:”Bạn nghĩ rằng bạn đang giúp cho hệ thống kinh tế
bằng những quản lý đầy ý định tốt đẹp và bằng những hành động can thiệp của mình. Không
phải như vậy đâu. Hãy để mặc tất cả, hãy để mọi sự việc xảy ra. Dầu nhờn của lợi ích cá nhân
sẽ làm cho các bánh xe kinh tế hoạt động một cách gần như kỳ diệu. Không ai cần kế hoạch,
không cần quy tắc, thị trường sẽ giải quyết tất cả…”.
Ông cũng đưa ra lý thuyết về phân phối thu nhập, theo nguyên tắc ”ai có gì được nấy”.
Tư bản có vốn thì có lợi nhuận, địa chủ có đất thì nhận địa tô, công nhân có sức lao động thì
nhận được tiền lương. Theo tác giả đây là nguyên tắc phân phối công bằng, hợp lý.
Các yếu tố tăng trưởng kinh tế:
Nếu Adam Smith là người khai sinh, thì David Ricardo là đại diện xuất sắc của trào
lưu kinh tế học cổ điển. Ông cho rằng:
Nông nghiệp là ngành quan trọng nhất, theo đó các yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh
tế là đất đai, sức lao động và vốn.
Trong từng ngành, với một trình độ kỹ thuật nhất định, các yếu tố này kết hợp với
nhau theo một tỷ lệ cố định.
HVTH: NHÓM 7 – ĐÊM 4 – K22 13/ 52
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GVHD: TS. TRẦN THỊ BÍCH DUNG
Trong ba yếu tố của tăng trưởng, đất đai là quan trọng nhất, do đó đất đai là giới hạn
của tăng trưởng. Để duy trì tăng trưởng, liên tục hóa sự vận động của nền kinh tế, chỉ có thể
xuất khẩu hàng công nghiệp để nhập khẩu nông phẩm, đặc biệt là lương thực, hoặc phát triển
công nghiệp để tác động vào nông nghiệp.
Sự phân chia giai cấp trong xã hội:
Tương ứng với các yếu tố tăng trưởng, D. Ricardo chia xã hội thành các nhóm người:
địa chủ, nhà tư bản, công nhân. Phân phối thu nhập của ba nhóm người này phụ thuộc quyền
sở hữu của họ với các yếu tố sản xuất: địa chủ có đất sẽ nhận được địa tô; công nhân có sức
lao động thì nhận được tiền công; tư bản có vốn sẽ nhận được lợi nhuận.
Do vậy, thu nhập của xã hội là tổng thu nhập của các tầng lớp dân cư, nghĩa là bằng:
tiền công + lợi nhuận + địa tô.
Trong các nhóm người của xã hội, các nhà tư bản giữ vai trò quan trọng trong sản xuất
và phân phối, đặc biệt họ là tầng lớp giữ vai trò chính thực hiện tích lũy cho phát triển sản
xuất.
Quan hệ cung cầu và vai trò của chính sách kinh tế với tăng trưởng:
Các nhà kinh tế học cổ điển cho rằng, thị trường với bàn tay vô hình dẫn dắt đã gắn lợi
ích cá nhân với lợi ích xã hội, làm linh hoạt giá cả và tiền công, hình thành và điều chỉnh các
cân đối kinh tế, bảo đảm công việc làm đầy đủ. Đây là quan điểm cung tạo nên cầu.
Trong mô hình này, đường cung AS luôn là đường thẳng đứng ở mức sản lượng tiềm
năng. Đường cầu AD thực chất là đường biểu thị hàm cung tiền, được xác định bởi mức giá,
không quan trọng với việc hình thành sản lượng. Điều này cũng có nghĩa là các chính sách
kinh tế không có tác động đáng kể vào hoạt động kinh tế.
Tác giả còn cho rằng, chính sách kinh tế nhiều khi lại hạn chế khả năng phát triển kinh
tế. Ví dụ chính sách thuế, xét cho cùng thuế lấy từ lợi nhuận, tăng thuế sẽ làm giảm tích lũy
hoặc làm tăng giá cả hàng hóa dịch vụ.
HVTH: NHÓM 7 – ĐÊM 4 – K22 14/ 52
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GVHD: TS. TRẦN THỊ BÍCH DUNG
Về chi tiêu của Chính phủ, các nhà kinh tế học cổ điển cho đó là những chi tiêu
“không sinh lời”. Ricardo chia những người làm việc thành hai nhóm. Những người làm việc
trực tiếp và gián tiếp tạo ra sản phẩm là những lao động sinh lời, còn những người khác là lao
động không sinh lời. Do những hoạt động không sinh lời này mà khả năng phát triển kinh tế
bị giảm bớt.
1.2.2.2. Mô hình K. Mark
K.Marx (1818-1883) là nhà kinh tế, xã hội, chính trị, lịch sử và triết học xuất sắc. Tác
phẩm nổi tiếng của ông là bộ “Tư bản”. Những quan điểm của ông về phát triển kinh tế có thể
tóm lược như sau:
Các yếu tố tăng trưởng kinh tế:
Theo Marx, các yếu tố tác động đến quá trính tái sản xuất là đất đai, sức lao động, vốn
và tiến bộ kỹ thuật.
Về yếu tố sức lao động: Tác giả cho rằng sức lao động là yếu tố duy nhất tạo ra giá trị
thặng dư. Thời gian lao động của công nhân chia ra hai phần, thời gian lao động cho mình (v)
và thời gian lao động cho nhà tư bản (m). Tỷ lệ m/v phản ánh mức độ bóc lột công nhân của
nhà tư bản.
Về yếu tố kỹ thuật: Mục đích của nhà tư bản là tăng giá trị thặng dư. Muốn vậy họ
phải tăng thời gian lao động, giảm tiền lương của công nhân, tìm mọi cách nâng cao năng suất
lao động. Hai hình thức đầu có giới hạn trong khoảng nhất định. Cho nên, tăng năng suất lao
động thông qua cải tiến kỹ thật là con đường cơ bản để tăng khối lượng giá trị thặng dư (đồng
thời cũng làm tăng quy mô kinh tế).
Marx cho rằng, tiến bộ kỹ thuật làm tăng mức trang bị kỹ thật cho công nhân, vì vậy
cấu tạo hữu cơ (c/v) cũng ngày càng tăng lên.
Để trang bị kỹ thuật, nhà tư bản phải đầu tư bằng cách phân chia giá trị thặng dư thành
phần tiêu dùng cho mình và phần cho tích lũy. Đây là nguyên lý của tích lũy tư bản chủ nghĩa.
Các chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng:
Marx đứng trên lĩnh vực sản xuất để nghiên cứu và đưa ra các chỉ tiêu tổng hợp. Ông
chia các hoạt động xã hội thành 2 hai lĩnh vực: sản xuất vật chất và phi sản xuất vật chất và
cho rằng: chỉ có lĩnh vực sản xuất mới sáng tạo ra sản phẩm xã hội.
Dựa vào tính hai mặt của lao động tác giả phân chia sản phẩm xã hội thành 2 hình thái
hiện vật và giá trị.
Dựa vào công dụng của sản phẩm Marx chia sản phẩm xã hội thành hai bộ phận tư
liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng.
HVTH: NHÓM 7 – ĐÊM 4 – K22 15/ 52
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GVHD: TS. TRẦN THỊ BÍCH DUNG
Trên cơ sở phân chia trên tác giả đưa ra 2 khái niệm tổng sản phẩm xã hội ( về mặt giá
trị bao gồm C+V+m) và thu nhập quốc dân (về mặt giá trị bao gồm V+m).
Sự phân chia giai cấp trong xã hội:
Cũng như Ricardo, Marx cho rằng, khu vực sản xuất của cải vật chất cho xã hội
gồm
ba nhóm người: địa chủ, nhà tư bản và công nhân. Tương ứng thu nhập của ba nhóm người
này là địa tô, lợi nhuận, tiền công.
Khác với Ricardo, Marx cho rằng phân phối này là bất hợp lý, mang tính chất bóc lột.
Một phần tiền công, đáng ra người công nhân được hưởng lại bị nhà tư bản và địa chủ chiếm
lấy. Địa chủ và nhà tư bản thuộc giai cấp bóc lột. Công nhân là giai cấp bị bóc lột.
Chu kỳ sản xuất và vai trò của chính sách kinh tế với tăng trưởng:
Marx bác bỏ quan điểm cung tạo ra cầu và sự bế tắc của tăng trưởng do giới hạn về đất
đai của các tác giả cổ điển và cho rằng, nguyên tắc cơ bản của sự vận động của tiền và hàng
trên thị trường là phải bảo đảm thống nhất giữa hiện vật và giá trị. Nếu khối lượng hàng hóa
cần bán cách biệt quá xa với sức mua sẽ tạo ra khủng hoảng. Khủng hoảng của chủ nghĩa tư
bản thường là khủng hoảng thừa do cung tăng lên nhanh để tối đa hóa lợi nhuận trong khi sức
cầu tăng chậm bởi tích lũy tư bản. Khủng hoảng là một “giải pháp” để lập lại thế cân bằng
mới của quan hệ tiền – hàng. Khủng hoảng diễn ra với những phân kỳ và đặc điểm của nó.
Theo Marx, chính sách kinh tế của Chính phủ có vai trò quan trọng, đặc biệt là chính
sách khuyến khích, nâng cao sức cầu hiện có.
1.2.2.3. Mô hình tân cổ điển:
Xuất phát điểm của mô hình:
Cuối thế kỷ 19 cách mạng khoa học công nghệ có sự chuyển biến mạnh, tác động
nhiều mặt đến kinh tế, xã hội. Sự chuyển biến này đã làm thay đổi cấu trúc kinh tế nói chung
và cấu trúc chi phí sản xuất nói riêng. Những thay đổi này đã thúc đẩy sự ra đời của trào lưu
kinh tế “tân cổ điển” đứng đầu là Marshall. Trường phái này có những điểm thống nhất với
trường phái cổ điển, đồng thời có những điểm mới.
Trong mô hình tân cổ điển, các nhà kinh tế bác bỏ quan điểm của trường phái cổ điển
cho rằng trong một tình trạng nhất định, tỷ lệ kết hợp của các yếu tố sản xuất là không thay
đổi. Họ cho rằng vốn có thể thay thế được nhân công và có nhiều cách kết hợp các yếu tố sản
xuất.
Từ đây, họ đưa ra quan điểm “phát triển kinh tế theo chiều sâu” trên cơ sở trang bị kỹ
thuật tăng nhanh hơn sức lao động và tiến bộ kỹ thuật là yếu tố cơ bản thúc đẩy phát triển
kinh tế.
HVTH: NHÓM 7 – ĐÊM 4 – K22 16/ 52
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GVHD: TS. TRẦN THỊ BÍCH DUNG
Các nhà kinh tế tân cổ điển còn cho rằng: nền kinh tế có hai đường tổng cung: AS-LR
phản ánh sản lượng tiềm năng, còn đường AS-SR phản ánh khả năng thực tế. Mặc dù vậy, họ
cũng nhất trí với các nhà kinh tế cổ điển là nền kinh tế luôn cân bằng ở mức sản lượng tiềm
năng. Bởi vì trong điều kiện thị trường cạnh tranh, khi có biến động thì sự linh hoạt của giá cả
và tiền công là nhân tố cơ bản điều tiết, đưa nền kinh tế về lại sản lượng tiềm năng thông qua
sử dụng hết nguồn lao động.
Chính sách kinh tế của Chính phủ không thể tác động vào sản lượng, nó chỉ ảnh hưởng
đến mức giá cả, do vậy vai trò Chính phủ là mờ nhạt trong phát triển kinh tế.
Đại diện: Mô hình Cobb –Douglas:
Các nhà kinh tế tân cổ điển đã cố gắng giải thích nguồn gốc và toàn học hóa sự tăng
trưởng thông qua hàm sản xuất.
Cobb - Douglas là đồng tác giả đã đề xuất mô hình được nhiều người thừa nhận và
ứng dụng trong phân tích tăng trưởng.
Mô hình này phản ánh mối quan hệ giữa kết quả của đầu ra với các yếu tố đầu vào
vốn, lao động, tài nguyên, khoa học công nghệ.
Xuất phát từ hàm sản xuất có tính nguyên tắc:Y=F(K, L, R, T)
Trong đó: Y: Đầu ra, chẳng hạn GDP, …
K: Vốn sản xuất
L : Số lượng nhân lực được sử dụng
R: Tài nguyên thiên nhiên huy động vào hoạt động kinh tế
T: Khoa học công nghệ
Tác giả đã đưa ra mô hình thực nghiệm:
HVTH: NHÓM 7 – ĐÊM 4 – K22 17/ 52
PL
Y
0
AS-
LR
AS-SR
GDP
AD
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GVHD: TS. TRẦN THỊ BÍCH DUNG
Y=K
α
L
β
.R
γ
.T, Trong đó α, β, γ là các số lũy thừa, phản ánh tỷ lệ cận biên các chi phí
của yếu tố đầu vào, ( α + β + γ = 1). Sau khi biến đổi, tác giả thiết lập được mối quan hệ giữa
kết quả tăng trưởng phụ thuộc và các yếu tố như sau:
Trong đó: g: Tốc độ tăng trưởng của sản lượng,
k, l, r : tốc độ tăng các yếu tố đầu vào
t: phần dư tăng trưởng do tác động của khoa học công nghệ.
Như vậy, hàm Cobb- Douglas cho biết 4 yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế và
cách thức, mức độ đóng góp của mỗi yếu tố này là khác nhau. Trong đó khoa học công nghệ
có vai trò quan trọng nhất với tăng trưởng và phát triển kinh tế.
1.2.2.4. Mô hình Keynes:
Xuất phát điểm của mô hình:
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp trở thành căn
bệnh thường xuyên của nền kinh tế các nước phát triển. Đại khủng hoảng kinh tế 1929-1933
cho thấy học thuyết “tự do điều tiết “ của thị trường và ”bàn tay vô hình” của trường phái cổ
điển và tân cổ điển đã không còn sức thuyết phục. Các công cụ này không bảo đảm cho nền
kinh tế tự điều chỉnh để phát triển lành mạnh. Thực tiễn đòi hỏi phải có học thuyết mới lý giải
được sự vận động và đưa ra các giải pháp hiệu chỉnh nền kinh tế.
Năm 1936, tác phẩm “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của J.Keynes
đánh dấu sự ra đời một học thuyết mới.
Các yếu tố tăng trưởng kinh tế: sự cân bằng của nền kinh tế:
Khác với các tư tưởng cổ điển và tân cổ điển, J.Keynes cho rằng nền kinh tế có xu
hướng tự điều chỉnh đi đến cân bằng ở một mức sản lượng nào đó dưới mức công ăn việc làm
đầy đủ cho tất cả mọi người, tại nơi mà những khoản chi tiêu mới cho đầu tư được hình thành
từ tiết kiệm bắt đầu được bơm vào hệ thống kinh tế.
Tác giả cho rằng, có hai đường tổng cung: AS-LR phản ánh mức sản lượng tiềm năng
và AS-SR phản ánh khả năng thực tế. Cân bằng của nền kinh tế không nhất thiết ở mức sản
lượng tiềm năng, thông thường sản lượng thực tế đạt ở mức cân bằng nhỏ hơn mức sản
lượng tiềm năng (Y
O
<Y
*
)
HVTH: NHÓM 7 – ĐÊM 4 – K22 18/ 52
g = αk+ βl + γr + t
+t
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GVHD: TS. TRẦN THỊ BÍCH DUNG
Cân bằng kinh tế theo Keynes
• Vai trò của tổng cầu trong việc xác định sản lượng:
J.Keynes đánh giá cao vai trò của tiêu dùng trong việc kéo theo sản lượng thực tế. Ông
cho rằng, thu nhập của các cá nhân được sử dụng cho tiêu dùng và tích lũy. Khi thu nhập tăng
lên thì xu hướng tiết kiệm trung bình cũng tăng lên và xu hướng tiêu dùng trung bình sẽ giảm
xuống. Việc giảm xu hướng tiêu dùng sẽ làm giảm cầu tiêu dùng. Đây là nguyên nhân tạo ra
trì trệ trong kinh tế hay là nghịch lý của tiết kiệm.
Mặt khác, khi nghiên cứu đầu tư của các doanh nghiệp cho thấy: đầu tư quyết định
quy mô việc làm. Nhưng quy mô đầu tư lại phụ thuộc lãi suất cho vay và hiệu suất cận biên
của vốn. Ông viết:”Sự thúc đẩy tăng sản lượng phụ thuộc vào sự tăng lên của hiệu suất cận
biên của một khối lượng vốn nhất định so với lãi suất”.
Tác giả sử dụng lý thuyết về việc làm và sản lượng do cầu quyết định để giải thích tình
trạng sản lượng tăng chậm trong khi thất nghiệp tăng nhanh những năm 1930 ở hầu hết các
nước công nghiệp phương Tây. J. Keynes đề xuất nhiều giải pháp để kích thích tăng tổng cầu
và việc làm. Do đó lý thuyết này còn được gọi là lý thuyết trọng cầu.
• Vai trò của chính sách kinh tế với tăng trưởng:
Từ phân tích tổng quan, Keynes đi đến kết luận: Muốn thoát khỏi khủng hoảng, thất
ngiệp, Nhà nước phải thực hiện điều tiết nền kinh tế bằng các chính sách, đặc biệt là những
chính sách nhằm kích thích và tăng cầu tiêu dùng. Ông đề nghị:
- Chính phủ sử dụng ngân sách để kích thích đầu tư (thông qua các đơn đặt hàng của
Chính phủ, trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp).
- Áp dụng nhiều biện pháp để tăng lợi nhuận, giảm lãi suất.
- Tăng khối lượng tiền trong lưu thông, lạm phát có mức độ.
- Coi trọng hệ thống thuế, áp dụng thuế thu nhập lũy tiến để làm cho phân phối công
bằng hơn.
- Coi trọng đầu tư của Chính phủ vào khu vực công cộng, trợ cấp tất nghiệp,…như là
một loại bơm trợ lực khi đầu tư tư nhân giảm sút.
HVTH: NHÓM 7 – ĐÊM 4 – K22 19/ 52
Y
*
Y
0
GDP
PL
0
PL AS-
LR
AD
AS-RS
E
0
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GVHD: TS. TRẦN THỊ BÍCH DUNG
1.2.2.5. Mô hình tăng trưởng Harrod Domar:
Xuất phát điểm của mô hình:
Dựa vào tư tưởng của J.Keynes, vào những năm 40 của thế kỷ XX, Harrod và Domar
độc lập nghiên cứu, cùng đưa ra mô hình giải thích mối quan hệ giữa thất nghiệp và sản lượng
ở các nước đang phát triển. Mô hình này cũng được sử dụng để xem xét quan hệ giữa tăng
trưởng và nhu cầu về vốn.
Các yếu tố tăng trưởng kinh tế:
Mô hình này coi đầu ra của bất kỳ đơn vị kinh tế nào đều phụ thuộc vào vốn đầu tư
dành cho nó.
Nếu gọi đầu ra là Y, tốc độ tăng trưởng của nó là g, K là vốn sản xuất, I là vốn sản
xuất tăng thêm do đầu tư mà có, S là khối lượng tiết kiệm,
Trong đó: g= ∆Y/Y
t
; s=S
t
/Y
t ;
S
t
=I
t;
s=I
t
/Y
t
; I
t
=∆K
t+n
; k=∆K
t+n
/∆Y= I
t
/∆Y.
Với những giả thiết và điều kiện trên, qua biến đổi sẽ có:
k
s
g
=
Ở đây, k là hệ số ICOR (hệ số gia tăng vốn và đầu ra). Hệ số này nói lên để tăng một
đơn vị sản lượng cần có thêm bao nhiêu đơn vị tiết kiệm ( cùng có nghĩa là phải có bao nhiêu
đơn vị đầu tư tăng thêm). Hệ số này cũng cho biết trình độ kỹ thuật của sản xuất.
Đối với nhà kế hoạch, với phương trình này, có thể xác định các phương án đầu tư
(trong trung hạn, dài hạn) là xuất phát từ nhu cầu tăng trưởng hay là xuất phát từ khả năng
tích lũy và các nguồn khác.
Tuy vậy, các nhà kinh tế trường phái tân cổ điển cũng phê phán mô hình này ở các nội
dung sau: Tăng trưởng trong thực tế không chỉ duy nhất là do đầu tư. Nếu đầu tư có tăng lên,
nhưng đầu tư sai về mục tiêu và địa điểm,…thì chưa chắc có tăng trưởng.
1.2.2.6. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại:
Xuất phát điểm của mô hình:
Dựa vào lý thuyết của Keynes, Chính phủ nhiều nước đã linh hoạt trong sử dụng các
chính sách để hạn chế lạm phát, thất nghiệp, làm tăng sản lượng thực tế. Sau một thời kỳ, do
quá nhấn mạnh vai trò của chính sách, vai trò tự điều tiết của thị trường bị xem nhẹ. Nhiều trở
ngại mới cho tăng trưởng đã xuất hiện.
Trong bối cảnh đó, một trường phái kinh tế mới đã ra đời mà người đại diện là
P.A.Samuelson với tác phẩm ”Kinh tế học”-1948. Ngày nay, hầu hết các nền kinh tế đều vận
động theo cơ chế hỗn hợp với nội hàm là nền kinh tế vừa chịu tác động của chính sách và
HVTH: NHÓM 7 – ĐÊM 4 – K22 20/ 52
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GVHD: TS. TRẦN THỊ BÍCH DUNG
công cụ quản lý vừa chịu tác động của các lực của thị trường. Liều lượng “pha trộn” hai lực
này do hoàn cảnh kinh tế, xã hội của từng nước, từng thời kỳ và nhận thức, vận dụng của
Chính phủ. Vì vậy học thuyết của Samuelson được coi là cơ sở của lý thuyết tăng trưởng hiện
đại.
Nội dung cơ bản của lý thuyết này là: Sự cân bằng kinh tế: Kinh tế học hiện đại cũng
thừa nhận sự cân bằng kinh tế theo quan điểm của Keynes, nghĩa là điểm cân bằng không nhất
thiết ở mức sản lượng tiềm năng, mà thường ở dưới mức sản lượng đó. Trong khi nền kinh tế
hoạt động bình thường vẫn có thể có thất nghiệp và lạm phát. Nhà nước cần xác định tỷ lệ thất
nghiệp và lạm phát ở mức chấp nhận được.
Các yếu tố tăng trưởng kinh tế:
Lý thuyết tăng trưởng hiện đại cũng thống nhất với trường phái tân cổ điển về các yếu
tố tác động đến sản xuất là: vốn, nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, khoa học và công nghệ
(K,L,R,T) và đồng ý cách phân tích tăng trường của Cobb-Douglas. Họ coi các yếu tố này là
nguồn gốc của sự tăng trưởng.
Dựa vào số liệu từ 1930-1981 của Hoa Kỳ, Samuelson cho rằng:” Khoảng 1/3 mức
tăng sản lượng ở Mỹ là do tác động của nguồn nhân lực và vốn, 2/3 còn lại là một số dư có
thể quy cho giáo dục, đổi mới, hiệu quả kinh tế theo quy mô, tiến bộ khoa học và những yếu
tố khác”. Trong bảng thống kê, đất đưa vào sản xuất sản xuất không tăng trong thời gian đó
nên không đóng góp cho tăng sản lượng ở Hoa Kỳ.
Lý thuyết này cũng đồng ý với lý thuyết tân cổ điển về quan hệ giữa các yếu tố là các
nhà sản xuất, kinh doanh có thể lựa chọn kỹ thuật và tỷ lệ kết hợp giữa các yếu tố; vai trò của
đầu tư với tăng trưởng. Samuelson nhấn mạnh: kỹ thuật công nghiệp tiên tiến, hiện đại dựa
vào sử dụng vốn lớn vốn là cơ sở để sử dụng các yếu tố khác.
Các lực lượng hướng dẫn tổng cầu bao gồm các nhân tố mức giá, thu nhập, dự kiến về
tương lai cùng với các biến số về chính sách như thuế khóa, chi tiêu của chính phủ, lượng
cung tiền,…
Vai trò của chính sách kinh tế với tăng trưởng:
Lý thuyết tăng trưởng hiện đại cho rằng thị trường là nhân tố, là lực lượng cơ bản điều
tiết các hoạt động của nền kinh tế. Sự tác động qua lại giữa tổng mức cung và tổng mức cầu
tạo ra mức thu nhập thực tế, công ăn việc làm - tỷ lệ tất nghiệp, mức giá – tỷ lệ lạm phát, đây
là những “cơ sở” để giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế.
Một trong những đặc điểm nổi bật của nền kinh tế hiện đại là Chính phủ trở thành tác
nhân có vị trí trung tâm để định hướng, phối hợp các hoạt động của toàn xã hội; ổn định và
cân bằng tổng chể; kích thích, tạo nhân tố mới cho sự phát triển. Vai trò Chính phủ tăng lên
HVTH: NHÓM 7 – ĐÊM 4 – K22 21/ 52
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GVHD: TS. TRẦN THỊ BÍCH DUNG
không chỉ vì những thất bại của thị trường mà còn do xã hội đặt ra những yêu cầu mới cao
hơn, đặc biệt là góp phần định hướng và điều chỉnh cấu trúc kinh tế mà thị trường dù có hoạt
động tốt cũng không thể giải quyết có hiệu quả.
Theo Samuelson, trong nền kinh tế vận động theo cơ chế hỗn hợp, Chính phủ có bốn
chức năng cơ bản:
- Thiết lập khuôn khổ pháp luật;
- Xác lập chính sách ổn định kinh tế vĩ mô;
- Tác động vào việc phân bổ tài nguyên để cải thiện hiệu quả kinh tế;
- Thiết lập các chương trình tác động tới phân phối thu nhập.
Vì vậy Chính phủ cần:
- Tạo môi trường ổn định để các tác nhân kinh tế kinh doanh thuận lợi.
- Đưa ra những định hướng cơ bản về phát triển kinh tế với những hướng ưu tiên cần
thiết cho từng phân kỳ. Sử dụng các công cụ quản lý, các chương trình để hướng dẫn
các ngành, các doanh nghiệp hoạt động.
- Tìm cách duy trì công việc làm ở mức cao thông qua chính sách thuế, tiền tệ và chi
tiêu hợp lý.
- Khuyến khích đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế vững chắc, chống ô nhiễm và bảo vệ môi
trường.
- Điều tiết, phân phối lại thu nhập. Thực hiện các chương trình phúc lợi công cộng và
phúc lợi xã hội.
HVTH: NHÓM 7 – ĐÊM 4 – K22 22/ 52
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GVHD: TS. TRẦN THỊ BÍCH DUNG
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
VIỆT NAM TRONG VÒNG 10 NĂM (2002-2012)
2.1 Tăng trưởng GDP:
2.1.1 Giai đoạn 2002 - 2006
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực xảy ra cuối năm 1997 đã tác động
tiêu cực đến nền kinh tế nước ta. Tổng sản phẩm trong nước trong những năm 1992-1997
thường đạt mức tăng trưởng hàng năm 8-9% đã đột ngột giảm xuống chỉ còn tăng 5,8% vào
năm 1998 và tăng 4,8% vào năm 1999. Nhưng từ năm 2000 đến nay, nền kinh tế nước ta đã
lấy lại được đà tăng trưởng với tốc độ tăng năm sau luôn luôn cao hơn năm trước. Giai đoạn
2002 – 2006 là giai đoạn Việt Nam bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 và kế
hoạch 10 năm 2001 – 2010, trong giai đoạn này nền kinh tế Việt Nam còn nhiều yếu kém kết
hợp với giá cả của nhiều loại vật tư nguyên vật liệu đầu vào quan trọng như xăng dầu, sắt
thép, phân bón, chất dẻo liên tục tăng; thiên tai (hạn hán, bão lũ) và dịch bệnh (dịch SARS,
dịch cúm gia cầm) lại xảy ra trên diện rộng. Thêm vào đó, môi trường kinh tế thế giới và khu
vực diễn biến hết sức phức tạp do tác động tiêu cực của thảm hoạ môi trường; mâu thuẫn tôn
giáo, sắc tộc và khủng bố quốc tế tuy nhiên nền kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng với tốc độ
tương đối cao, vượt qua thời kỳ suy giảm về tốc độ tăng trưởng; cơ cấu kinh tế chuyển dịch
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo chủ trương của Đảng và nhà nước
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GDP, GDP và GDP bình quân đầu người 2002 - 2006
CHỈ TIÊU 2002 2003 2004 2005 2006
Tốc độ tăng trưởng GDP (%) 7.08% 7.34% 7.79% 8.44% 8.23%
GDP (tỷ đồng) 536,098 613,443 715,307 839,211 973,790
GDP (triệu USD) 35,058 39,552 45,428 52,917 60,913
GDP bình quân đầu người
(triệu đồng) 57.11 50.64 44.11 37.89 32.93
GNI bình quân đầu người
(USD) 430 480 550 630 700
Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam và Ngân hàng Thế giới
Giai đoạn năm 2002 – 2006 là giai đoạn nền kinh tế phục hồi tăng trưởng sau cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á 1997 – 1999. Từ năm 2002-2006 nền kinh tế nước ta
tăng trưởng bình quân mỗi năm 7.78%, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân tương đối cao và
đạt được mục tiêu đưa ra là 7.5%/năm. Năm 2006 GDP tăng 1.86 lần so với năm 2002, bình
quân GDP tăng 101 nghìn tỷ đồng / năm. Năm 2005 và 2006 tăng trưởng GDP của Việt Nam
đạt trên 8% và chỉ thua mức tăng trưởng của Trung Quốc. Mặc dù GDP giai đoạn này tăng
trưởng tốt nhưng do xuất phát điểm thấp nên quy mô của nền kinh tế còn nhỏ bé, giá trị tăng
thêm của 1% tăng lên không cao và do vậy đến năm 2006 nước ta vẫn chưa ra khỏi danh sách
HVTH: NHÓM 7 – ĐÊM 4 – K22 23/ 52
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GVHD: TS. TRẦN THỊ BÍCH DUNG
các nước đang phát triển có thu nhập thấp. Theo phân loại của Ngân hàng Thế giới thu nhập
thấp từ 995 USD trở xuống, thu nhập trung bình thấp từ 996 đến 3,945 USD, thu nhập trung
bình cao từ 3,946 -12,195, thu nhập cao từ 12,196 trở lên, trong khi đó thu nhập bình quân
đầu người của nước ta năm 2006 chỉ đạt 700 USD, tuy tăng 62.79% so với năm 2002 nhưng
mới bằng 70.35% cận trên của nhóm thu nhập thấp.
Sở dĩ tổng sản phẩm trong nước đạt được tốc độ tăng trưởng như trên là do hầu hết các
ngành, các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế đều có mức tăng trưởng khá cao, cụ thể xét về cơ
cấu khu vực kinh tế thì tốc độ tăng trưởng đóng góp vào GDP từ năm 2002 – 2006.
Bảng 2: Tổng sản phẩm trong nước theo khu vực kinh tế 2002 - 2006
ĐVT: tỷ đồng, %
CHỈ TIÊU 2002 2003 2004 2005 2006
GDP 536,098 613,443 715,307 839,211 973,790
Nông lâm nghiệp và thủy sản 123,463 138,285 155,993 176,401 198,266
Tăng trưởng 4.17% 3.62% 4.36% 4.04% 3.69%
Công nghiệp và xây dựng 206,344 242,126 287,615 343,807 404,753
Tăng trưởng 9.48% 10.48% 10.22% 10.65% 10.38%
Dịch vụ 206,291 233,032 271,698 319,003 370,771
Tăng trưởng 6.54% 6.45% 7.26% 8.48% 8.29%
Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam
Bảng 3: Tỷ trọng sản phẩm trong nước theo khu vực kinh tế 2002 - 2006
ĐVT: Tỷ đồng, %
CHỈ TIÊU 2007 2008 2009 2010 2011
GDP 536,098 613,443 715,307 839,211 973,790
Nông lâm nghiệp và thủy sản 23.03% 22.54% 21.81% 21.02% 20.36%
Công nghiệp và xây dựng 38.49% 39.47% 40.21% 40.97% 41.56%
Dịch vụ 38.48% 37.99% 37.98% 38.01% 38.08%
Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam
So với năm 2002 thì đến năm 2006 giá trị sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản tăng
60.59% và bình quân mỗi năm tăng 3.98%, giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng tăng
1.96 lần với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 10.38%, dịch vụ tăng 79.73% và bình quân
mỗi năm tăng 7.4%. Từ năm 2002 – 2006 kinh tế nước ta không những tăng trưởng tương đối
cao mà cơ cấu kinh tế còn chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo như
nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng họp năm 2001 đề ra. Tỷ trọng
giá trị công nghiệp và xây dựng tăng từ 38.49% năm 2002 lên 41.56% năm 2006, khu vực nông
lâm nghiệp và thủy sản mặc dù giá trị có tăng lên nhưng tỷ trọng trong GDP lại có khuynh
hướng giảm xuống, năm 2002 ngành này chiếm 23.03% nhưng đến 2006 giảm xuống còn
20.36%, lĩnh vực dịch vụ giá trị tăng lên hàng năm và vẫn chiếm tỷ trọng tương đối ổn định
HVTH: NHÓM 7 – ĐÊM 4 – K22 24/ 52
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GVHD: TS. TRẦN THỊ BÍCH DUNG
khoảng 38% GDP. Trong giai đoạn này thể hiện rõ xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông
nghiệp sang công nghiệp xây dựng, riêng tỷ trọng của ngành dịch vụ tương đôi ổn định qua các
năm
2.1.2 Giai đoạn 2007-2012
Ngày 07/11/2006 Việt Nam gia nhập WTO và được công nhận là thành viên chính
thức của tổ chức này vào ngày 11/01/2007. Sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nước ta,
đánh dấu sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế thế giới. Điều đó đã tạo điều kiện thuận
lợi cho việc phát triển kinh tế-xã hội, hầu hết các lĩnh vực kinh tế then chốt đều đạt được
những kết quả vượt trội so với năm 2006 và tạo đà cho những năm tiếp theo phát triển mạnh
hơn, tuy nhiên cũng đặt ra không ít những khó khăn, thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam.
Năm 2008 – 2009 Việt Nam chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
toàn cầu mà xuất phát điểm từ cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp nhà ở Mỹ, kinh tế toàn thế
giới suy thoái, giá dầu thô và giá nhiều loại nguyên liệu, hàng hoá khác trên thị trường thế
giới tăng mạnh, lạm phát xảy ra ở nhiều nước đã tác động tiêu cực đến thị trường xuất khẩu,
thị trường vốn, thị trường lao động và nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội khác của nước ta
Nền kinh tế toàn cầu hồi phục mạnh trong nửa đầu năm 2010, nhưng sự ổn định tài
chính sụt giảm mạnh do cuộc khủng hoảng nợ công vào quý II năm 2010. Và năm 2011 tình
trạng vỡ nợ công ở Hy Lạp và một số nước khu vực đồng Euro, bất ổn ở Bắc Phi, Trung Đông
đã tác động trực tiếp đến tình hình kinh tế-xã hội Việt Nam ở các mức độ khác nhau. Quy mô
hồi phục kinh tế có sự khác biệt giữa các quốc gia, khu vực với sự dẫn đầu thuộc khu vực
châu Á, Mỹ và Nhật Bản suy giảm đáng kể vào quý II, trong khi tăng trưởng được đẩy mạnh
ở châu Âu và duy trì vững chắc ở các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển. Tình hình kinh
tế-xã hội Việt Nam năm 2010 phát triển theo chiều hướng tích cực, nền kinh tế phục hồi khá
nhanh trong điều kiện kinh tế thế giới vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp; an sinh xã hội được
bảo đảm, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Một vấn đề kinh tế năm 2010 không
thể không nhắc đến là sự kiện Tập đoàn Vinashin bên bờ vực phá sản với việc nợ hàng chục
nghìn tỷ đồng.
Kinh tế - xã hội nước ta năm 2012 tiếp tục bị ảnh hưởng bởi sự bất ổn của kinh tế thế
giới do khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ công ở Châu Âu chưa được giải quyết. Suy
thoái trong khu vực đồng euro cùng với khủng hoảng tín dụng và tình trạng thất nghiệp gia
tăng tại các nước thuộc khu vực này vẫn đang tiếp diễn. Hoạt động sản xuất và thương mại
toàn cầu bị tác động mạnh, giá cả hàng hóa diễn biến phức tạp. Tăng trưởng của các nền kinh
tế đầu tàu suy giảm kéo theo sự sụt giảm của các nền kinh tế khác. Một số nước và khối nước
HVTH: NHÓM 7 – ĐÊM 4 – K22 25/ 52