Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Đánh giá quá trình vận dụng các công cụ tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2007 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.61 KB, 41 trang )

NTH: Nhóm 5 – Lớp đêm 4 – K22 GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
MỤC LỤC
3.1Tỷ lệ dự trữ bắt buộc: 5
3.2Chính sách lãi suất: 7
3.3Nghiệp vụ thị trường mở: 9
3.4Hạn mức tín dụng: 10
3.5Tỷ giá hối đoái: 11
Tài liệu tham khảo 39
1
NTH: Nhóm 5 – Lớp đêm 4 – K22 GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
A. LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách tiền tệ là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng
nhất của nhà nước bên cạnh các chính sách tài khóa, chính sách phân phối thu nhập,
chính sách kinh tế đối ngoại … nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh và nâng cao đời
sống nhân dân.
Như chúng ta đã biết, Ngân hàng trung ương là một cơ quan thuộc bộ máy nhà
nước, được độc quyền phát hành giấy bạc và thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, với mục tiêu cơ bản là ổn định giá trị đồng
tiền, duy trì sự ổn định trong hoạt động của hệ thống Ngân hàng. Do đặc thù như vậy,
nên Ngân hàng trung ương nắm giữ một trong những công cụ quan trọng nhất để quản
lý nền kinh tế vĩ mô, đó là chính sách tiền tệ. Ngân hàng trung ương sử dụng chính
sách tiền tệ nhằm gây ra sự mở rộng hay thắt chặt lại trong việc cung ứng tiền tệ,để ổn
định giá trị đồng bản tệ, đưa sản lượng và việc làm của quốc gia đến mức mong muốn.
Để thực hiện mục tiêu cơ bản đó ngân hàng trung ương có những công cụ chính
sách tiền tệ trong tay đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành kinh tế vĩ mô của
nhà nước đó là: các chính sách về lãi suất, chính sách tỷ lệ dự trữ bắt buộc, chính sách
hạn mức tín dụng, nghiệp vụ thị trường mở và chính sách tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên
trong thời gian vừa qua việc thực thi các chính sách tiền tệ của Việt Nam luôn có độ
trễ và phản ứng chậm so với những diễn biến của thị trường tiền tệ cho nên các chính
sách tiền tệ chưa thực sự phát huy được hết những lợi ích và hiệu quả vốn có.


Với những nhận thức trên về tầm quan trọng của việc sử dụng các công cụ chính
sách tiền tệ, nhóm đã chọn đề tài “Đánh giá quá trình vận dụng các công cụ tiền tệ
của Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2007 đến nay”.
Mục tiêu nghiên cứu đề tài là phân tích và đánh giá sự vận dụng các công cụ
chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước trong từng thời kỳ có tác động như thế nào
đến thị trường tiền tệ và từ đó đưa ra những định hướng và giải pháp trong việc sử
dụng các công cụ chính sách trong thời gian tới một cách hoàn thiện và hiệu quả hơn.
Phương pháp nghiên cứu: phân tích thống kê mô tả và hồi qui.
2
NTH: Nhóm 5 – Lớp đêm 4 – K22 GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
Với phạm vi nghiên cứu như vậy, cơ cấu và nội dung đề tài được thể hiện bao
gồm 3 phần:
I. Chính sách tiền tệ và các công cụ chính sách tiền tệ.
II. Thực trạng vận dụng các công cụ tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt
Nam trong giai đoạn từ 2007 đến nay.
III. Đánh giá chung tình hình thực hiện các công cụ tiền tệ những năm qua.
IV. Định hướng và giải pháp thực thi các công cụ tiền tệ trong thời gian tới.
Trong quá trình thực hiện đề tài, do hạn chế về thời gian và kiến thức sẽ không
tránh khỏi những sai sót. Nhóm mong nhận được sự góp ý của Cô để nhóm có thể
hoàn thiện thêm. Nhóm cũng xin chân thành cám ơn Cô Vũ Thị Minh Hằng đã dành
thời gian quý báu để hướng dẫn cho nhóm hoàn thành đề tài tiểu luận.
3
NTH: Nhóm 5 – Lớp đêm 4 – K22 GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
B. NỘI DUNG
I. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ (CSTT) VÀ CÔNG CỤ THỰC THI CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ:
1. Khái niệm về chính sách tiền tệ:
CSTT là tổng hòa những phương thức mà Ngân hàng Trung Ương (NHTW)
thông qua các hoạt động của mình tác động đến khối lượng tiền trong lưu thông, nhằm
phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong một thời

kỳ nhất định. CSTT là một bộ phận quan trọng trong hệ thống các chính sách kinh tế -
tài chính vĩ mô của chính phủ.
• CSTT mở rộng (nới lỏng): Là CSTT mà thông qua đó Chính phủ muốn kích
cầu nền kinh tế, mở rộng tiền tệ, cung ứng thêm nguồn vốn vào kinh tế nhằm
thúc đẩy tăng trưởng và tạo thêm của cải vật chất, công ăn việc làm cho xã hội.
• CSTT thu hẹp (thắt chặc): Là CSTT mà thông qua đó Chính phủ thắt chặt tiền
tệ nhằm kiềm chế, ổn định lạm phát khi tình hình kinh tế tăng trưởng nóng hoặc
tỷ lệ lạm phát ở mức cao.
2. Mục tiêu của Chính sách tiền tệ:
2.1 Phát triển kinh tế, gia tăng sản lượng:
Phát triển kinh tế ở đây là sự phát triển nói chung về nền kinh tế nhưng cụ thể
hơn đó là sự phát triển về đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển cơ sở hạ tầng cho nền
kinh tế như hệ thống thông tin, nguồn nhân lực chất lượng cao,v.v… nhằm tạo ra
nhiều của cải cho xã hội, gia tăng tổng sản phẩm Quốc gia.
Trong việc thực hiện mục tiêu nêu trên, vai trò của ngân hàng trung gian rất quan
trọng. Với chức năng là trung tâm tín dụng, dưới sự chỉ đạo của NHTW thông qua
chính sách tiền tệ, các ngân hàng trung gian sẽ huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi trong xã hội để cung ứng vốn cho các đơn vị kinh tế để nhằm mở rộng hoạt động
sản xuất kinh doanh và góp phần vào sự phát triển kinh tế.
4
NTH: Nhóm 5 – Lớp đêm 4 – K22 GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
2.2 Tạo công ăn việc làm:
Việc làm nhiều hay ít, tăng hay giảm, nói chung chủ yếu phụ thuộc vào tình hình
tăng trưởng kinh tế. Khi nền kinh tế tăng trưởng tốt sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm
cho người lao động, thất nghiệp giảm; ngược lại, khi nền kinh tế trì trệ thì công văn
việc làm giảm, thất nghiệp tăng.
Đứng trước vấn đề nêu trên, vai trò của NHTW là phải vận dụng các công cụ của
mình góp phần tạo ra sự tăng trưởng kinh tế ổn định, bền vững; khống chế tỷ lệ thất
nghiệp ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
2.3 Kiểm soát lạm phát:

Lạm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng nhanh dẫn đến sự mất
giá của đồng tiền. Hiện nay, lạm phát luôn là mối lo thường trực của các nước đang
phát triển, tăng trưởng quá nóng, hay CSTT lỏng lẻo rất dễ đẩy tới tình trạng lạm phát
cao.
Thường thì lạm phát vừa phải là mục tiêu phấn đấu của các NHTW trong vấn đề
kiểm soát lạm phát. Trong thời gian qua, mục tiêu kiềm chế lạm phát được đề cập rất
nhiều ở nước ta cùng với những chính sách của NHNN trong việc thực thi chính sách
tiền tệ đảm bảo tỷ lệ lạm phát vừa phải.
Nhận xét: Từ những nhận định trên ta có thể thấy rằng, sự phối hợp ba mục tiêu: tăng
trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm và kiềm chế lạm phát rất quan trọng, nó quyết
định sự phát triển kinh tế bền vững, phù hợp với từng giai đoạn; vì vậy cần có sự dung
hòa, tùy điều kiện cụ thể mà sắp xếp thứ tự ưu tiên cho các mục tiêu trên.
3. Các công cụ của CSTT:
3.1 Tỷ lệ dự trữ bắt buộc:
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ phần trăm trên tổng số dư tiền gửi các loại mà các
ngân hàng thương mại (NHTM) phải dự trữ dưới dạng tiền mặt hoặc tiền gửi tại
NHTW.
5
NTH: Nhóm 5 – Lớp đêm 4 – K22 GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
Trong hoạt động của mình, các NHTM sử dụng các khoản tiền gửi của khách
hàng để cho vay hoặc đầu tư một cách khá linh hoạt. Tuy nhiên chính điều này đã đặt
các ngân hàng vào tình trạng có khả năng bị rủi ro thanh khoản .Vì thế dự trữ bắt buộc
đã tạo ra một kho dự trữ lỏng để trợ giúp cho các ngân hàng trong thời kỳ hoảng loạn.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn được NHTW sử dụng để điều tiết tiền tệ trong nền kinh tế,
nói cách khác, dự trữ bắt buộc làm tăng khả năng kiểm soát của NHTW đối với quá
trình cung ứng tiền. Thông qua việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTW có thể tác
động vào nguồn dự trữ vốn khả dụng của các ngân hàng để làm thay đổi tiềm năng tín
dụng của các ngân hàng, nhưng không quyết định việc sử dụng các tiềm năng ấy.
Những ưu điểm và hạn chế của công cụ “Tỷ lệ dự trữ bắt buộc”
Ưu điểm:

Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng vẫn là một trong những nhân tố cơ bản nhất tác động
đến khả năng tạo tiền và vì vậy nó tác động mạnh nhất đến khối lượng tiền cung ứng.
Việc tăng lãi suất trên thị trường tín dụng lại là hiệu quả gián tiếp khi NHTW muốn
nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc để thắt chặt tiền tệ. Lãi suất tín dụng tăng lên thì cầu về tín
dụng sẽ giảm xuống và nguồn cung ứng tiền vì thế có thể co hẹp lại và ngược lại cho
chính sách mở rộng tiền tệ.
Tác động của tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với khối lượng tiền trong nền kinh tế là
khá toàn diện, nó tác động rất mạnh mẽ không chỉ đến qui mô, khối lượng tín dụng mà
cả đối với lãi suất tín dụng. Mức độ tác động không chỉ làm tăng hay giảm đơn thuần
mà là làm thay đổi theo số lần tiền cung ứng vào lưu thông (tăng lên nhiều lần hoặc
giảm xuống nhiều lần).
Hạn chế:
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc bộc lộ hạn chế trong tương tác với NHTM. Có thể thấy
NHTW các nước hầu như không một nước nào trả lãi cho dự trữ bắt buộc. Tỷ lệ dữ trữ
bắt buộc càng tăng để giải quyết vấn đề lạm phát thì sẽ làm cho chi phí tốn kém cho số
tiền để dự trữ càng nặng nề. Từ đó NHTM có thể tăng lãi suất cho vay lên để bù đắp
cho sự thiệt thòi mất mát khi dự trữ ở NHTW mà không thu được đồng lãi nào.
6
NTH: Nhóm 5 – Lớp đêm 4 – K22 GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
Công cụ này còn bộc lộ khá nhiều hạn chế về cơ chế quản lý vì mang nặng tính
mệnh lệnh hành chính, áp đặt và không phù hợp với cơ chế thị trường hiện nay.
Trên thực tế thị trường cũng rất khó có thể chấp nhận một sự thay đổi lớn, thay
đổi đột ngột về lượng tín dụng, khối lượng tiền tệ và lãi suất thị trường. Vì vậy có lẽ sự
thay đổi tỉ lệ dự trữ bắt buộc thường xuyên là việc không nên làm.
Ngoài ra sự vượt trội quá mức về dự trữ ở các ngân hàng so với dự trữ bắt buộc
đã gần như vô hiệu hóa khả năng chi phối quá trình cung ứng tiền của NHTW thông
qua công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc này.
3.2 Chính sách lãi suất:
NHTW quản lý lãi suất bằng cách đưa ra khung lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi
suất tái chiết khấu.

3.2.1 Lãi suất cơ bản:
Lãi suất cơ bản là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ của NHTW. Căn
cứ vào lãi suất cơ bản, các ngân hàng trung gian áp dụng để giao dịch kinh doanh với
khách hàng. Lãi suất cơ bản được xác định dựa trên cơ sở lãi suất thị trường liên ngân
hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước, lãi suất huy động đầu
vào của tổ chức tín dụng và xu hướng biến động cung-cầu vốn.
Tại Việt Nam, để chính sách lãi suất thực sự phù hợp với cơ chế của nền kinh tế
thị trường, phương pháp quản lý lãi suất đã dần dần được thay đối. Lãi suất quy định
cứng nhắc đã dần dần được thay thế bằng cách quản lý lãi suất trần cho vay, lãi suất
sàn đối với tiền gửi.
3.2.2 Lãi suất tái cấp vốn:
Lãi suất tái cấp vốn là lãi suất được sử dụng trong trường hợp NHTW tái cấp vốn
cho các NHTM thông qua việc cho vay lại theo các hồ sơ tín dụng giữa NHTM và
khách hàng. Công cụ tái cấp vốn là một công cụ có ý nghĩa quan trọng và đây thực
chất là biện pháp cho vay của NHTW đối với các NHTM và thông qua đó NHTW
khống chế khối lượng tín dụng và kiểm soát chất lượng tín dụng của các NHTM.
7
NTH: Nhóm 5 – Lớp đêm 4 – K22 GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
3.2.3 Lãi suất tái chiết khấu
Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất được NHTW áp dụng khi tái cấp vốn cho các
NHTM dưới hình thức chiết khấu lại các giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh
toán của ngân hàng. Lãi suất này do NHTW ấn định căn cứ vào mục tiêu của chính
sách tiền tệ trong từng thời kỳ và chiều hướng biến động lãi suất trên thị trường tiền tệ.
Những ưu điểm và hạn chế của công cụ “Chính sách Lãi suất”
Ưu điểm:
NHTW ngoài việc sử dụng chính sách chiết khấu nhằm tác động tới dự trữ, cơ sở
tiền tệ và cung tiền, nó còn được sử dụng để khơi thông năng lực thanh toán tránh tình
trạng hoảng loạn tài chính xảy ra.
Việc thay đổi lãi suất tái cấp vốn sẽ có tác dụng trực tiếp đến nguồn vốn khả
dụng của các ngân hàng thông qua đó có tác động đến lãi suất của thị trường tiền tệ.

Mức độ ảnh hưởng của nó tới lãi suất thị trường tiền tệ cũng lớn nếu như khối lượng
tín dụng của ngân hàng nhận từ NHTW càng nhiều và chiếm tỷ trọng chủ yếu trong
tổng dự trữ của các ngân hàng.
Hạn chế:
Một biểu lãi suất cơ bản cứng nhắc làm mất đi tính uyển chuyển, linh hoạt của
“loại giá” đặc biệt này. Việc giữ nó ở mức tương đối cố định một cách lâu dài tạo ra
khoảng cách không hợp lý giữa lãi suất và tỷ suất lợi nhuận bình quân, lãi suất và tỷ tệ
trượt giá, lãi suất và rủi ro…Mặt khác, gắn liền với khung lãi suất bao giờ cũng có sự
phân biệt đối xử giữa các ngành nghề khác nhau, giữa các thành phần kinh tế khác
nhau…tạo ra một mặt bằng cạnh tranh không thỏa đáng trong nền kinh tế.
Đối với trường hợp tăng lãi suất chiết khấu, mặc dù mục đích là để hạn chế ngân
hàng vay vốn nhưng lại không thể cấm khi ngân hàng có nhu cầu phải vay. Còn việc
giảm lãi suất chiết khấu để khuyến khích các ngân hàng vay từ NHTW cũng chỉ có tác
dụng khi ngân hàng muốn cho vay nhưng nguốn vốn huy động của các ngân hàng
không có khả năng đáp ứng nhu cầu.
8
NTH: Nhóm 5 – Lớp đêm 4 – K22 GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
Trong trường hợp ngân hàng đủ khả năng thanh toán, lãi suất thị trường tiền tệ
thấp hơn lãi suất tái cấp vốn, thì việc tăng lãi suất tái cấp vốn sẽ không còn ý nghĩa gì
mà còn làm mất khả năng kiểm soát của nó với lãi suất thị trường tiền tệ.
3.3 Nghiệp vụ thị trường mở:
Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ để NHTW thực hiện việc cung ứng và điều
hòa khối lượng tiền tệ thông qua hành vi mua hoặc bán các loại công trái, trái phiểu
kho bạc, chứng thư tài sản khác…gọi chung là chứng khoán. Đây là công cụ CSTT
quan trọng vì những hoạt động trên thị trường mở là yếu tố quyết định quan trọng nhất
đối với sự thay đổi cơ số tiền tệ và thông qua đó tạo ra những biến động trong cung
ứng tiền tệ.
Các loại chứng khoán được mua bán trên thị trường mở: Thông thường Ngân
hàng trung ương các nước chọn chứng khoán ngắn hạn và trong số đó tín phiếu kho
bạc là loại hàng hóa được ưa chuộng nhất trên thị trường mở. Ngày nay thị trường mở

được ngân hàng trung ương các nước sử dụng phổ biến nhất và nó được xem là một
công cụ khá tuyệt vời trong điều hành chính sách tiền tệ.
Những ưu điểm của công cụ “Nghiệp vụ thị trường mở”
Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ của CSTT tương đối linh hoạt và chính xác.
NHTW có thể thay đổi dự trữ của các NHTM ở biên độ lớn hoặc nhỏ bằng cách mua
hoặc bán chứng khoán ở các mức độ thích hợp.
Nghiệp vụ thị trường mở còn dành cho các đối tượng không phải là ngân hàng
hay còn gọi là các định chế tài chính trung gian nên mức độ chủ động của NHTW cao
hơn khi sử dụng công cụ này.
Nếu NHTW mua bán thẳng với các thành phần ngoài ngân hàng thì trực tiếp tác
động tới khối lượng tiền tệ. Trực tiếp tác động đến M1 không cần phải qua hệ thống
ngân hàng, như vậy sẽ chắc chắn hơn và nhanh hơn.
Mọi nghiệp vụ mua bán có thể được thực hiện một cách nhanh chóng không bị
phiền hà chậm trễ và do vậy nó có thể đảo ngược thay nghiệp vụ bán bằng nghiệp vụ
9
NTH: Nhóm 5 – Lớp đêm 4 – K22 GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
mua và ngược lại một cách dễ dàng nếu như nhận thấy có một sự sai lầm nào nó xảy ra
trong quá trình thực hiện nghiệp vụ thị trường mở.
Tuy nhiên để phát huy hết hiệu quả của công cụ này, đỏi hỏi phải có sự phát triển cao
của cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt và nền kinh tế phải có thị trường tài chính
phát triển.
3.4 Hạn mức tín dụng:
Bằng công cụ hạn mức tín dụng, NHTW quy định cho các ngân hàng trung gian
một hạn mức tăng trưởng tín dụng tối đa trong một thời gian nhất định. Đây là một
biện pháp mạnh, mang tính hành chính, có hiệu lực đáng kể. Tuy nhiên, trong nền kinh
tế thị trường, cung cầu tín dụng luôn biến động không ngừng; cho nên công cụ này ít
được NHTW áp dụng.
Những ưu điểm và hạn chế của công cụ “Hạn mức tín dụng”
Ưu điểm:
NHTW can thiệp trực tiếp vào hoạt động tín dụng của các NHTM nhằm điều

chỉnh tức thời cho thị trường tiền tệ.
Hạn chế:
Do mỗi ngân hàng đã được phân bổ một hạn mức tín dụng tối đa nên nó có xu
hướng làm giảm cạnh tranh giữa các ngân hàng.
Trong giới hạn tín dụng định sẵn, quy trình phân phối (cho vay) thường bị chi
phối theo những tiêu chuẩn hành chính tùy tiện làm cho những dự án đầu tư mới rất
khó khăn khi muốn tìm nguồn vốn.
Về việc cho vay chỉ nằm trong giới hạn cho phép nên nó tạo điều kiện cho sự ra
đời của các trung gian tài chính mới nằm ngoài hệ thống ngân hàng và nằm ngoài tầm
kiểm soát của NHTW. Đó là quá trình phi trung gian hóa vai trò của ngân hàng. Kết
quả là mặc dù các chỉ tiêu kiểm soát tín dụng dường như được thực hiện nhưng trên
thực tế thì không.
10
NTH: Nhóm 5 – Lớp đêm 4 – K22 GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
3.5 Tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái (TGHĐ) là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại
tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiện quan hệ cung cầu ngoại
hối. TGHĐ là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất
nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. NHTW sử dụng công cụ này
này nhằm mục đích ổn định nền kinh tế.
Khi vận hành công cụ tỷ giá hối đoái, NHTW có thể ấn định tỷ giá cố định, tỷ
giá cố định nhưng di động khi cần thiết, thả nổi có quản lý, thả nổi theo quan hệ cung
cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
Những ưu điểm và hạn chế của công cụ “Tỷ giá hối đoái”
Lợi ích:
NHTW sử dụng chính sách tỷ giá hối đoái nhằm đem lại những tác dụng tức thời
cho nguồn cung cầu trên thị trường ngoại tệ.
Việc phá giá đồng nội tệ sẽ giúp cho hàng hoá nước đó có sức cạnh tranh tốt hơn
hàng của nước ngoài, điều này sẽ hỗ trợ kích thích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu
bằng việc sử dụng hàng nội địa có giá thấp hơn.

Hạn chế:
Chính sách này có thể gây tâm lý bất an cho xã hội khi sở hữu đồng nội tệ bị mất
giá.
TGHĐ có tác dụng hai mặt: Một mặt, nó có thể ảnh hưởng tích cực đến xuất
nhập khẩu, nhưng mặt khác lại ảnh hưởng xấu đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Nhận xét :
Qua phân tích các công cụ điều hành chính sách tiền tệ nêu trên, mỗi công cụ có
những đặc điểm riêng, phù hợp với từng điều kiện kinh tế khác nhau. Tuy nhiên theo
xu hướng phát triển, việc vận dụng các công cụ cũng ngày càng thích ứng hơn để đáp
ứng yêu cầu của cơ chế quản lý, đáp ứng yêu cầu của thị trường. Vì vậy những công
cụ mềm dẻo, có tính linh hoạt cao sẽ là những công cụ sử dụng phổ biến như nghiệp
11
NTH: Nhóm 5 – Lớp đêm 4 – K22 GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
vụ thị trường mở, lãi suất và chính sách tỷ giá hối đoái. Dự trữ bắt buộc cũng là một
trong các công cụ ngày nay đang được áp dụng song cũng khá dè dặt khi có những
thay đổi lớn, còn công cụ hạn mức tín dụng ngày càng tỏ ra không phù hợp.
II. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NGÂN
HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2007 ĐẾN NAY.
1. Giai đoạn 2007-2009:
1.1Sơ lược tình hình kinh tế giai đoạn 2007-2009:
Năm 2007, Việt Nam (VN) chính thức trở thành thành viên của WTO. Tình hình
kinh tế nổi lên với nhiều biến động. Với lượng vốn đầu tư nước ngoài và kiều hối vào
Việt Nam tăng đột biến (tới 20 tỉ USD) buộc NHNN phải tăng cung tiền, đưa vào nền
kinh tế một lượng tiền mặt lớn VNĐ để trung hòa lượng ngoại tệ đổ vào VN. Sự hấp
thụ nguồn vốn này không tốt từ đó tất yếu dẫn tới giá cả leo thang, lạm phát xảy ra.
Tính đến cuối năm 2007 chỉ số giá tiêu dùng CPI tăng 12,63% so với năm 2006.
Trong giai đoạn này nổi bật là năm 2008, tình hình kinh tế có nhiều biến động
lớn. Ba tháng đầu năm chỉ số CPI tăng là 9,1% ,vượt xa chỉ tiêu của Chính phủ đặt ra
cho cả năm 2008 là: GDP tăng từ 6,7 – 7% và giữ CPI thấp hơn mức này. Ba tháng
cuối năm là thời gian khủng hoảng kinh tế bộc lộ rõ và lan rộng. Thị trường chứng

khoán biến động thất thường và đi xuống 30%. Với mục tiêu kiềm chế lạm phát, hỗ trợ
thị trường chứng khoán, kiềm hãm sự tăng trưởng nóng của thị trường Bất động sản.
NHNN đứng trước một bài toán khó trong công cuộc điều hành chính sách tiền tệ. Tất
cả khó khăn trên đặt lên vai của NHNN.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và căn cứ vào tình hình thực tế,
những tháng đầu năm 2008, NHNN đã điều hành CSTT theo hướng thắt chặt để kiềm
chế tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng
nhằm đảm bảo mức tăng tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng không vượt quá
30%.
Với chính sách thắt chặt tiền tệ từ đầu năm 2008, tình hình lạm phát có xu hướng
giảm, chỉ số CPI liên tục giảm từ tháng 6/2008, và âm những tháng cuối năm 2008,
12
NTH: Nhóm 5 – Lớp đêm 4 – K22 GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
nền kinh tế có dấu hiệu suy thoái. Buộc NHNN phải đưa ra các động thái nới lỏng
CSTT nhằm ngăn chặn đà suy giảm kinh tế.
Qua năm 2009 nền kinh tế Việt Nam tiếp tục phải đối mặt với những tác động
tiêu cực của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu. Trước tình hình đó, NHNN đã điều hành
CSTT theo hướng mở rộng nhằm ngăn chặn đà suy thoái của nền kinh tế sau khi bị
thắt chặt trong năm 2008, kiềm chế lạm phát, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế.
1.2Phân tích các công cụ CSTT áp dụng trong giai đoạn 2007-2009:
1.2.1 Lãi suất:
Năm 2007 với mục tiêu là phát triển kinh tế và duy trì mức tăng trưởng kinh tế,
lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu lần lượt được NHNN giữ ở
mức 8,25%/năm - 6,5%/năm - 4,5%/năm (Bảng 01: Diễn biến các mức lãi suất điều
hành của NHNN giai đoạn 2007-2009).
Thời gian
Lãi suất cơ bản
(%/năm)
Lãi suất
tái cấp vốn

(%/năm )
Lãi suất tái
chiết khấu
(%/năm)
2007
8.25
6.5 4.5
01/02/2008
8.75
7.50 6
19/05/2008
12
13 11
11/06/2008
14
15 13
21/10/2008
13
14 12
05/11/2008
12
13 11
21/11/2008
11
12 10
05/12/2008
10
11 9
22/12/2008 8.5 9.5 7.5
01/02/2009 7 8 6

10/04/2009
7
7 5
01/10/2009
7
7 5
01/12/2009
8
8 6
Nguồn:
13
NTH: Nhóm 5 – Lớp đêm 4 – K22 GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
Đầu năm 2008, trong một loạt các biện pháp kiềm chế lạm phát, ngày 30/1/2008,
NHNN đã thông báo điều chỉnh tăng các mức lãi suất cơ bản lên 8.75%, lãi suất tái
cấp vốn lên 7,5% và lãi suất tái chiết khấu lên 6%, áp dụng từ ngày 1/2/2008. Cũng
trong những tháng đầu năm 2008, trước các động thái nhằm siết chặt tiền đồng trong
lưu thông của NHNN, các ngân hàng thương mại phải đối mặt với khó khăn thiếu hụt
nguồn cung tiền đồng. Điều này đã dẫn đến cuộc chạy đua lãi suất vào khoảng giữa
năm 2008 của các NHTM.
Ngày 19/05/2008, NHNN thông báo những điều chỉnh trong chính sách điều hành
lãi suất, theo đó lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam ở mức trần lãi suất là 12%/năm.
Để đảm bảo sự đồng bộ trong điều hành cơ chế lãi suất nhằm mục đích điều tiết tiền tệ
một cách có hiệu quả, Thống đốc NHNN đã ban hành các Quyết định thay đổi cơ chế
điều hành lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, cụ thể lãi suất tái cấp vốn là
13,0%/năm; lãi suất tái chiết khấu là 11,0%/năm. Qua đó, NHNN đã ngăn chặn được
nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán của các NHTM trong
những tháng cuối năm 2008; an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố lòng
tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng, cũng
như khắc phục được tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các NHTM.
Nhằm tiếp tục thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt, kiềm chế lạm phát và ổn định

kinh tế vĩ mô, NHNN tiếp tục gia tăng lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất
tái chiết khấu lần lượt lên 14%/năm, 15%/năm và 13%/năm, duy trì đến đầu tháng
10/2008.
Ngày 20/10/2008, lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam giảm từ mức 14% xuống
còn 13%/năm, lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu cũng giảm xuống còn 14%/năm và
12%/năm. Đây được xem như là động thái nới lỏng dần chính sách tiền tệ của NHNN
sau nhiều tháng thắt chặt để kiềm chế lạm phát.
Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, NHNN tiếp tục nới lỏng tiền tệ bằng cách tiếp
tục giảm dần các lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu và duy trì ở
mức 7%, 7% và 5%/năm trong cả năm 2009.
14
NTH: Nhóm 5 – Lớp đêm 4 – K22 GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
Tuy nhiên cùng với đà tăng trưởng trở lại của kinh tế trong nước cũng như thế
giới càng về những tháng cuối năm, diễn biến của thị trường tài chính tiền tệ càng trở
nên phức tạp, áp lực lạm phát trở lại đối với nền kinh tế ngày càng rõ nét. Những tháng
cuối năm 2009, tốc độ tăng trường tín dụng luôn tăng cao hơn tốc độ huy động tiền
gửi, điều này gây áp lực về lãi suất đối với thị trường. Do đó việc tăng lãi suất cơ bản
và lãi suất tái cấp vốn từ 7%/năm lên 8%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ 5%/năm lên
6%/năm (ngày 1/12/2009), đã tạo ra sự ổn định đưa lãi suất thị trường trở lại theo quy
luật cung cầu, tránh sức ép tiêu cực cho hệ thống tài chính ngân hàng và nền kinh tế.
Nhận xét:
Biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu quả đối với hoạt động kinh doanh của
NHTM và lãi suất thị trường; thể hiện là lãi suất huy động và cho vay của các NHTM
biến động theo cung cầu vốn và tăng giảm theo sự thay đổi của các mức lãi suất điều
hành của NHNN, đã tác động làm thu hẹp hoặc mở rộng tín dụng. Năm 2008 và những
tháng đầu năm 2009 tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng phù hợp với
chủ trương thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng.
Việc điều hành linh hoạt lãi suất, vừa là công cụ điều tiết thị trường, vừa là động
thái phát tín hiệu về chủ trương của chính phủ và giải pháp điều hành chính sách tiền
tệ của Ngân hàng Nhà nước là thắt chặc hay mở rộng tiền tệ, đã và đang trở thành một

chỉ số kinh tế quan trọng trên thị trường tài chính tiền tệ. Kết quả này có ý nghĩa rất
quan trọng thể hiện vai trò và những tác động tích cực của chính sách tiền tệ đối với
việc kiềm chế lạm phát và điều tiết kinh tế vĩ mô.
Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản phù hợp với quy định của Luật Ngân hàng Nhà
nước và Bộ Luật dân sự. Tuy vậy lãi suất cơ bản là công cụ trực tiếp tác động đến lãi
suất kinh doanh của Ngân hàng Thương mại, có hạn chế nhất định khi đưa ra thị
trường các sản phẩm tín dụng có rủi ro cao. Xử lý vấn đề này thì Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước ban hành thông tư số 01/2009/TT-NHNN, Hướng dẫn về lãi suất thỏa
thuận của các Ngân hàng thương mại đối với cho vay phụ vụ đời sống, cho vay thông
qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, đi kèm theo đó là cơ chế thống kê,
theo dõi, thanh tra và giám sát để hạn chế rủi ro.
15
NTH: Nhóm 5 – Lớp đêm 4 – K22 GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
Từ những phân tích và nhận định trên, trong thời gian tới NHNN tiếp tục áp dụng
công cụ lãi suất cơ bản để đạt được các mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, điều hòa cung
cầu vốn trên thị trường. Việc điều tiết lãi suất thị trường theo hướng ổn định, được
thực hiện kết hợp giữa điều tiết khối lượng tiền thông qua các công cụ gián tiếp, điều
hành linh hoạt các mức lãi suất chủ đạo và làm tốt công tác truyền thông. Sự thay đổi
cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tự do hóa phải trên cơ sở đánh giá một cách khoa
học và thực tiễn các điều kiện kinh tế, thị trường tài chính tiền tệ trong và ngoài nước,
cũng như các rủi ro có thể xảy ra và các biện pháp xử lý để nhằm ổn định kinh tế vĩ
mô, hệ thống tài chính.
1.2.2 Nghiệp vụ thị trường mở:
Thời điểm cuối năm 2007 NHNN đã tăng cường hơn khối lượng chào bán trong
từng phiên, đa dạng hóa kỳ hạn nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài, các tổ chức đầu
tư, các tổ chức tín dụng; đồng thời tạo hành lang pháp lý cho quá trình giao dịch thị
trường mở, hạn chế thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra. Với mục tiêu góp phần kiểm
soát lạm phát, ổn định tiền tệ, NHNN liên tục chào bán tín phiếu NHNN để rút tiền từ
lưu thông về. Cụ thể tháng 8/2007 đối với tín phiếu ngân hàng nhà nước đã bổ sung
thêm 3 kỳ hạn dài hơn là 182 ngày(6 tháng), 273 ngày (9 tháng), 364 ngày (12 tháng).

Tháng 11/2007 tiếp tục đa dạng hóa các kỳ hạn tín phiếu (28, 56, 84, 112, 140, 182,
364 ngày). Tuy nhiên phần lớn các giao dịch chủ yếu là các kỳ hạn dưới 6 tháng. Vì
thế cần phải đa dạng hóa các giao dịch khác nhau trong một phiên giao dịch để các
NHTM có điều kiện lựa chọn đấu thầu phù hợp với nhu cầu điều tiết vốn khả dụng của
mình.
Năm 2008 nghiệp vụ thị trường mở dần dần được hoàn thiện NHNN đã ban hành
quyết định 01/2007/QĐ-NHNN ngày 05/01/2007 của Thống đốc NHNN. Và các
phương thức mua bán các giấy tờ có giá như: giao dịch mua bán có kỳ hạn; giao dịch
mua hẳn, giao dịch bán hẳn đều được thực hiện trong một phiên giao dịch.
Trong tháng 02/2008 NHNN đã phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt
buộc. Ba NHTM nhà nước lớn nhất, mỗi ngân hàng phải mua 3.000 tỷ đồng. Các loại
16
NTH: Nhóm 5 – Lớp đêm 4 – K22 GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
tín phiếu trước đây được giao dịch trên thị trường mở với NHNN thì giờ NHNN nói rõ
là không được vay tái cấp vốn.
Nhận xét:
Theo đánh giá của NHNN, nghiệp vụ thị trường mở tiếp tục trở thành kênh chủ
yếu của NHNN bơm tiền ra nền kinh tế và thu tiền về từ lưu thông, góp phần điều hòa
vốn khả dụng của các NHTM với số lượng thành viên tham giao đặt thầu, số phiên và
khối lượng giao dịch đều tăng hơn trước.
1.2.3 Tỷ lệ dự trữ bắt buộc:
Trong năm 2008 ngân hàng nhà nước đã 5 lần điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc để
thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ. Những tháng đầu năm 2008, với mục tiêu thắt
chặt tiền tệ ngân hàng nhà nước đã ban hành quyết định số 187/QĐ-NHNN tăng tỷ lệ
dự trữ bắt buộc.Cụ thể là: đối với tiền VND không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng,
tỷ lệ dự trữ bắt buộc được tăng từ 10% lên 11%, đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng
trở lên, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được tăng từ 4% lên 5%; đối với tiền gửi bằng ngoại tệ
không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 10% lên 11%, đối với tiền gửi có kỳ
hạn trên 12 tháng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng từ 4% lên 5%. Việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đã làm giảm lượng vốn khả dụng của các Ngân hàng thương mại, giảm hệ số mở

rộng tiền gửi cũng như giảm lượng vốn cung ứng trên thị trường liên ngân hàng. Từ
đó, khiến lượng tiền cung ứng ra lưu thông giảm,lãi suất cho vay tăng, giúp hạn chế
hoạt động đầu tư, góp phần kìm chế lạm phát.
Sang những tháng cuối năm 2008, đầu năm 2009 với mục tiêu mở rộng chính
sách tiền tệ, kích thích đầu tư nhằm ngăn chặn đà suy thoái của nền kinh tế. Ngân hàng
nhà nước đã liên tục điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc VNĐ
giảm từ 11% xuống 3% đối với tiền gửi không kỳ hạn và dưới 12 tháng; từ 5% xuống
1% đối với tiền gửi VNĐ có kỳ hạn 12 tháng trở lên,… Tỷ lệ dự trữ bắt buộc giảm đã
làm lượng vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại tăng, hệ số mở rộng tiền gửi
và lượng vốn cung ứng trên thị trường liên ngân hàng cũng tăng, tạo điều kiện cho các
17
NTH: Nhóm 5 – Lớp đêm 4 – K22 GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
NHTM cung ứng lượng lớn tiền ra lưu thông, lãi suất cho vay giảm, kích thích đầu tư,
tạo điều kiện phát triển kinh tế.
Bảng 02: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD Việt Nam từ 2007-2009.
Tỷ lệ dự trữ bắt
buộc (VND)
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
(Ngoại tệ)
Văn bản
10%
1
- 4%
2
10%
1
- 4%
2
1141/QĐ-NHNN 28/5/2007
11%

1
- 5%
2
11%
1
- 5%
2
187/QĐ-NHNN ngày
16/1/2008
10%
1
- 4%
2
9%
1
- 3%
2
2560/QĐ-NHNN ngày
03/11/2008
8%
1
- 2%
2
9%
1
- 3%
2
2811/QĐ-NHNN ngày
20/11/2008
6%

1
- 2%
2
7%
1
- 3%
2
2951/QĐ-NHNN ngày
03/12/2008
5%
1
- 1%
2
3158/QĐ-NHNN ngày
19/12/2008
3%
1
- 1%
2
7%
1
- 3%
2
379/QĐ-NHNN ngày
24/02/2009
(
1
): đối với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 12 tháng.
(
2

): đối với tiền gửi kỳ hạn từ 12 tháng trở lên.
Đối tượng áp dụng: Các NHTM Nhà nước (không bao gồm NHNo & PTNT),
NHTMCP đô thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài
chính, công ty cho thuê tài chính.
Nguồn:
Nhận xét:
Thông qua công cụ dự trữ bắt buộc, gián tiếp NHNN đã tác động đến lượng tiền
cung ứng ra lưu thông. Những tháng đầu năm 2008, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng đã làm
tăng chi phí kinh doanh của các NHTM, giảm quy mô nguồn vốn cho vay của các
ngân hàng, từ đó giảm lượng tiền cung ứng ra lưu thông, góp phần kiềm chế lạm phát.
Những tháng cuối năm 2008 cũng như trong năm 2009, tỷ lệ dự trữ bắt buộc giảm tạo
điều kiện cho các NHTM cung ứng lượng lớn tiền ra lưu thông, kích thích hoạt động
đầu tư, góp phần giúp nền kinh tế thoát khỏi suy thoái.
18
NTH: Nhóm 5 – Lớp đêm 4 – K22 GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
1.2.4 Tỷ giá hối đoái:
Diễn biến tỷ giá ngoại tệ của Việt Nam từ đầu năm 2008 đến nay là hết sức phức
tạp. Trong quý 1/2008, có những lúc tỷ giá USD liên ngân hàng xuống dưới 16.000 và
tỷ giá thị trường tự do thậm chí còn thấp hơn trong ngân hàng. Nhưng chỉ qua đầu quý
2, tỷ giá lại tăng đến chóng mặt, có lúc đã lên tới 19.500.
NHNN đã quyết định nới biên độ dao động từ +1% lên +2% (từ ngày
26/06/2008) đồng thời triển khai hàng loạt các biện pháp khác: kiểm soát chặt các đại
lý thu đổi ngoại tệ, tăng cường truyền thông, công bố dự trữ ngoại hối của Việt Nam
(điều chưa hề có tiền lệ tại Việt Nam),… Nhờ đó, tỷ giá đã dần dịu lại và duy trì ở mức
khoảng 16.500 cho đến hết quý 3 năm 2008.
Giai đoạn cuối năm 2008 suy thoái kinh tế đã tác động mạnh đến nguồn cung
ngoại tệ của Việt Nam; cộng thêm tâm lý găm giữ ngoại tệ của dân cư và các thành
phần kinh tế đã dẫn đến tình trạng khan hiếm ngoại tệ, làm cho tỷ giá ngoại tệ luôn
nóng, phố biến ở mức khoảng 18.000.
Từ tháng 3/2009 mở rộng biên độ tỷ giá mua bán USD của các NHTM lên mức

+-5% nhằm điều hòa ngoại tệ trên thị trường khi thị trường ngoại hối có những diễn
biến không thuận lợi do chịu áp lực từ cuộc khủng hoảng, các nhà đầu tư có tâm lý
găm ngoại tệ khi lo ngại rủi ro biến động tỷ giá cộng với tác động phụ của chính sách
hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VND và điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản đã làm cho các
doanh nghiệp không muốn vay ngoại tệ mà chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ,
dẫn đến nhu cầu mua ngoại tệ tăng mạnh, tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng
thẳng. Mặt khác, việc nới lỏng biên độ VND/USD nhằm tạo thuận lợi hơn cho xuất
khẩu bởi nó gián tiếp hạ giá thành quốc tế, tạo sức cạnh tranh cho các sản phẩm Việt
Nam.
Ngày 26/11/09, NHNN đã điều chỉnh tỷ giá, nâng tỷ giá công bố lên 17.980
VND/USD, tăng 5.4% so với ngày trước đó, thu hẹp biên độ tỷ giá từ +/-5% xuống
còn +/-3% và hỗ trợ bán ngoại tệ cho các tổ chức tín dụng có trạng thái ngoại tệ âm
5% trở xuống nhằm ổn định thị trường ngoại hối.
2. Giai đoạn từ năm 2010 đến nay:
19
NTH: Nhóm 5 – Lớp đêm 4 – K22 GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
2.1 Sơ lược tình hình kinh tế giai đoạn từ năm 2010 đến nay:
Trong năm 2010 CSTT thắt chặt được thực hiện trong những tháng đầu năm,
chuyến sang nới lỏng bắt đầu từ giữa năm cho tới tháng 8, sau đó NHNN bắt đầu thắt
chặt tiền tệ (Nghị quyết 18/NQ-CP 4/2010 xác định cả hai mục tiêu: kiềm chế mức
lạm phát khoảng 7% (giống 2009) và theo đuổi mục tiêu tăng trưởng khoảng
6.5%/năm. Dưới tác động của gói kích cầu có quy mô lớn trong năm 2009, nền kinh tế
đã thoát khỏi suy giảm, tăng trưởng đạt mức khá so với nhiều nước tuy nhiên vẫn còn
rất nhiều hạn chế: Kinh tế tăng trưởng không vững chắc, bội chi ngân sách tăng cao
(6.9% GDP) tiến gần đến mức giới hạn an toàn trong khi chỉ số ICOR tăng lên trên 8
(so với 6.66 năm 2008); tăng trưởng tín dụng cao gây sức ép tăng lãi suất; cán cân
thanh toán thâm hụt, dự trữ ngoại hối giảm và thị trường ngoại hối căng thẳng về cung
cầu ngoại tệ, gây sức ép lên tỷ giá và lạm phát. Như vậy. nhiệm vụ đặt ra cho ổn định
kinh tế vĩ mô, nâng cao hiệu quả đầu từ và ngăn ngừa lạm phát cao quay trở lại.
Đến năm 2011 CSTT thắt chặt được thể hiện nhất quán trong Nghị quyết 11/NQ-

CP/2011 tháng 2/2011 nhằm kiểm soát lạm phát với mục tiêu trung gian gồm dư nợ tín
dụng tăng trưởng dưới 16%, M2 tăng dưới 20%. Với việc đạt được tốc độ tăng trưởng
kinh tế ở mức 6.78%, vượt xa so với kế hoạch là 6.5% có thể khẳng định Việt Nam đã
chính thức vượt qua được suy thoái và lấy lại được tốc độ tăng trưởng cao gần bằng so
với mức tăng trưởng của các năm trước đó. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng này vẫn chủ
yếu dựa vào tăng vốn đầu tư như mọi năm cùng với việc hiệu quả đầu tư thấp và lạm
phát tăng cao ở mức 2 con số (11.75% ). Trước tình hình này Chính phủ đã xác định
nhiệm vụ trọng tâm của CSTT năm 2011 là kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ
mô.
Bước sang năm 2012 Việt Nam chuyển đổi mục tiêu từ kiềm chế lạm phát sang
thúc đẩy phục hồi nền kinh tế.
2.2 Phân tích các công cụ CSTT áp dụng trong giai đoạn từ năm 2010 đến nay:
2.2.1 Lãi suất:
Trong 10 tháng đầu năm 2010, trước bối cảnh kinh tế vĩ mô có nhiều chuyển
biến tích cực, lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn ổn định ở mức 8%/năm, lãi suất tái
chiết khấu là 6%/ năm. Đây được xem là tín hiệu phát đi của NHNN nhằm ổn định
20
NTH: Nhóm 5 – Lớp đêm 4 – K22 GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
chính sách lãi suất. Tuy nhiên, ở hai tháng cuối năm, lạm phát có dấu hiệu gia tăng
cùng áp lực giảm giá VND (do sự thâm hụt NSNN ở mức 6.5% GDP buộc NN phải
vay nợ nhiều cộng với sự thâm hụt cán cân thanh toán), ngày 5/11/2010 NHNN bắt
đầu thực hiện thắt chặt chính sách tiền tệ bằng cách nâng thêm 1% các mức lãi suất
chủ chốt. Cụ thể:
Bảng 03: Diễn biến lãi suất điều hành năm 2010 của NHNN.
Thời gian Lãi suất cơ
bản (%/năm)
Lãi suất tái
cấp vốn
(%/năm)
Lãi suất tái

chiết khấu
(%/năm)
Lãi suất cho
vay qua đêm
(%/năm)
01/01 - 04/11 8 8 6 8
05/11-12/2010 9 9 7 9
Nguồn:
Trước diễn biến một số NHTM khát vốn nhiều tháng đã âm thầm tăng lãi suất
huy động cộng với áp lực lạm phát tăng vào cuối năm thì vào ngày 14/12/2010 Hiệp
hội Ngân hàng đã đưa ra một lãi suất đồng thuận, theo đó lãi suất huy động được nâng
lên ở mức 14% kể cả các chương trình khuyến mãi nhằm chấm dứt hoạt động cạnh
tranh không lành mạnh trên và đã làm tăng lãi suất thị trường (cuối tháng 12, lãi suất
huy động VND bình quân đã tăng lên ở mức 12.44%).
Nhận xét:
Có thể thấy diễn biến lãi suất năm 2010 đi theo kịch bản của năm 2009: Lãi suất
điều hành được ổn định trong thời gian dài và sau đó tăng lên vào cuối năm nhằm
kiềm chế lạm phát. Mặc dù cho phép các NHTM áp dụng lãi suất thỏa thuận nhằm
cạnh tranh nhưng trước việc chạy đua lãi suất thì NHNN đã phải can thiệp bằng biện
pháp hành chính.
Trong năm 2011, NHNN đã 2 lần điều chỉnh tăng lãi suất tái chiết khấu từ mức
7%/năm lên thành 12- 13%/năm, và 6 lần tăng lãi suất tái cấp vốn với mục đích là
kiểm soát lượng tiền cung ứng, qua đó kiềm chế tăng trưởng tín dụng ở mức hợp lý,
tác động điều chỉnh hiệu quả sử dụng vốn, đồng thời cũng là để hạn chế cho vay bất
21
NTH: Nhóm 5 – Lớp đêm 4 – K22 GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
động sản, chứng khoán và hoạt động tín dụng có mức rủi ro cao, góp phần hạ nhiệt lãi
suất trong thời gian tới. Cụ thể:
Bảng 04: Diễn biến lãi suất điều hành năm 2011 của NHNN
Thời gian Lãi suất cơ

bản (%/năm)
Lãi suất tái
cấp vốn
(%/năm)
Lãi suất tái
chiết khấu
(%/năm)
01/01-16/02 9 9 7
17/02-07/03 - 12 -
08/03-30/04 - 13 12
01/05-09/10 - 14 13
10/10-31/12 - 15 -
Nguồn:
Nhận xét:
Với bất ổn trên thế giới, kéo theo sự leo thang của giá vàng, giá nguyên vậy liệu
thế giới và giá tiêu dùng trong nước, cộng với việc siết chặt tín dụng khá đột ngột
trong khi các NHTM đã tăng trưởng nóng trong thời gian vừa qua đã đặt hệ thống
ngân hàng vào cuộc rượt đuổi đầy rủi ro ở phần lớn thời gian trong năm, làm tăng giá
cả tiền tệ và mức độ bất ổn cho hệ thống.
Trong năm 2012:
Trước tình hình có quá nhiều doanh nghiệp hoặc giải thể hoặc đăng kí ngừng
hoạt động do lãi suất cho vay quá cao bắt nguồn từ lãi suất huy động cao NHNN đã
gia tăng việc điều hành lãi suất theo các biện pháp hành chính. Và việc kéo lãi suất
huy động xuống mức 14%, 12%, 11%, ( theo TT số 17/2012/TT-NHNN 25/5/2012),
9% (TT 19/2012/TT-NHNN ngày 8/6/2012) trong thời gian ngắn được xem là thành
công lớn của NHNN trong việc thiết lập lại thị trường tiền tệ. Kết quả là lãi suất huy
động và cho vay đã giảm nhanh đồng thời tạo nên mặt bằng lãi suất danh nghĩa huy
động gần giống nhau giữa các NHTM.
Bảng 05: Diễn biến lãi suất điều hành năm 2012 của NHNN
Thời gian

Lãi suất cơ
bản (%/năm)
Lãi suất tái
cấp vốn
(%/năm)
Lãi suất tái
chiết khấu
(%/năm)
22
NTH: Nhóm 5 – Lớp đêm 4 – K22 GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
01/01-12/03 9 15 13
13/03-10/04 - 14 12
11/04-27/05 - 13 11
28/05-10/06 - 11 10
11/06-30/6 - 10 9
1/7 - - 8
Nguồn:
Nhận xét:
Chính sách lãi suất hiện tại đang đi đúng hướng với kế hoạch tăng trưởng kinh tế
và triển vọng lạm phát giai đoạn 2012-2013 song, những động thái nới lỏng tiền tệ và
hỗ trợ tài khóa có thể vẫn tiếp tục được sử dụng.
Việc hạ lãi suất cho vay lúc này là đúng, cần thiết, phù hợp với xu thế, vì doanh
nghiệp đang cần sự hỗ trợ để tháo gỡ khó khăn.
2.2.2 Nghiệp vụ thị trường mở:
Trong năm 2010 trước tình trạng khó khăn trong huy động dẫn đến cuộc đua lãi
suất thì NHNN đã phải tiến hành bơm tiền cho các NHTM, nhằm đảm bảo tính thanh
khoản cho các NHTM, nhất là các NHTM nhỏ và mới thành lập. Tính đến cuối tháng
6/2010, NHNN đã nắm giữ tới 140.000 tỷ đồng giấy tờ có giá từ nghiệp vụ này và xét
cả năm thì NHNN đã bơm ròng 294.304 tỷ đồng với lãi suất trên thị trường này đối
với kỳ hạn 7 ngày bình quân là 8.35%/năm và 14 ngày là 7.69%/năm.

Vào năm 2011 nghiệp vụ thị trường mở thực hiện nhiệm vụ hút tiền ròng trong
phần lớn thời gian của năm ( tính đến cuối tháng 6/2011, mức cung ròng qua OMO là
không đáng kể: hơn 13.000 tỷ đồng và tính đến cuối năm lượng hút ròng là 111.365 tỷ
đồng.
Lãi suất trên thị trường mở có nhiều biến động: 1/2011 lãi suất mua có kỳ hạn
7 ngày là 10%/năm, từ ngày 22/2 tăng lên 12%, ngày 1/4 là 13%, ngày 4/5 được đẩy
lên ở mức 14%/năm và tiếp tục bị đẩy lên mức 15%/năm vào ngày 17/5. Từ ngày 14/7
lãi suất trên thị trường này giảm nhẹ xuống mức 14%/năm. Điều này là do 20011 là
năm mà nền kinh tế có lạm phát cao., NHNN thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ gây
khó khăn thanh khoản cho các NHTM đặc biệt là các NHTM có quy mô nhỏ, do đó
NHNN đã sử dụng thị trường mở để hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM trên.
Bước sang năm 2012 lãi suất tín phiếu kỳ hạn 28, 91 và 182 ngày lần lượt là
3.8%/năm,5.7%/năm và 7.45%/năm, đây là mức giảm đáng kể so với thời điểm 15/3
23
NTH: Nhóm 5 – Lớp đêm 4 – K22 GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
khi lãi suất tín phiếu các kỳ hạn 28, 91 và 182 ngày lần lượt là 11.5%, 12%, và
12.5%/năm. Với mức lãi suất tín phiếu điều hành theo xu hướng giảm hiện nay sẽ
giảm bớt áp lực trong việc phát hành trái phiếu chính phủ (TPCP) tạo điều kiện giảm
lãi suất TPCP qua đó góp phần định hướng giảm lãi suất chung trên thị trường. Lãi
suất phát hành TPCP từng bước được điều hành theo xu hướng giảm và tiếp tục mang
tính định hướng dẫn dắt thị trường để giảm mặt bằng lãi suất chung của cả thị trường.
tính đến ngày 21/6/2012, lãi suất phát hành TPCP đã giảm khoảng 2.6-3% so với thời
điểm đầu năm 2012 và ở mức 8.5% đối với trái phiếu 364 ngày, 8.89% đối với kỳ hạn
2 năm, 9% đối với kì hạn 3 năm và 9.45% đối với kì hạn 5 năm.
Quy mô cung tiền qua cửa sổ OMO được NHNN tăng ồ ạt trong quý I (lên đến
gần 285.000 tỷ đồng) để đáp ứng nhu cầu thanh toán của hệ thống. Tuy nhiên, nhằm
trung hòa lượng tiền đưa ra thị trường để mua 9 tỷ USD trong 3 tháng liên tiếp kể từ
tháng 3, NHNN liên tiếp hút tiền với tổng lượg hút lên đến trên 187.000 tỷ đồng.
Ngay từ những tháng đầu năm 2012, NHNN đã bơm vốn qua thị trường mở một
cách linh hoạt đồng thời áp dụng tái cấp vốn trong trường hợp cần thiết, tạo điều kiện

giảm lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. Ngoài ra trong tháng 7/2012, NHNN cũng
đã cho phép thị trường tự thiếp lập lãi suất trên thị trường mở thay vì đề ra mức lãi
suât cho các TCTD vay ở thị trường này. Tín hiệu khả quan đã đến khi mà lãi suất từ
mức 10% xuống còn 8.5% trong ngày đấu thầu đầu tiên và giảm xuống ở mức 8%
trong ngày tiếp theo.
2.2.3 Tỷ lệ dự trữ bắt buộc:
Ngày 18/1/2010, NHNN đã điều chỉnh giảm mạnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng
ngoại tệ từ 7% xuống 4%, tạo điều kiện cho các NHTM có thêm khoảng 500 triệu
USD nguồn vốn ngoại tệ, đáp ứng nhu cầu thị trường. Đây cũng là một lý do giải thích
hiện tượng tín dụng ngoại tệ trong năm này lại tăng đột biến so với năm 2009.
2.2.4 Hạn mức tín dụng:
NHNN đã giảm tỷ lệ cho vay trung dài hạn /tổng nguồn vốn ngắn hạn từ 40%
xuống còn 30% (Thông tư 15/2009/TT-NHNN ngày 10/08/2009).
Theo nghị quyết 11/NQ-CP/2011 tháng 2/2011 CSTT quay về thực hiện mục
tiêu thắt chặt với mục tiêu trung gian là dư nợ tín dụng tăng trưởng dưới mức 16%, M2
24
NTH: Nhóm 5 – Lớp đêm 4 – K22 GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
tăng dưới 20%: Điều chỉnh cơ cấu tín dụng, tập trung cho vay nhằm phát triển sản
xuất, giảm tốc độ và tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất trong tổng dư nợ
xuống mức 22% đến 30/6/2011 và 16% đến 31/12/2011.
Có thể nói mức tăng M2 đạt dưới 10% còn chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng của cả
năm 2011 trên 12% thấp hơn nhiều so với mức tăng trung bình của các năm trước đây.
Đây là mức thắt chặt thấp hơn đáng kể so với mức tăng định hướng được nêu trong
Nghị quyết 11 nhằm hướng tới giảm tổng cầu. Tuy vậy, sự quyết liệt trong giảm tổng
cầu từ phía CSTT đã không đạt được kết quả mong muốn: Trong khi tỷ lệ tăng trưởng
đạt 5.89% thì tỷ lệ lạm phát vẫn tiếp tục tăng tới mức kỉ lục gần 19% ( mức tăng cao
so với mục tiêu đã được điều chỉnh là 15% cho năm 2011).
2.2.5 Tỷ giá hối đoái:
Ngày 11/2/2010, NHNN đã ra quyết định điều chỉnh tăng 3.36% tỷ giá bình
quân liên ngân hàng từ 17.961 VND/USD lên 18.544 VND/USD nhằm khuyến khích

các tập đoàn, tổng công ty của nhà nước bán lại ngoại tệ cho các ngân hàng cải thiện
trạng thái ngoại tệ đang căng thẳng từ cuối năm 2009.
Tuy nhiên dưới sự tăng trưởng đột biến của tín dụng ngoại tệ trong khi huy
động vốn bằng ngoại tệ chỉ tăng nhẹ cộng với tác động của lãi suất VND và giá vàng
đã tạo sức ép lên tỷ giá và buộc NHNN tăng tỷ giá bình quân liên NH thêm 2.1% lên
mức 18.932 VND/USD, tạo sức ép lên lạm phát.
Tháng 2/2011 NHNN tiếp tục điều chỉnh tăng tỷ giá chính thức lên 9.3% và thu
hẹp biên độ giữa tỷ giá chính thức với tỷ giá mua bán của các NHTM là +/-1%. Ngày
9/4, NHNN điều chỉnh mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của các tổ chức kinh tế
(trừ TCTD), của cá nhân tại TCTD xuống lần lượt còn 1%/năm và 3%/năm. Đến ngày
1/6 NHNN tiếp tục điều chỉnh giảm mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của tổ chức
kinh tế (trừ TCTD), của cá nhân tại TCTD xuống còn 0.5%/năm và 2%/năm, nhằm tọa
điều kiện cho các NHTM có thêm nguồn vốn ngoại tệ đáp ứng nhu cầu của thị trường,
giảm áp lực lên tỷ giá trên thị trường tự do. Với việc thực hiện những giải pháp trên thì
thị trường ngoại tệ đã được bình ổn nhanh chóng thể hiện ở việc tỷ giá trên thị trường
tự do giảm dần và sát với tỷ giá liên ngân hàng, ổn định và thường xoay quanh ở mức
25

×