Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại công ty tài chính dầu khí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.98 KB, 66 trang )

Mục lục
Trang
Danh mục các chữ viết tắt 4
Danh mục bảng, biểu, sơ đồ 5
Mở đầu 6
CHƯƠNG 1 – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH
TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH
8
1.1. Tổng quan về Công ty tài chính 8
1.1.1. Khái niệm về Công ty tài chính 8
1.1.2. Các hoạt động của Công ty tài chính 9
1.2. Hoạt động bảo lãnh của Công ty tài chính
1.2.1. Các khái niệm liên quan đến hoạt động bảo lãnh
1.2.2. Các loại hình bảo lãnh tại Công ty tài chính
1.2.2.1. Phân loại theo mục đích
1.2.2.2. Phân loại theo điều kiện thanh toán
1.2.3. Đặc điểm của bảo lãnh
1.2.4. Chức năng và vai trò của bảo lãnh
1.2.5. Quy chế bảo lãnh
1.2.6. Quy trình bảo lãnh
1.3. Phát triển hoạt động bảo lãnh
1.3.1. Các chỉ tiêu phản ánh sự phát triển của hoạt động
bảo lãnh
1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của
hoạt động bảo lãnh
CHƯƠNG 2 – THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI
CÔNG TY TÀI CHÍNH DẦU KHÍ
2.1. Giới thiệu về Công ty tài chính Dầu khí
2.1.1. Quá trình phát triển và cơ cấu tổ chức
2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh
2.2. Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Công ty


12
13
15
16
18
20
20
23
25
26
26

28
32
32
32
35
37
Khóa luận tốt nghiệp
tài chính Dầu khí
2.2.1. Hướng dẫn bảo lãnh tại Công ty tài chính Dầu khí
2.2.2. Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Công ty
tài chính Dầu khí
2.3. Đánh giá thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Công ty
tài chính Dầu khí
2.3.1. Kết quả đạt được
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Hạn chế của việc phát triển hoạt động bảo lãnh
2.3.2.2. Nguyên nhân
CHƯƠNG 3 – GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG

BẢO LÃNH TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH DẦU KHÍ
3.1. Định hướng phát triển hoạt động bảo lãnh tại
Công ty tài chính Dầu khí
3.1.1. Định hướng phát triển chung tại Công ty
tài chính Dầu khí
3.1.2. Định hướng phát triển hoạt động bảo lãnh tại
Công ty tài chính Dầu khí
3.2. Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại Công ty
tài chính Dầu khí
3.2.1. Hoàn thiện chính sách về hoạt động bảo lãnh
3.2.2. Điều chỉnh quy trình thực hiện bảo lãnh
3.2.3. Nâng cao kiến thức nghiệp vụ và kinh nghiệm cho
chuyên viên tín dụng
3.2.4. Đẩy mạnh hoạt động marketing
3.3. Kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với Chính Phủ và cơ quan Nhà nước
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
37
43
50
50
51
51
52
57
57
57
59
59
59

60
61
61
62
62
63
Khóa luận tốt nghiệp
3.3.3. Kiến nghị với Công ty tài chính Dầu khí
Kết luận
Danh sách tài liệu tham khảo
63
64
65
Khóa luận tốt nghiệp
Danh mục các chữ viết tắt


Khóa luận tốt nghiệp
STT Từ viết tắt Nghĩa
1 CTTC Công ty tài chính
2 PVFC Công ty tài chính Dầu khí
3 NH Ngân hàng
4 NHNN Ngân hàng Nhà nước
5 TSĐB Tài sản đảm bảo
Danh mục bảng, biểu, sơ đồ
STT Tên bảng, biểu, sơ đồ Trang
1 Sơ đồ 1.1. Mối quan hệ giữa các bên trong nghiệp vụ bảo lãnh 15
2 Bảng 2.1. Bảng các chỉ tiêu tài chính 37
3 Biểu đồ 2.1. Số lượng thư bảo lãnh qua các năm 45
4 Bảng 2.2. Giá trị bảo lãnh theo loại hình doanh nghiệp qua

các năm
46
5 Bảng 2.3. Giá trị từng loại bảo lãnh qua các năm 47
6 Biểu đồ 2.2. Cơ cấu bảo lãnh qua các năm 48
Khóa luận tốt nghiệp
MỞ ĐẦU
Hiện nay, nước ta đang trong quá trình mở cửa và hội nhập vào nền
kinh tế thế giới, các hoạt động kinh tế ngày càng đa dạng, sôi động và đi cùng
với nó là sự mở rộng các giao dịch thương mại cả về hình thức cũng như quy
mô. Tuy nhiên, trong giao dịch, các bên thường gặp khó khăn khi tìm hiểu
thông tin về đối tác như: khả năng thực hiện hợp đồng, uy tín của đối tác nên
rủi ro xảy ra lớn. Vấn đề này sẽ được khắc phục bằng cam kết bảo lãnh của tổ
chức tín dụng. Tổ chức tín dụng với uy tín của mình đứng ra cam kết với bên
thứ ba về việc khách hàng được bảo lãnh sẽ thực hiện đúng nghĩa vụ đã thỏa
thuận. Tổ chức tín dụng có trách nhiệm thanh toán số tiền bảo lãnh cho bên
thứ ba nếu khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết.
Bảo lãnh không chỉ đáp ứng được nhu cầu giảm thiểu rủi ro trong giao
dịch thương mại mà trên thực tế nó còn đem lại nhiều lợi ích cho tổ chức thực
hiện bảo lãnh. Tổ chức tín dụng vừa thu được phí bảo lãnh đồng thời lại
quảng cáo được hình ảnh của mình ra bên ngoài. Hoạt động bảo lãnh tốt và
quy mô lớn sẽ tạo được sự tin tưởng của khách hàng và điều đó sẽ thúc đẩy
các hoạt động khác phát triển. Vì vậy, phát triển quy mô bảo lãnh là mục tiêu
của nhiều tổ chức tín dụng.
Trong quá trình thực tập tại PVFC, nhận thấy hoạt động bảo lãnh chưa
được chú trọng như các hoạt động khác nên đề tài: “Thực trạng và giải pháp
phát triển hoạt động bảo lãnh tại Công ty tài chính Dầu khí” được chọn để
nghiên cứu. Khóa luận được nghiên cứu với mục đích: Tìm hiểu lý luận
chung về phát triển bảo lãnh, căn cứ vào lý luận chung để phân tích đánh giá
thực trạng bảo lãnh của PVFC, từ đó đưa ra các giải pháp để phát triển bảo
lãnh. Song khóa luận muốn nhấn mạnh việc phát triển bảo lãnh không chỉ là

tăng doanh số, tăng số lượng khách hàng mà còn là tăng chất lượng bảo lãnh.
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động bảo lãnh tại PVFC.
Khóa luận tốt nghiệp
Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động bảo lãnh tại PVFC từ năm 2005 đến
năm 2007.
Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận được nghiên cứu theo phương
pháp so sánh và phương pháp tỷ lệ.
Kết cấu của khóa luận: Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận
gồm ba chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về hoạt động bảo lãnh của Công ty tài chính
Chương 2. Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Công ty tài chính Dầu
khí
Chương 3. Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại Công ty tài
chính Dầu khí
Khóa luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 1 – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI
CÔNG TY TÀI CHÍNH
1.1. Tổng quan về Công ty tài chính
1.1.1. Khái niệm
Trong bất kỳ thời đại nào cũng vậy, nền kinh tế muốn phát triển thì
phải chú ý thúc đẩy hoạt động lưu thông vốn. Có nhiều tổ chức tài chính tham
gia vào việc đó như: NH, Quỹ tín dụng, Quỹ tiết kiệm, công ty Chứng khoán
và CTTC.
Ở Việt Nam, khái niệm CTTC được quy định rõ tại điều 2 Nghị định
79/2002/NĐ - CP như sau: “ Công ty Tài chính là loại hình tổ chức tín dụng
phi NH, với chức năng là sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn
khác để cho vay, đầu tư; cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và
thực hiện một số dịch vụ khác theo quy định của pháp luật, nhưng không
được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới 1 năm”.
Sở dĩ CTTC được gọi là “phi Ngân hàng” vì NH và CTTC đều là trung

gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, nhưng
có một số khác biệt, cụ thể:
- Các CTTC không nhận tiền gửi của dân chúng, của các tổ chức
kinh tế xã hội… với thời hạn ngắn hạn và dưới hình thức mở tài khoản. Để
tạo nguồn vốn bổ sung cho hoạt động của mình, các CTTC được vay dưới
hình thức phát hành các phiếu nợ dài hạn.
- Các CTTC không được thực hiện các dịch vụ thanh toán và tiền
mặt, không sử dụng vốn vay của dân để làm phương tiện thanh toán.
- Các CTTC gần như không bị điều hành chặt chẽ bởi Chính phủ.
Chính phủ chỉ điều hành số tiền cực đại mà các CTTC có thể cho các cá nhân
người tiêu dùng vay và kỳ hạn của hợp đồng nợ, nhưng không hạn chế về việc
mở chi nhánh, về những tài sản mà họ nắm giữ và sự thu nhận vốn của các
Khóa luận tốt nghiệp
CTTC. Điều đó giúp cho các CTTC có thể phục vụ tốt các nhu cầu của khách
hàng hơn các NH.
1.1.2. Hoạt động của Công ty tài chính
• Huy động vốn
Vốn là yếu tố sống còn của các doanh nghiệp, gồm hai bộ phận: vốn
chủ sở hữu và nợ vay. Tùy từng loại hình doanh nghiệp mà cơ cấu vốn và
phương thức huy động vốn khác nhau, những doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh thông thường thì vốn chủ sở hữu chiếm phần lớn. Nhưng đối với các tổ
chức trung gian tài chính như CTTC thì vốn chủ sở hữu lại chiếm tỷ lệ ít hơn
nợ vay.
Huy động vốn là hoạt động tạo nguồn vốn cho CTTC, đóng vai trò
quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của công ty. Trong điều kiện
kinh tế thị trường, các phương thức huy động vốn được đa dạng hóa nhằm
khai thác mọi nguồn vốn trong nền kinh tế. Đầu tiên phải kể đến vốn góp ban
đầu. Khi một đơn vị kinh doanh được thành lập, chủ đơn vị đó phải có số vốn
ban đầu nhất định do các cổ đông – chủ sở hữu góp. Tùy tính chất mỗi CTTC
mà nguồn hình thành ban đầu khác nhau, có thể là vốn do các cổ đông đóng

góp, do các bên liên doanh đóng góp hoặc sở hữu tư nhân hoặc vốn của công
ty mẹ…
Tiếp đến là nguồn vốn từ lợi nhuận không chia. Tài trợ bằng lợi nhuận
không chia – nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo nguồn tài chính quan
trọng và khá hấp dẫn vì giảm được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên
ngoài. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, việc tái đầu tư không chỉ phụ
thuộc vào khả năng sinh lợi của bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào
chính sách khuyến khích tái đầu tư của Nhà nước. Đối với công ty cổ phần thì
việc để lại lợi nhuận liên quan đến một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi công ty để
lại một phần lợi nhuận trong năm cho tái đầu tư, tức là không dùng số lợi
nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ đông không được nhận cổ tức nhưng bù
Khóa luận tốt nghiệp
lại, họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng lên của công ty. Điều này một
mặt khuyến khích cổ đông nắm giữ cổ phiếu lâu dài, nhưng mặt khác, dễ làm
giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong ngắn hạn do cổ đông chỉ nhận được một
phần cổ tức nhỏ.
Ngoài ra, để huy động vốn, CTTC có thể vay của tổ chức tín dụng
khác hoặc vay trên thị trường vốn. Cũng giống như doanh nghiệp, CTTC tiến
hành phát hành các giấy nợ (kì phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các
giấy tờ có giá khác). Vay trên thị trường vốn là khoản vay trung và dài hạn,
không có đảm bảo, những CTTC có uy tín hoặc trả lãi cao sẽ vay được nhiều
hơn. Có nhiều vấn đề công ty cần quan tâm trước khi quyết định phát hành
trái phiếu như: chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp
dẫn của trái phiếu. Trên thị trường tài chính ở nhiều nước thường lưu hành
loại trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu có lãi suất thay đổi, trái phiếu có
thể thu hồi.
Một kênh huy động vốn khác là tiền gửi của các tổ chức, cá nhân nhưng
CTTC chỉ được nhận tiền gửi từ 1 năm trở lên.
• Hoạt động tín dụng
- Cho vay: Việc cung cấp tín dụng của CTTC góp phần hỗ trợ sự phát

triển cộng đồng, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và người tiêu dùng với
một mức lãi suất hợp lý, trong đó cho vay là chức năng hàng đầu của CTTC.
CTTC có thể cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn; cho vay theo ủy thác
của Chính Phủ, của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; cho vay tiêu dùng
bằng hình thức cho vay trả góp.
- Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá
khác: Đây được coi là một nghiệp vụ đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa
CTTC và những người ký tên trên thương phiếu. Thương phiếu được hình
thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng hóa và dịch vụ giữa khách hàng
với nhau. Người mua (hoặc người thụ hưởng) có thể giữ thương phiếu đến
Khóa luận tốt nghiệp
hạn để đòi tiền người mua (hoặc người phải trả) hoặc mang đến CTTC để xin
chiết khấu trước hạn. Trong trường hợp người thụ hưởng mang đến xin chiết
khấu thì sau khi kiểm tra độ an toàn của thương phiếu, CTTC có thể đưa tiền
cho người bán và nắm giữ thương phiếu. CTTC có thể tái chiết khấu thương
phiếu tại NHNN để đáp ứng nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp.
- Bảo lãnh: Bảo lãnh của CTTC là cam kết của CTTC dưới hình thức
thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của
mình khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Nói cách
khác bản chất của bảo lãnh chính là một hình thức tài trợ của CTTC cho
khách hàng, qua đó khách hàng có thể có được nguồn tài trợ mới, mua được
hàng hóa hoặc thực hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong
trường hợp CTTC thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thay cho khách hàng, khách
hàng phải nhận nợ vô điều kiện với CTTC đó trên cơ sở số tiền được trả thay
với lãi suất theo quy định của CTTC.
• Mở tài khoản và dịch vụ ngân quỹ
Cũng giống như NH, các CTTC được mở tài khoản tiền gửi tại NH
Nhà nước, được thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
CTTC cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ, đó là quản lý thu,
chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư thặng dư tiền mặt tạm

thời với các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn đến khi khách hàng
cần tiền mặt để thanh toán.
• Các hoạt động khác
Ngoài 3 hoạt động chính nêu trên, CTTC còn có thể thực hiện các hoạt
động khác như:
- Góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng
khác
- Đầu tư cho các dự án theo hợp đồng
- Tham gia thị trường tiền tệ
Khóa luận tốt nghiệp
- Thực hiện các dịch vụ kiều hối, kinh doanh vàng
- Làm đại lý phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các giấy tờ có giá cho các
doanh nghiệp
- Được quyền nhận ủy thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến tài
chính, NH, bảo hiểm và đầu tư, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của các
tổ chức, cá nhân theo hợp đồng
- Cung ứng các dịch vụ về NH, tài chính, tiền tệ, đầu tư cho khách hàng
- Cung ứng các dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ
két, cầm đồ và các dịch vụ khác
1.2. Hoạt động bảo lãnh của Công ty tài chính
Hoạt động ngoại bảng (Off- Balance- Sheet) là những sản phẩm dịch vụ
mà công ty đưa ra nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng và mang lại thu
nhập cho công ty. Song công ty không phải sử dụng nguồn vốn của mình để
thực hiện nghĩa vụ ngay khi ký kết hợp đồng. Đây chính là lợi thế của loại
hình hoạt động này. Chính vì vậy ngày càng có nhiều hoạt động ngoại bảng
xuất hiện trên thế giới, các tổ chức trung gian tài chính ráo riết tìm kiếm lợi
nhuận bằng những hoạt động này, làm cho quy mô hoạt động được mở rộng,
các loại hình sản phẩm dịch vụ cũng đa dạng hơn. Một số hoạt động ngoại
bảng như: kinh doanh trên thị trường ngoại hối, mua bán các món vay, cung
cấp các dịch vụ cho khách hàng, bảo lãnh…

Nghiệp vụ bảo lãnh xuất hiện lần đầu vào giữa những năm 60 của thế
kỷ XX tại thị trường nội địa nước Mỹ. Sau đó, vào đầu những năm 70, bảo
lãnh bắt đầu được sử dụng trong các giao dịch thương mại quốc tế xuất phát
từ nhu cầu của các nước Trung Đông. Khi đó, các nước Trung Đông đã phát
triển nhanh chóng nhờ vào việc khai thác nguồn dầu mỏ dồi dào của mình.
Song song với tốc độ phát triển, nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng; dự án canh
tân công, nông nghiệp; an ninh quốc phòng… cũng tăng lên. Trung Đông ký
kết nhiều hợp đồng với các nước phương Tây để đáp ứng nhu cầu đó, song
Khóa luận tốt nghiệp
một vấn đề đặt ra: giá trị các hợp đồng quá lớn nhưng không có gì đảm bảo
các nước phương Tây sẽ thực hiện đúng theo hợp đồng. Do đó, lần đầu tiên
trong giao dịch thương mại giữa hai nước nghiệp vụ bảo lãnh đã được thực
hiện. Bảo lãnh độc lập do NH của các nước phương Tây phát hành đã thực sự
đáp ứng được yêu cầu về sự thuận lợi và an toàn cho các nước Trung Đông.
Kể từ đó đến nay nghiệp vụ bảo lãnh luôn khẳng định được vai trò quan trọng
của mình trong nền kinh tế.
Ở Việt Nam, hoạt động bảo lãnh mới chỉ xuất hiện vào đầu những năm
90 - khi nền kinh tế nước ta bắt đầu hội nhập với kinh tế thế giới và khu vực
do vậy không tránh khỏi những thiếu sót cần được khắc phục.
1.2.1. Các khái niệm liên quan đến hoạt động bảo lãnh
• Bảo lãnh
Là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên
có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho
khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải
nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.
Từ khái niệm trên ta thấy có 3 bên liên quan trong một nghiệp vụ bảo
lãnh: bên bảo lãnh, bên được bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh. Các bên được hiểu
như sau:
• Bên bảo lãnh (The Guarantor):

Là các tổ chức tín dụng thực hiện việc phát hành bảo lãnh. Đó có thể là
NH hay các tổ chức tín dụng phi NH. Các tổ chức tín dụng này được quy định
rõ trong điều 3 của quy chế bảo lãnh do NHNN ban hành.
Khóa luận tốt nghiệp
• Bên được bảo lãnh (The Principal)
Là khách hàng được tổ chức tín dụng bảo lãnh. Những khách hàng này
được quy định trong điều 4 của quy chế bảo lãnh do NHNN ban hành.
• Bên nhận bảo lãnh (The Beneficiary)
Là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có quyền thụ hưởng các
cam kết bảo lãnh của tổ chức tín dụng.
• Các bên liên quan
Là các bên có liên quan đến nghiệp vụ bảo lãnh của tổ chức tín dụng,
như bên bảo lãnh đối ứng, bên xác nhận bảo lãnh và các bên khác (nếu có).
• Cam kết bảo lãnh
Là cam kết bằng văn bản với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín
dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của mình khi khách
hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Đó có
thể là cam kết đơn phương của tổ chức tín dụng hoặc cũng có thể là thỏa
thuận giữa tổ chức tín dụng và bên được bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh.
• Hợp đồng bảo lãnh
Là văn bản thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng với khách hàng về quyền lợi
và nghĩa vụ các bên trong việc bảo lãnh và hoàn trả.
• Thư bảo lãnh
Là cam kết đơn phương bằng văn bản của tổ chức tín dụng với bên
nhận bảo lãnh về nghĩa vụ tài chính sẽ thực hiện thay cho khách hàng được
bảo lãnh.
Mối quan hệ giữa các bên trong nghiệp vụ bảo lãnh được biểu diễn
bằng sơ đồ sau:

Khóa luận tốt nghiệp

Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa các bên trong nghiệp vụ bảo lãnh
(1) Khách hàng ký các hợp đồng với bên thứ ba về thanh toán, về xây
dựng hay vay vốn… Bên thứ ba yêu cầu phải có bảo lãnh của tổ chức tín
dụng.
(2) Khách hàng làm đơn xin được bảo lãnh gửi tổ chức tín dụng. Tổ
chức tín dụng sẽ thực hiện phân tích khách hàng để tìm hiểu về yêu cầu bảo
lãnh cũng như mức độ rủi ro. Nếu đồng ý, tổ chức tín dụng và khách hàng sẽ
ký hợp đồng bảo lãnh và phát hành thư bảo lãnh.
(3) Tổ chức tín dụng hoặc khách hàng thông báo về thư bảo lãnh cho
bên thứ ba.
(4) Theo như đã thỏa thuận với khách hàng và bên thứ ba, tổ chức tín
dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh với bên thứ ba nếu nghĩa vụ đó xảy ra.
(5) Theo như hợp đồng bảo lãnh đã ký với khách hàng, tổ chức tín dụng
yêu cầu khách hàng phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với tổ chức tín
dụng (trả nợ gốc, lãi hoặc phí).
1.2.2. Các loại hình bảo lãnh tại Công ty tài chính
Tùy vào mục đích nghiên cứu, bảo lãnh được chia theo các tiêu chí
khác nhau. Có thể phân theo phạm vi bảo lãnh (bảo lãnh trong nước và ngoài
nước), theo phương thức phát hành (bảo lãnh trực tiếp và bảo lãnh gián tiếp),
theo mục đích bảo lãnh (gồm 6 loại chính: bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh
Khóa luận tốt nghiệp
Tổ chức tín dụng
(bên bảo lãnh)

Khách hàng
(bên được bảo lãnh)
Người thứ ba
(bên nhận bảo lãnh)
(1)
(2) (3)

(4)(5)
toán, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh bảo đảm chất
lượng sản phẩm, bảo lãnh hoàn thanh toán).
1.2.2.1. Phân loại theo mục đích
Theo điều 5 của Quy chế bảo lãnh do NHNN ban hành thì bảo lãnh
được chia thành 6 loại chính, đó là:
Bảo lãnh vay vốn: Hiện nay, ngoài cách vay vốn từ NH thì các DN, các
tổ chức tín dụng có thể vay trên thị trường vốn, nghĩa là phát hành trái phiếu.
Tuy nhiên, nếu uy tín của công ty trên thị trường chưa cao, việc phát hành sẽ
rất khó khăn do không tạo được niềm tin ở người cho vay. Để khắc phục điều
này công ty sẽ ký hợp đồng bảo lãnh với tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng sẽ
cam kết trả nợ thay cho công ty trong trường hợp công ty không trả được nợ
đầy đủ và đúng hạn. Đây chính là bảo lãnh vay vốn hay còn gọi là bảo lãnh
đảm bảo hoàn trả vốn vay. Nói cách khác, bảo lãnh vay vốn là phương tiện
đảm bảo cho người cho vay.
Bảo lãnh thanh toán: Loại bảo lãnh này xuất phát từ hoạt động tín
dụng thương mại, nó được dùng như một phương tiện đảm bảo thanh toán
trong hợp đồng mua bán, hợp đồng thuê mua tài chính, hợp đồng xây dựng
Để đảm bảo an toàn cho người bán, người mua sẽ ký hợp đồng bảo lãnh với
tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng cam kết thanh toán cho người bán trong
trường hợp người mua không thanh toán đầy đủ và đúng hạn.
Số tiền và thời hạn thanh toán do hai bên đối tác quy định trong hợp
đồng, thường bằng 100% giá trị hợp đồng cơ sở còn thời hạn do hai bên thỏa
thuận.
Tuy về mục đích bảo lãnh thanh toán cũng giống như thư tín dụng
(L/C) là bảo đảm cho nghĩa vụ thanh toán nhưng bảo lãnh thanh toán lại có
bản chất khác biệt. Thư tín dụng thông thường là cam kết thanh toán của
người phát hành cho người thụ hưởng khi người thụ hưởng xuất trình giấy tờ,
chứng từ thương mại phù hợp chứng tỏ đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của
Khóa luận tốt nghiệp

người thụ hưởng. Trong khi đó, bảo lãnh thanh toán là cam kết của người phát
hành bồi hoàn cho người thụ hưởng trong trường hợp người được bảo lãnh
không thực hiện nghĩa vụ được quy định trong hợp đồng. Điều đó có nghĩa là:
thư tín dụng là một phương thức thanh toán còn bảo lãnh thanh toán là một
phương thức bảo đảm thanh toán.
Bảo lãnh dự thầu: Đối với những hợp đồng lớn, đặc biệt là trong lĩnh
vực xây dựng, thiết kế hay cung cấp thiết bị, người chủ công trình thường lựa
chọn đối tác thông qua đấu thầu. Tuy nhiên, tổ chức đấu thầu có thể gặp một
số rủi ro như: trúng thầu nhưng không thực hiện hợp đồng hay kê khai không
đúng yêu cầu gây nhầm lẫn khi bỏ thầu. Để hạn chế rủi ro đó, chủ thầu yêu
cầu các nhà thầu phải ký quỹ hay phải có bảo lãnh dự thầu. Số tiền này sẽ
được dùng để trang trải cho những chi phí phải dùng đến khi biến cố xấu xảy
ra. Do ký quỹ gây nhiều thủ tục phức tạp, đặc biệt làm đọng vốn của bên tham
gia dự thầu nên nhiều chủ thầu yêu cầu thay thế tiền ký quỹ bằng bảo lãnh.
Bảo lãnh dự thầu có giá trị tương đương với số tiền ký quỹ của các nhà thầu
không có bảo lãnh, và thường bằng 1% đến 5% giá trị hợp đồng đấu thầu.
Khi xem xét cấp thư bảo lãnh, tổ chức tín dụng phải đánh giá chính xác
khả năng về tài chính, kỹ thuật và năng lực thực hiện cam kết của nhà thầu
với chủ đầu tư. Do đó, bảo lãnh dự thầu đảm bảo rằng chỉ các nhà thầu có uy
tín, năng lực về chuyên môn và kỹ thuật mới được tham gia dự thầu, tạo điều
kiện thuận lợi cho chủ đầu tư trong việc xem xét đánh giá các đơn vị thầu.
Bảo lãnh dự thầu không có hiệu lực thanh toán khi người được bảo lãnh
(người dự thầu) không trúng thầu. Thư bảo lãnh của người không trúng thầu
sẽ tự động hết hiệu lực với điều kiện người dự thầu không rút lui khỏi cuộc
đấu thầu trước khi đơn thầu hết hiệu lực.
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: Là cam kết của bên bảo lãnh về việc chi
trả tổn thất hộ khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng,
gây tổn thất cho bên thứ ba. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng một mặt bù đắp tổn
Khóa luận tốt nghiệp
thất cho bên thứ ba, một mặt thúc đẩy khách hàng nghiêm chỉnh thực hiện

hợp đồng.
Tùy theo giá trị từng hợp đồng, số tiền bảo lãnh thường chiếm 5%
-15% giá trị của hợp đồng cơ sở. Trong trường hợp đặc biệt số tiền này có thể
chiếm trên 15% nhưng phải được người có thẩm quyền quyết định đầu tư
chấp nhận. Số tiền bảo lãnh có thể giảm dần theo tiến độ thực hiện hợp đồng.
Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm: Là việc bên bảo lãnh đảm
bảo khách hàng thực hiện đúng các thỏa thuận về chất lượng sản phẩm theo
hợp đồng đã ký kết. Trong trường hợp khách hàng bị phạt tiền do không thực
hiện đúng các yêu cầu về chất lượng sản phẩm nhưng không nộp hoặc nộp
không đủ tiền phạt cho bên nhận bảo lãnh thì bên bảo lãnh phải thực hiện
nghĩa vụ đã cam kết.
Bảo lãnh hoàn thanh toán (Bảo lãnh bảo đảm hoàn trả tiền ứng
trước): Nhiều nhà cung cấp yêu cầu khách hàng phải đặt trước một phần tiền
trong giá trị hợp đồng cung cấp. Tiền đặt cọc giúp bên cung cấp có một phần
vốn để sản xuất kinh doanh, và có tác dụng ràng buộc người mua phải mua
hàng đã đặt. Tuy nhiên, đề phòng người cung cấp không cung cấp hàng hóa
đồng thời không trả tiền đặt cọc, bên mua yêu cầu bên cung cấp phải có bảo
lãnh của tổ chức tín dụng về việc sẽ trả tiền ứng trước. Vậy bảo lãnh hoàn
thanh toán là cam kết của bên bảo lãnh về việc sẽ hoàn trả tiền ứng trước cho
bên mua nếu người cung cấp không trả.
1.2.2.2. Phân loại theo điều kiện thanh toán của bảo lãnh
Bảo lãnh theo yêu cầu: Là loại bảo lãnh trong đó điều kiện thanh toán
là: người thụ hưởng chỉ cần xuất trình văn bản yêu cầu thanh toán bảo lãnh
mà không cần xuất trình bất kỳ loại chứng từ nào khác. Đó có thể là tài liệu
chứng minh sự vi phạm của người được bảo lãnh hoặc mức độ thiệt hại của
người thụ hưởng. Bảo lãnh theo yêu cầu đơn thuần chỉ là yêu cầu đơn vị bảo
lãnh thực hiện các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng bảo lãnh.
Khóa luận tốt nghiệp
Bảo lãnh theo yêu cầu thể hiện tính độc lập rất cao, đơn vị phát hành
không có quyền đưa ra bất kỳ lý do nào liên quan đến hợp đồng gốc để trì

hoãn thanh toán. Loại bảo lãnh này tạo thuận lợi cho người thụ hưởng bởi khả
năng đảm bảo chắc chắn và tính thanh khoản cao. Đối với đơn vị phát hành,
việc kiểm tra chứng từ trước thanh toán khá đơn giản, không đòi hỏi những
thủ tục và thao tác nghiệp vụ phức tạp. Tuy nhiên, việc lập yêu cầu thanh toán
hoàn toàn dựa trên những nhận định chủ quan của người thụ hưởng có thể gây
ra bất lợi đối với người được bảo lãnh. Đặc biệt trong trường hợp xuất hiện
khả năng lừa đảo từ phía người thụ hưởng, việc ngăn chặn rủi ro cho người
được bảo lãnh là tương đối khó khăn.
Bảo lãnh kèm chứng từ: Là loại bảo lãnh trong đó văn bản yêu cầu
thanh toán phải có chứng từ của bên thứ ba xác nhận sự vi phạm của người
được bảo lãnh.
Chứng từ có thể được xuất trình theo một trong hai cách sau:
- Người thụ hưởng xuất trình các chứng từ chứng minh sự vi phạm
nghĩa vụ từ phía người được bảo lãnh. Những chứng từ này do bên thứ ba có
tư cách độc lập phát hành.
- Người thụ hưởng xuất trình yêu cầu thanh toán ngoài ra không cần
xuất trình bất cứ loại chứng từ nào khác, tương tự như trong bảo lãnh theo yêu
cầu. Tuy nhiên, quyền thanh toán của người thụ hưởng sẽ bị đình lại nếu
người được bảo lãnh cung cấp các chứng từ của bên thứ ba độc lập xác định
việc không vi phạm hợp đồng.
Bảo lãnh kèm chứng từ bảo vệ quyền lợi cho người được bảo lãnh tốt
hơn so với bảo lãnh theo yêu cầu và như vậy quyền lợi của người thụ hưởng
sẽ bị giảm đi. Đứng về phía tổ chức phát hành thì loại bảo lãnh này đòi hỏi
trách nhiệm kiểm tra chứng từ trước khi thanh toán khá phức tạp bởi tính đa
dạng và không theo tiêu chuẩn thống nhất của các chứng từ.
Khóa luận tốt nghiệp
1.2.3. Đặc điểm của hoạt động bảo lãnh
Bảo lãnh là một hình thức tài trợ của tổ chức phát hành cho khách hàng,
qua đó khách hàng có thể tìm được nguồn tài trợ mới, mua hàng hóa hoặc
thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh.

Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín. Trong hoạt động bảo
lãnh, các tổ chức tín dụng không phải sử dụng nguồn vốn của mình ngay khi
ký kết với khách hàng (trong khi vẫn có nguồn thu là phí bảo lãnh), vì vậy
việc theo dõi và hạch toán được thực hiện ngoài bảng. Tổ chức tín dụng chỉ
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi khách hàng không thực hiện đúng cam kết với
người thụ hưởng. Khi đó, hạch toán ngoài bảng sẽ chuyển vào nội bảng dưới
hình thức một khoản vay bắt buộc của khách hàng tại tổ chức tín dụng. Vì thế,
bảo lãnh chứa đựng rủi ro như một khoản cho vay và đòi hỏi tổ chức tín dụng
phải phân tích khách hàng.
Bảo lãnh tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro. Trách
nhiệm tài chính trước hết thuộc về khách hàng, trách nhiệm của tổ chức tín
dụng là thứ cấp khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba. Do
mối quan hệ ràng buộc giữa tổ chức tín dụng và khách hàng nên khách hàng
phải thực hiện cam kết với bên thứ ba, góp phần giảm thiệt hại tài chính cho
bên thứ ba khi tổn thất xảy ra.
Bảo lãnh có tính độc lập tương đối với hợp đồng chính. Việc thanh toán
bảo lãnh chỉ hoàn toàn căn cứ vào các điều khoản và điều kiện ghi trong cam
kết bảo lãnh mà không căn cứ vào quyền kháng nghị phát sinh trong hợp đồng
chính.
1.2.4. Chức năng và vai trò của bảo lãnh
1.2.4.1. Chức năng của bảo lãnh
Bảo lãnh được dùng như một công cụ đảm bảo: Chức năng quan
trọng nhất của bảo lãnh là tạo sự đảm bảo cho người thụ hưởng. Trong giao
dịch kinh tế, đặc biệt đối tác ở những quốc gia khác nhau thì thông tin về đối
Khóa luận tốt nghiệp
tác không nhiều nên một trong những yêu cầu đầu tiên để hợp đồng có thể ký
kết là sự đảm bảo của tổ chức tín dụng. Bên bảo lãnh cam kết sẽ chi trả bồi
thường cho người thụ hưởng (bên nhận bảo lãnh) khi bên được bảo lãnh vi
phạm những điều khoản đã ký kết. Chính cam kết đó tạo ra một đảm bảo chắc
chắn cho người thụ hưởng và vì thế mà hợp đồng được ký kết một cách suôn

sẻ hơn. Việc thanh toán dựa trên việc người được bảo lãnh có vi phạm hay
không, trên thực tế chỉ có khoảng 1% (theo thống kê của các NH Hoa Kỳ) các
tổ chức tín dụng phải đứng ra thanh toán cho bên được bảo lãnh. Qua đó cho
thấy bảo lãnh là một công cụ bảo đảm chứ không phải là công cụ thanh toán.
Với chức năng này, bảo lãnh thực sự là chất xúc tác giúp các hợp đồng
thương mại, xây dựng, các giao dịch hàng hóa trong và ngoài nước được ký
kết một cách thuận lợi.
Bảo lãnh được dùng như công cụ đôn đốc thực hiện hợp đồng:
Trong suốt thời hạn hiệu lực của bảo lãnh, người thụ hưởng có quyền yêu cầu
thanh toán bảo lãnh nếu người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng (bất kể mức
độ vi phạm như thế nào và thiệt hại của người thụ hưởng là bao nhiêu). Chính
vì thế, tổ chức đứng ra bảo lãnh luôn có biện pháp giám sát việc thực hiện hợp
đồng của người được bảo lãnh, điều đó đôn đốc bên được bảo lãnh làm việc
cẩn thận hơn, hoàn thành hợp đồng một cách tốt nhất.
Trên thực tế, người thụ hưởng mong muốn người được bảo lãnh hoàn
thành hợp đồng chứ không muốn được bồi hoàn tài chính từ bên bảo lãnh, đặc
biệt trong lĩnh vực xây dựng. Vì việc tìm kiếm một công ty khác để thi công
tiếp công trình dở dang là điều không dễ dàng, tốn kém thời gian và chi phí.
Nên bảo lãnh thực hiện hợp đồng có ý nghĩa đôn đốc thực hiện hợp đồng hơn
là bồi hoàn.
Bảo lãnh được dùng như một công cụ tài trợ: Không chỉ là công cụ
bảo đảm cho người thụ hưởng, bảo lãnh còn là công cụ tài trợ thực sự về mặt
tài chính cho bên được bảo lãnh. Chức năng này được thể hiện rõ trong các
Khóa luận tốt nghiệp
hợp đồng xây dựng hay buôn bán lớn phải thực hiện trong thời gian dài.
Người thi công sẽ gặp nhiều khó khăn về tài chính và chịu nhiều rủi ro khi
chủ thầu thanh toán theo hạng mục công trình hoặc hoàn tất công trình. Vì
thế, bên thi công thường thương lượng với chủ công trình về khoản tiền tài trợ
cho mình. Tổ chức tài chính của công ty xây dựng sẽ phát hành bảo lãnh hoàn
thanh toán như một công cụ tài trợ để công ty xây dựng nhận được khoản tiền

ứng trước từ chủ công trình. Việc tổ chức tài chính chấp nhận phát hành bảo
lãnh cho công ty thi công cũng là một hình thức tài trợ.
1.2.4.2. Vai trò của hoạt động bảo lãnh
Với những đặc điểm và chức năng nêu trên ta thấy rằng hoạt động bảo
lãnh có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế cũng
như các hợp đồng thương mại, xây dựng… trong nước. Vai trò nổi bật nhất
của hoạt động bảo lãnh là giảm thiểu rủi ro cho người thụ hưởng vì họ đã có
sự đảm bảo thanh toán của bên bảo lãnh.
Đối với bên được bảo lãnh, do nhờ có hoạt động bảo lãnh mà họ tạo
được sự tin tương hơn ở đối tác, đồng thời được hưởng những thuận lợi về
ngân quỹ như khi được vay thực sự. Trong rất nhiều trường hợp thông qua
hoạt động bảo lãnh, bên được bảo lãnh không phải xuất quỹ, được thu hồi vốn
nhanh chóng, được vay vốn hay kéo dài thời gian thanh toán hàng hóa, dịch
vụ,…
Đối với bên bảo lãnh, hoạt động bảo lãnh không chỉ góp phần làm tăng
doanh thu thông qua việc thu phí mà còn nâng cao uy tín, thương hiệu của tổ
chức trên thị trường tài chính trong và ngoài nước. Khi khách hàng ký quỹ để
được bảo lãnh, nguồn tiền này trở thành nguồn vốn huy động với giá rẻ, tương
đối ổn định trong thời gian có thể dự tính trước được. Bên cạnh đó, họat động
bảo lãnh chịu mức rủi ro thấp hơn nhiều so với hoạt động cho vay, họ không
phải xuất quỹ cho doanh nghiệp đồng thời đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ góp
phần hạn chế rủi ro.
Khóa luận tốt nghiệp
Đối với nền kinh tế, hoạt động bảo lãnh đáp ứng yêu cầu kịp thời về
phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh, làm giảm bớt sự căng thẳng về
nguốn vốn huy động cho các doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát
triển. Bảo lãnh giải quyết được vấn đề không tin tưởng lẫn nhau trong quá
trình đàm phán tiến đến ký kết hợp đồng. Chính vì thế bảo lãnh tạo điều kiện
thuận lợi cho việc ký kết các hợp đồng kinh tế.
1.2.5. Quy chế bảo lãnh

Trong giai đoạn đầu xuất hiện, do chưa có quy định cụ thể của Nhà
nước nên hoạt động bảo lãnh còn thực hiện một cách tùy tiện, thiếu hiệu quả
và gây nhiều tranh cãi. Để đáp ứng yêu cầu của các Doanh nghiệp ngày
21/2/1994 Thống đốc NHNN ban hành quyết định 23/QĐ-NH14 về Quy chế
bảo lãnh và tái bảo lãnh vay vốn nước ngoài nhằm đưa họat động bảo lãnh
vào thống nhất. Tiếp theo, ngày 16/9/1994, NHNN ban hành quyết định
196/QĐ-NH14 về Quy chế nghiệp vụ bảo lãnh của các NH tạo ra hành lang
pháp lý tương đối hoàn chỉnh về hoạt động này. Sau đó đã có một số quyết
định mới để bổ sung, sửa đối các quy chế đã được ban hành. Từ đó đến nay,
hoạt động bảo lãnh bắt đầu phát triển, mang lại lợi nhuận cao cho các tổ chức
tín dụng. Với yêu cầu hội nhập và phát triển, hoạt động bảo lãnh ngày càng
yêu cầu cao hơn trong việc hoàn thiện các quy định cho phù hợp với các
thông lệ quốc tế. Quyết định 283/2000/QĐ-NH14 ra đời ngày 25/8/2000 được
coi là Quy chế bảo lãnh chính tại Việt Nam. Đến năm 2006, NHNN ban hành
quyết định 26/2006/QĐ-NH để bổ sung, sửa đổi một số điều khoản trong
quyết định 283 cho phù hợp hơn.
Một số điều khoản cần chú ý khi nói đến hoạt động bảo lãnh,bao gồm:
• Về số dư bảo lãnh
- Tổng số dư bảo lãnh của tổ chức tín dụng cho một khách hàng không
được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng. Trong trường hợp tổ chức
tín dụng phải trả thay cho khách hàng dẫn đến tổng dư nợ cho vay và dư nợ
Khóa luận tốt nghiệp
do trả thay vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng thì phải ngừng ngay
việc cho vay và bảo lãnh mới đối với khách hàng đó.
- Trường hợp khách hàng yêu cầu bảo lãnh vượt quá 15% vốn tự có của
tổ chức tín dụng, tổ chức này có thể kết hợp với các tổ chức khác để thực hiện
đồng bảo lãnh. Khi phải thanh toán thay cho khách hàng, tổ chức đầu mối sẽ
đứng ra thanh toán còn các tổ chức tham gia đồng bảo lãnh phải có trách
nhiệm hoàn trả cho tổ chức đầu mối đó. Nếu tổ chức đầu mối không thanh
toán hoặc không thanh toán hết, người thụ hưởng có thể yêu cầu bất kỳ tổ

chức nào tham gia đồng bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
• Về bồi hoàn cho tổ chức tín dụng
Sau 15 ngày kể từ ngày tổ chức tín dụng thanh toán hộ khách hàng,
khách hàng không hoàn trả hoặc chưa có văn bản xác nhận nợ, tổ chức tín
dụng phải hạch toán ghi nợ cho khách hàng (ngày ghi nợ là ngày tổ chức
thanh toán hộ khách hàng).
Khi đó, khách hàng phải chịu lãi suất nợ quá hạn do các bên thỏa thuận
nhưng không được vượt quá 1.5 lần lãi suất trong hợp đồng giữa khách hàng
với bên nhận bảo lãnh hoặc lãi suất cho vay ngắn hạn mà tổ chức tín dụng
đang thực hiện, kể từ ngày tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối
với số tiền đã trả thay.
• Về miễn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
- Nếu người thụ hưởng miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho tổ chức tín
dụng, người được bảo lãnh vẫn phải thực hiện nghĩa vụ với bên nhận bảo
lãnh.
- Trong trường hợp đồng bảo lãnh, nếu chỉ một tổ chức được miễn thực
hiện nghĩa vụ, những tổ chức tín dụng khác vẫn phải thực hiện nghĩa vụ của
mình nhưng không phải chịu trách nhiệm về phần nghĩa vụ của tổ chức được
miễn.
Khóa luận tốt nghiệp
1.2.6. Quy trình bảo lãnh
Bước 1: Khách hàng làm đơn xin bảo lãnh gửi tổ chức tín dụng có ghi
rõ số tiền và điều kiện bảo lãnh. Tổ chức tín dụng phân tích khách hàng, hợp
đồng kinh tế giữa khách hàng và bên thứ ba, yêu cầu bảo lãnh của bên thứ ba.
Qua đó, tổ chức tín dụng xác định rủi ro và các biện pháp phòng ngừa.
Bước 2: Ký hợp đồng bảo lãnh với khách hàng
Hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng độc lập với hợp đồng kinh tế, là hợp
đồng giữa khách hàng với tổ chức tín dụng thể hiện ràng buộc tài chính giữa
tổ chức tín dụng với bên thứ ba. Nội dung chính của hợp đồng gồm:
- Số tiền và thời hạn bảo lãnh

- Các điều khoản vi phạm hợp đồng kinh tế dẫn đến nghĩa vụ chi trả
của tổ chức tín dụng
- Các tài liệu cần thiết mà bên thứ ba cần có để chứng minh sự vi phạm
hợp đồng của bên được bảo lãnh
- Hình thức bảo lãnh
- Phí bảo lãnh, số tiền ký quỹ hoặc tài sản đảm bảo cho bảo lãnh mà
khách hàng phải thực hiện đối với tổ chức tín dụng
- Trách nhiệm trả nợ cho tổ chức tín dụng khi tổ chức tín dụng phải
thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba
Bước 3: Hình thức bảo lãnh: có các hình thức bảo lãnh sau:
- Phát hành thư bảo lãnh
- Mở thư tín dụng
- Ký hối phiếu nhận nợ
Lựa chọn hình thức nào là tùy thuộc chủ yếu vào yêu cầu của bên thứ
ba. Để hạn chế rủi ro, bên thứ ba có thể yêu cầu đích danh tổ chức bảo lãnh và
hình thức bảo lãnh. Phát hành thư bảo lãnh có thể áp dụng cho mọi loại bảo
lãnh; bảo lãnh thanh toán được thực hiện dưới hình thức mở thư tín dụng (bảo
lãnh mở L/C trả chậm). Độ an toàn của hình thức này rất cao do tính pháp lý
Khóa luận tốt nghiệp

×