Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

“Nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng cháy và chữa cháy rừng tại huyện sa pa, tỉnh lào cai”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (583.5 KB, 94 trang )

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Cháy rừng là một thảm họa thiên tai gây tổn thất to lớn, nhanh chóng về kinh tế
và môi trường sinh thái. Nó tiêu diệt gần như toàn bộ các giống loài trong vùng bị
cháy, thải vào khí quyển khối lượng lớn khói bụi cùng với những khí gây hiệu ứng nhà
kính như CO, CO
2
, NO v.v… Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng làm gia
tăng quá trình biến đổi khí hậu trái đất và các thiên tai hiện nay. Ảnh hưởng của nó
không những tác động đến một quốc gia mà còn ảnh hưởng đến khu vực và toàn cầu.
Trong vài thập kỷ gần đây, biến đổi khí hậu với những đợt nắng nóng kéo dài, bất
thường đã làm cho cháy rừng trở thành thảm họa ngày càng nghiêm trọng. Mặc dù
công tác phòng cháy, chữa cháy rừng ngày càng hiện đại nhưng cháy rừng vẫn không
ngừng xảy ra, thậm chí ngay cả ở những nước phát triển nhất. Đấu tranh với cháy rừng
đang được xem là một trong những nhiệm vụ cấp bách của thế giới để bảo vệ các
nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường sống.
Ở Việt Nam mỗi năm xảy ra hàng trăm vụ cháy thiêu hủy hàng ngàn ha rừng, gây
thiệt hại lên đến hàng trăm tỷ đồng, ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường sinh thái,…
Theo báo cáo của Cục Kiểm Lâm từ năm 2005 - 2012, ở nước ta xảy ra 6.412 vụ cháy
rừng, gây thiệt hại 42.607 ha, hàng năm Nhà nước phải giành một nguồn kinh phí khá
lớn cho công tác phòng cháy, chữa cháy rừng (PCCCR) (chỉ tính riêng năm 2005, Cà
Mau đã chi 6,5 tỷ đồng, Kiên Giang 2,4 tỷ đồng, Lâm Đồng 6 tỷ đồng, Gia Lai 1,4 tỷ
đồng,…) [1], [6], [7]. Trong những năm gần đây, ở nước ta đã có nhiều vụ cháy rừng
gây nhiều tổn thất lớn về kinh tế, môi trường. Năm 2002, Vụ cháy rừng Tràm ở Vườn
Quốc Gia U Minh Thượng và U Minh Hạ làm thiệt hại trên 5.200 ha rừng, chi phí cho
công tác chữa cháy lên tới 7 - 8 tỷ đồng; năm 2007, tỉnh Yên Bái cháy 643 ha rừng, Lai
Châu cháy 230 ha,… Chỉ tính riêng đến tháng 3 năm 2007, cả nước bị cháy 512 ha,
trong đó có 237 ha rừng trồng phòng hộ. Hiện nay, nước ta có hơn 333.000 ha rừng dễ
cháy và rất dễ cháy thuộc 114 vùng trọng điểm, trong đó có 35.000 ha là rừng trồng [7].
Rừng là một nguồn tài nguyên quan trọng đối với Việt Nam cũng như bất cứ
quốc gia nào trên thế giới, là nguồn sống của người dân và có vai trò quan trọng đối


với nền kinh tế và môi trường sinh thái: giữ đất, giữ nước, chống xói mòn rửa trôi,
Bảo vệ nguồn nước cho sinh hoạt, cho các hoạt động công nghiệp, tạo không khí trong
lành cho sự sống của con người, góp phần hạn chế thiên tai lũ lụt, Rừng cung cấp
1
nguyên, vật liệu cho các ngành: chế biến lâm sản, ngành xây dựng, công nghiệp khai
thác than, hoạt động du lịch, cung cấp các lâm sản quý Đặc biệt rừng có vai trò quan
trọng trong chiến lược thế trận quốc phòng toàn dân góp phần đảm bảo ổn định chính
trị, trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, cháy rừng với quy mô và mức độ thiệt hại nghiêm
trọng đã trở thành mối quan tâm không chỉ của những người làm lâm nghiệp hay
những người sống gần rừng, có cuộc sống gắn bó với rừng mà của cả những nhà khoa
học, những nhà quản lý của nhiều ngành nhiều cấp và toàn xã hội. Nhận thức được vấn
đề đó, trong những thập kỷ qua Đảng và Chính phủ Việt Nam đã rất quan tâm đến
công tác PCCCR từ việc ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đến việc tăng
cường thực hiện các biện pháp cấp bách về công tác PCCCR nhằm hạn chế đến mức
thấp nhất thiệt hại do cháy rừng gây ra.
Huyện Sa Pa có tổng diện tích tự nhiên 68.329 ha, đất quy hoạch cho lâm nghiệp
50.596,79 ha, đất có rừng 46.059,69 ha, đất trống là 4.537,1 ha, trong đó rừng đặc
dụng 20.976 ha, rừng phòng hộ 19.126,47 ha, rừng sản xuất 10.494,11 ha, tỷ lệ che phủ
rừng đến 31/12/2012 đạt 67%. Sa Pa là một trong những huyện có tỷ lệ che phủ rừng
cao nhất tỉnh Lào Cao. Đây cũng là nơi thường xảy ra cháy rừng hơn so với các huyện
khác trong tỉnh, nguyên nhân chủ yếu là do người dân tự ý mang lửa vào rừng, đốt
nương làm rẫy, không tuân thủ quy trình PCCCR. Theo thống kê từ năm 2005 trở lại
đây trên địa bàn huyện Sa Pa xảy ra 25 vụ cháy rừng làm thiệt hại 813,95 ha rừng,
trong đó rừng tự nhiên bị cháy là 782,9 ha, rừng trồng cháy là 31,1 ha; đặc biệt là vụ
cháy rừng năm 2010 và đầu năm 2012 tại Vườn Quốc gia Hoàng liên Sa Pa làm thiệt
hại hơn 700 ha rừng. Có thể thấy số lượng các vụ cháy rừng ở huyện Sa Pa tuy không
lớn nhưng mức độ ảnh hưởng và tác động rất lớn, đặc biệt là trong 3 năm gần đây.
Hiện nay, huyện Sa Pa đã chủ động đẩy mạnh công tác tuyên truyền luật bảo vệ rừng,
tổ chức ký cam kết thực hiện nội quy, quy chế PCCCR nâng cao nhận thức của người
dân và chủ rừng. Tuy nhiên, số vụ cháy rừng vẫn tiếp tục xảy ra và có tính chất gia

tăng trước tình hình biến đổi khí hậu khác thường, nguy cơ xảy ra cháy rừng tại các
khu vực rừng giáp ranh giữa các huyện trong tỉnh và tỉnh Lai Châu là rất cao, hiệu quả
của công tác PCCCR chưa cao, do đó đã gây thiệt hại nhiều về tài nguyên rừng, kinh tế
và môi trường. Xuất phát từ thực tiễn trên, đề tài: “Nghiên cứu và đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng cháy và chữa cháy rừng tại huyện Sa Pa, tỉnh
Lào Cai” đặt ra là rất cần thiết, vừa có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
2
2. Mục tiêu của đề tài
2.1. Mục tiêu chung
Nâng cao hiệu quả công tác PCCCR ở huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, góp phần
quản lý tài nguyên rừng bền vững.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá được thực trạng công tác PCCCR trên địa bàn huyện Sa Pa; phân
tích được ưu, nhược điểm và bài học kinh nghiệm trong PCCCR.
- Đề xuất được một số giải pháp nâng cao hiệu quả PCCCR ở huyện Sa Pa,
tỉnh Lào Cai.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học:
- Làm rõ được đặc điểm tài nguyên rừng và vật liệu cháy tại huyện Sa Pa, tỉnh
Lào Cai.
- Xác định được một số luận cứ khoa học (các yếu tố tự nhiên và kinh tế - xã
hội) cho việc đề xuất các giải pháp PCCCR tại huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đề xuất được các giải pháp PCCCR cho huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, trong đó
xác định được các công việc ưu tiên và các giải pháp làm giảm nguy cơ cháy rừng.
4. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu: Huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai.
- Cháy rừng là một hiện tượng diễn ra phức tạp dưới ảnh hưởng tổng hợp của
nhiều nhân tố. Nghiên cứu PCCCR có nhiều nội dung, đòi hỏi đầu tư công sức và
kinh phí lớn. Trong khuôn khổ luận văn này với những hạn chế nhất định về thời

gian và điều kiện nghiên cứu, đề tài chỉ tiến hành nghiên cứu hiện trạng tài nguyên
rừng và tình hình thực hiện các biện pháp PCCCR trên địa bàn huyện Sa Pa, tỉnh
Lào Cai. Liên quan tới vật liệu cháy, đề tài chỉ giới hạn trong việc xác định khối
lượng thảm khô (vật rơi rụng) và sinh khối cây bụi, thảm tươi dưới tán rừng. Đây là
một trong những cơ sở quan trọng để xây dựng phương án PCCCR phù hợp, sát với
tình hình thực tế ở địa phương.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cháy rừng là một hiện tượng phổ biến, thường xuyên xảy ra trên thế giới nói
chung và ở Việt Nam nói riêng, nhiều khi nó là những thảm họa khôn lường, gây
thiệt hại to lớn về người và tài nguyên rừng cũng như tài sản của người dân sống
gần rừng, Vì vậy, nghiên cứu phòng cháy chữa cháy rừng và giảm thiểu những
thiệt hại do nó gây ra đã được đặt ra như một yêu cầu cấp bách của thực tiễn với
hoạt động nghiên cứu khoa học. Những nghiên cứu về PCCCR đã được tiến hành từ
nghiên cứu định tính đến định lượng, nhằm tìm hiểu bản chất của hiện tượng cháy
rừng và mối quan hệ giữa các yếu tố gây ra cháy với nhau và với môi trường xung
quanh, từ đó đề ra những giải pháp PCCCR phù hợp. Tuy nhiên, với sự phức tạp và
khác nhau về trạng thái rừng cũng như các điều kiện tự nhiên khác mà quy luật ảnh
hưởng của các nhân tố đến cháy rừng và giải pháp PCCCR cũng không hoàn toàn
giống nhau ở các địa phương.
Vì vậy, mỗi khu vực, mỗi quốc gia thường phải tiến hành nghiên cứu trong
điều kiện cụ thể của mình để xây dựng được những giải pháp PCCCR có hiệu quả
nhất. Có thể điểm lại một số công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài
nước như sau.
1.1. Tổng quan nghiên cứu
1.1.1. Trên thế giới
Nghiên cứu về phòng cháy, chữa cháy rừng trên thế giới được bắt đầu vào thế
kỷ 20, thời kỳ đầu chủ yếu tập trung ở các nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ,
Nga, Đức, Thụy Điển, Canada, Pháp, Úc v.v sau đó là ở hầu hết các nước có hoạt

động lâm nghiệp. Có thể chia 5 lĩnh vực chính của nghiên cứu PCCCR: bản chất
của cháy rừng, phương pháp dự báo nguy cơ cháy rừng, các công trình PCCCR,
phương pháp chữa cháy rừng, và phương tiện chữa cháy rừng.
1.1.1.1. Nghiên cứu về bản chất của cháy rừng
Các kết quả nghiên cứu đã khẳng định rằng, cháy rừng là hiện tượng ôxy hóa
các vật liệu hữu cơ do rừng tạo ra ở nhiệt độ cao, nó xảy ra khi có mặt đồng thời của
3 thành tố là nguồn nhiệt, ôxy và vật liệu cháy. Tùy thuộc vào đặc điểm của các yếu
tố nêu trên, cháy rừng có thể được hình thành, phát triển hay bị ngăn chặn hoặc suy
4
yếu đi (Brown A.A,1979; Chandler C., Cheney P., Thomas P., Trabaud L., Wiliams
D., 1983) [22], [23]. Vì vậy, về bản chất những biện pháp phòng cháy rừng chính là
những biện pháp tác động vào 3 yếu tố trên theo chiều hướng ngăn chặn và giảm
thiểu quá trình cháy.
Các nhà khoa học phân biệt 3 loại cháy rừng như sau:
(1) - Cháy dưới tán cây hay cháy mặt đất rừng: là trường hợp chỉ cháy một
phần hay toàn bộ lớp cây bụi, cỏ khô và cành rơi lá rụng trên mặt đất;
(2) - Cháy tán rừng: là trường hợp lửa lan tràn nhanh từ tán cây này sang tán
cây khác;
(3) - Cháy ngầm: là trường hợp xảy ra khi lửa lan tràn chậm, âm ỉ dưới mặt
đất, trong lớp thảm mục dày hoặc than bùn. Trong một đám cháy rừng có thể xảy ra
một hoặc đồng thời hai ba loại cháy trên và tùy theo loại cháy rừng mà người ta đưa
ra những biện pháp phòng và chữa cháy khác nhau (Brown A.A,1979; Gronquist R.,
Juvelius M., Heikkila T., 1993; Mc Arthur A.G., Luke R.H.,1986; Timo V.
Heikkila; Roy Gronquist; Mike Jurvelius, 2007) [22], [25], [28], [31].
Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra 3 yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự
hình thành và phát triển của cháy rừng là thời tiết, loại rừng và hoạt động kinh tế -
xã hội của con người. Thời tiết đặc biệt là lượng mưa (L
m
), nhiệt độ không khí (T
kk

),
độ ẩm không khí (W
kk
) và tốc độ gió (V
g
) ảnh hưởng quyết định đến tốc độ bốc hơi
và độ ẩm vật liệu cháy (W
vlc
) rừng qua đó ảnh hưởng đến khả năng bén lửa và lan
tràn đám cháy. Loại rừng ảnh hưởng tới tính chất vật lý, hóa học, khối lượng và
phân bố của vật liệu cháy qua đó ảnh hưởng đến loại cháy, khả năng hình thành và
tốc độ lan tràn của đám cháy và hoạt động kinh tế - xã hội của con người như: sản
xuất nương rẫy, săn bắn thú rừng và du lịch sinh thái,… đều có ảnh hưởng trực tiếp
đến mật độ và phân bố nguồn lửa khởi đầu của các đám cháy. Phần lớn các biện
pháp phòng cháy rừng đều được xây dựng trên cơ sở phân tích đặc điểm 3 yếu tố
trên trong hoàn cảnh cụ thể ở địa phương (Laslo Pancel Ed, 1993; Richmond R.R,
1976) [27], [30].
1.1.1.2. Nghiên cứu về phương pháp dự báo nguy cơ cháy rừng
Các kết quả nghiên cứu đều khẳng định mối liên hệ chặt giữa điều kiện thời
tiết mà quan trọng nhất là lượng mưa, nhiệt độ không khí, độ ẩm vật liệu cháy và
khả năng xuất hiện cháy rừng. Vì vậy, hầu hết các phương pháp dự báo nguy cơ
5
cháy rừng đều tính đến đặc điểm diễn biến hằng ngày của lượng mưa, nhiệt độ
không khí, độ ẩm không khí (Chandler C, 1983; MiBbach K, 1972) [23], [29]. Ở
một số nước khi dự báo nguy cơ cháy rừng (DBNCCR) ngoài căn cứ vào yếu tố khí
tượng còn căn cứ vào một số yếu tố khác; chẳng hạn, ở Đức và Mỹ sử dụng thêm độ
ẩm của vật liệu cháy (Brown A.A, 1979), ở Pháp tính thêm lượng nước hữu hiệu
trong đất và độ ẩm của vật liệu cháy, ở Trung Quốc có bổ sung thêm cả tốc độ gió
(V
g

), số ngày không mưa và lượng bão hòa (L
bh
),… Cũng có sự khác biệt nhất định
khi sử dụng các yếu tố khí tượng để DBNCCR; chẳng hạn: ở Thụy Điển và một số
nước ở bán đảo Scandinavia sử dụng độ ẩm không khí thấp nhất và nhiệt độ không
khí cao nhất trong ngày; trong khi đó, ở Nga và một số nước khác lại dùng nhiệt độ
không khí và độ ẩm không khí lúc 13 giờ (Brown A.A, 1979) [22]. Năm 1920, hệ
thống cháy rừng ở Mỹ được đưa ra sử dụng và cho đến nay, nó đã được cải tiến
tương đối hoàn chỉnh. Hệ thống này, căn cứ chủ yếu vào mối quan hệ giữa nhiệt độ
không khí, độ ẩm không khí và độ ẩm vật liệu cháy để dự báo khả năng cháy rừng
cho các loại vật liệu cháy khác nhau trên cơ sở phân loại vật liệu cháy ra các nhóm
chính và kết hợp quan sát điều kiện khí tượng, địa hình, độ ẩm vật liệu cháy từ đó
đưa ra mô hình dự báo khả năng xuất hiện cháy rừng và quy mô đám cháy (Brown
A.A, 1979) [22]. Trong những năm gần đây, ở Trung Quốc đã nghiên cứu phương
pháp cho điểm các nhân tố ảnh hưởng đến NCCR, trong đó có cả những yếu tố kinh
tế - xã hội và NCCR được tính theo tổng số điểm của các yếu tố (Asian
Biodiversity, 2001) [20]. Mặc dù, có những nét giống nhau nhưng đến nay, vẫn
không có phương pháp DBNCCR chung cho cả thế giới mà ở mỗi quốc gia, thậm
chí ở mỗi địa phương người ta vẫn nghiên cứu xây dựng phương pháp riêng. Ngoài
ra, vẫn còn rất ít phương pháp DBNCCR có tính đến nhân tố kinh tế - xã hội và loại
rừng. Đây có thể là một trong những nguyên nhân chính làm giảm hiệu quả và hiệu
lực của phòng cháy rừng (PCR) ngay cả ở những nước phát triển.
1.1.1.3. Nghiên cứu về công trình phòng cháy rừng
Kết quả nghiên cứu của thế giới đã khẳng định hiệu quả của các loại băng cản
lửa, các vành đai cây xanh và hệ thống kênh mương ngăn cản cháy rừng (Gronquist
R., Juvelius M., Heikkila T., 1993) [25]. Người ta đã nghiên cứu tập đoàn cây trồng
trên băng cản lửa, trồng rừng hỗn giao và giữ nước ở hồ đập để làm giảm nguy cơ
cháy rừng. Từ những năm đầu thế kỷ XX, nhiều chuyên gia về lửa rừng ở một số
6
nước Châu Âu đã nghiên cứu và bước đầu đưa ra những ý kiến về xây dựng các

băng xanh cản lửa và đai xanh phòng cháy rừng trên đó có trồng các loài cây lá
rộng; ở Nga đã thiết lập những băng cây xanh chịu lửa khép kín với kết cấu nhiều
loài cây, tạo thành nhiều tầng để ngăn lửa cháy từ ngoài vào các khu rừng thông,
bạch đàn, sồi,… Các nước khác tiến hành nghiên cứu vấn đề này, rất sớm và có
nhiều công trình nhất vẫn là Đức, Nga và các nước thuộc Liên Xô cũ, Mỹ, Canada,
Nhật Bản và Trung Quốc,… (Phạm Ngọc Hưng, 2001) [12].
Nhìn chung, các nhà khoa học trên thế giới đã nghiên cứu hiệu quả của nhiều
kiểu công trình phòng cháy rừng. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa đưa ra được
phương pháp xác định tiêu chuẩn kỹ thuật cho các công trình đó. Những thông số
kỹ thuật đưa ra đều mang tính gợi ý và luôn được điều chỉnh theo ý kiến của các
chuyên gia cho phù hợp với đặc điểm của mỗi loại rừng và điều kiện địa lý, vật lý
địa phương.
1.1.1.4. Nghiên cứu về biện pháp phòng và chữa cháy rừng
Việc nghiên cứu các biện pháp phòng cháy, chữa cháy rừng người ta chủ yếu
hướng vào làm suy giảm 3 thành phần của tam giác lửa:
(1)- Giảm nguồn lửa bằng nhiều cách: Tuyên truyền vận động không mang lửa
vào rừng, dập tắt tàn lửa sau khi dùng lửa, thực hiện các biện pháp dọn vật liệu cháy
trên mặt đất thành băng, đào rãnh sâu, hoặc chặt cây theo dải để ngăn cách đám
cháy với phần rừng còn lại;
(2)- Đốt trước một phần vật liệu cháy vào đầu mùa khô khi chúng còn ẩm để
giảm khối lượng vật liệu cháy trong rừng hoặc đốt theo hướng ngược với hướng lan
tràn để cô lập đám cháy. Các công trình nghiên cứu về đốt trước làm giảm vật liệu
cháy đã được nhiều nước áp dụng ngay từ đầu thế kỷ XX. Các nước tiến hành
nghiên cứu vấn đề này, rất sớm và có nhiều công trình nhất là Đức, Mỹ, Nga,
Canada và Trung Quốc,… Đối tượng rừng được đưa vào đốt trước làm giảm vật
liệu có cả rừng tự nhiên và rừng trồng. Thường các chủ rừng đốt theo đám ở những
diện tích rừng có nhiều vật liệu cháy, có nguy cơ cháy cao vào thời gian trước mùa
cháy, hạn chế đến mức thấp nhất khả năng cháy lan đến khu rừng lân cận (Brown
A.A,1979; Gronquist R., Juvelius M., Heikkila T., 1993; Mc Arthur A.G., Luke
R.H.,1986) [22], [25], [28]. Năm 1968, Stoddard - một trong những người đầu tiên

đề xuất ý kiến đốt rừng có kế hoạch nhằm giảm nguy cơ cháy, tăng sản lượng gỗ và
chim thú. Năm 1968, Morris đã cho thấy, việc đốt cỏ gà Cynodon dadyion vào cuối
7
mùa đông, đầu mùa xuân có tác dụng như bón phân làm tăng sản lượng sinh khối.
Từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX đến nay, có một số nước đi đầu trong lĩnh vực lửa
rừng của thế giới như: Australia, Mỹ, Nga, Canada, Indonexia, Thái Lan,… đã có
nhiều nghiên cứu và đưa ra được những quy trình đốt trước cho các khu rừng trồng
thuần loài có nguy cơ cháy cao. Biện pháp đốt trước có điều khiển đã được sử dụng
tương đối phổ biến và được coi là biện pháp quan trọng trong công tác quản lý lửa
rừng ở những nước này. Năm 1993, có một số tác giả người Phần Lan đã đưa ra các
vấn đề về khối lượng, độ ẩm vật liệu cháy, thời tiết, diện tích, địa hình và các vấn đề
về kinh phí, tổ chức lực lượng một cách khá toàn diện trong đốt trước có điều khiển
cho các vùng rừng trọng điểm cháy dựa trên nghiên cứu về đặc điểm nguồn vật liệu
cháy và việc đốt thử trên những diện tích rộng lớn (Gronquist R., Juvelius M.,
Heikkila T., 1993) [25].
(3)- Dùng chất dập cháy để giảm nhiệt lượng của đám cháy hoặc ngăn cách
vật liệu cháy với ôxy không khí (nước, đất, cát, hóa chất dập cháy v.v…).
Nhìn chung, các nghiên cứu về vấn đề này, thường được tiến hành nhiều ở các
nước đang phát triển, như: Đức, Mỹ, Nga, Úc, Canada, Trung Quốc,… Còn các
nước đang phát triển trong đó có Việt Nam chủ yếu là nghiên cứu, áp dụng những
công trình này, để phù hợp với điều kiện mỗi nước. Vì vậy, cần có những nghiên
cứu thực tế áp dụng cho công tác PCCCR ở mỗi quốc gia và mỗi địa phương.
1.1.1.5. Nghiên cứu về phương tiện phòng cháy và chữa cháy rừng
Những năm gần đây các phương tiện phòng cháy, chữa cháy rừng được quan
tâm nghiên cứu, đặc biệt là phương tiện dự báo, phát hiện đám cháy, thông tin về
cháy rừng và phương tiện dập lửa trong các đám cháy.
Các phương pháp dự báo đã được mô hình hóa và xây dựng thành những phần
mềm làm giảm nhẹ công việc và tăng độ chính xác của công tác dự báo. Việc ứng
dụng viễn thám và công nghệ GIS đã cho phép phân tích dược những diễn biến thời
tiết, dự báo nhanh chóng và chính xác khă năng xuất hiện cháy rừng và phát hiện

sớm lửa rừng trên vùng rộng lớn. Những thông tin về khả năng xuất hiện cháy rừng,
nguy cơ cháy rừng và biện pháp phòng cháy, chữa cháy rừng hiện nay được truyền
qua nhiều kênh khác nhau đến các lực lượng phòng cháy, chữa cháy rừng và cộng
đồng dân cư như hệ thống biển báo, thư tín, đài phát thanh, báo địa phương và trung
ương, vô tuyến truyền hình, các mạng máy tính v.v…
8
Những phương tiện dập tắt đám cháy rừng được nghiên cứu theo cả hướng
phát triển phương tiện thủ công như cào, cuốc, dao, câu liêm đến các loại phương
tiện cơ giới như cưa xăng, máy kéo, mát gạt đất, máy đào rãnh, máy phun nước, náy
phun bọt chống cháy, máy thổi gió, máy bay rải chất chống cháy và bom dập lửa v.v…
Mặc dù các phương tiện chữa cháy rừng đã được nghiên cứu và phát triển ở
mức cao, song những thiệt hại do cháy rừng vẫn rất khủng khiếp ngay cả ở những
nước phát triển có hệ thống phòng cháy, chữa cháy rừng hiện đại như Mỹ, Úc, Nga,
… Trong nhiều trường hợp việc khống chế các đám cháy vẫn không hiệu quả. Vì
vậy, đã có những nghiên cứu về đặc điểm xã hội của cháy rừng và những giải pháp
xã hội cho phòng cháy, chữa cháy rừng (Cooper, 1991). Hiện nay, các giải pháp xã
hội phòng cháy, chữa cháy rừng chủ yếu được tập chung vào tuyên truyền, giáo dục
tác hại của cháy rừng, nghĩa vụ của công dân trong việc phòng cháy, chữa cháy
rừng, hình phạt dối với người gây cháy rừng. Trong thực tế còn ít những nghiên cứu
về ảnh hưởng của thể chế và chính sách quản lý sử dụng tài nguyên, chính sách chia
sẻ lợi ích, những quy định của cộng đồng, những phong tục, tập quán, nhận thức và
kiến thức của người dân đến cháy rừng. Cũng còn rất ít nghiên cứu về nguyên nhân
cháy rừng do hậu quả sinh thái của sự phát triển kinh tế xã hội gây nên, về những
giải pháp lồng ghép hoạt động phòng cháy, chữa cháy rừng với hoạt động phát triển
kinh tế và bảo vệ môi trường khác. Đây là căn cứ quan trọng để xây dựng giải pháp
kinh tế xã hội cho phòng cháy, chữa cháy rừng .
1.1.2. Ở Việt Nam
1.1.2.1. Nghiên cứu về phương pháp dự báo nguy cơ cháy rừng
Công tác DBNCCR ở Việt Nam được bắt đầu từ năm 1981. Tuy nhiên, trong
thời gian đầu chủ yếu áp dụng phương pháp dự báo của V.G. Nesterop (Ngô Quang

Đê, Lê Đăng Giảng, Phạm Ngọc Hưng, 1988) [8]. Đây là phương pháp đơn giản,
cấp nguy hiểm của cháy rừng được xác định theo giá trị khí tượng tổng hợp (P)
bằng tổng của tích số giữa nhiệt độ và độ chênh lệch bão hòa của không khí lúc 13
giờ hàng ngày kể từ ngày cuối cùng có lượng mưa dưới 3mm. Theo kết quả nghiên
cứu Phạm Ngọc Hưng (1988) [11] cho thấy, phương pháp của V.G. Nesterop có độ
chính xác cao hơn nếu tính giá trị P kể từ ngày cuối cùng có lượng mưa dưới 5mm.
Ngoài ra, trên cơ sở phát hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa số ngày khô hạn liên tục
(H) (số ngày liên tục có lượng mưa dưới 5mm) với chỉ số P, tác giả Phạm Ngọc
9
Hưng, (2004) [13] đã đưa ra phương pháp DBNCCR theo số ngày khô hạn liên tục.
Ông căn cứ vào số ngày khô hạn liên tục cho các mùa khí hậu trong năm xây dựng
một bảng tra cấp nguy hiểm cháy rừng. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về tính thích hợp
của một số phương pháp DBNCCR ở miền Bắc Việt Nam, tác giả Bế Minh Châu
(2001) [4] đã khẳng định phương pháp DBNCCR theo chỉ tiêu P và H có độ chính
xác thấp ở những vùng có sự luân phiên thường xuyên của các khối không khí biển
và lục địa hoặc vào các thời gian chuyển mùa. Trong những trường hợp này, thì
mức độ lên hệ của chỉ tiêu tổng hợp P và chỉ số ngày khô hạn liên tục H với độ ẩm
vật liệu cháy dưới tán rừng và tần suất xuất hiện của cháy rừng rất thấp. Từ 1989 -
1991, dự án tăng cường khả năng phòng cháy, chữa cháy rừng cho Việt Nam của
UNDP, Cooper. A. N, (1991) [24] đã nghiên cứu, soạn thảo phương pháp DBNCCR
theo chỉ tiêu khí tượng tổng hợp P của V. G. Nesterop nhưng thêm yếu tố gió; chỉ
tiêu P của V. G. Nesterop sẽ được nhân với hệ số là: 1.0, 1.5, 2.0 và 3.0, nếu tốc độ
gió tương ứng là: 0 - 4, 5 - 15, 16 - 25 và trên 25 km/giờ. Tuy nhiên, đến nay chỉ
tiêu vẫn đang ở trong giai đoạn thử nghiệm.
Võ Đình Tiến (1995) [18] đã đưa ra phương pháp DBNCCR cho từng tháng
tại Bình Thuận theo 6 yếu tố: nhiệt độ không khí trung bình, lượng mưa trung bình,
độ ẩm không khí, tốc độ gió, số vụ cháy rừng, lượng người vào rừng (tất cả đều lấy
giá trị trung bình). Tác giả đã xác định được cấp nguy hiểm với cháy rừng cho từng
tháng trong cả mùa cháy. Đây là chỉ tiêu có tính đến cả yếu tố thời tiết và yếu tố
kinh tế - xã hội liên quan đến nguy cơ cháy rừng (NCCR). Tuy nhiên, vì căn cứ vào

số liệu khí tượng trung bình năm nên cấp dự báo của tác giả chỉ thay đổi theo thời
gian của lịch mà không thay đổi theo thời tiết hàng ngày. Vì vậy, nó mang ý nghĩa
của phương pháp xác định mùa cháy nhiều hơn là DBNCCR. Kết quả nghiên cứu
Vương Văn Quỳnh (2005) [17] đưa ra phương pháp dự báo phát hiện sớm cháy
rừng cho khu vực U Minh và Tây Nguyên. Các kết quả cũng chỉ ứng dụng cho các
khu vực nói trên, chưa được ứng dụng rộng rãi cho cả nước.
Nhìn chung, đến nay nghiên cứu về phương pháp DBNCCR ở Việt Nam còn
rất mới mẻ, trong đó vẫn chưa tính đến đặc điểm của trạng thái rừng, kiểu rừng, đặc
điểm tiểu khí hậu và yếu tố kinh tế, xã hội có ảnh hưởng tới cháy rừng cho mỗi địa
phương. Ngoài ra, hiện vẫn chưa áp dụng được một cách hiệu quả kỹ thuật của tin
10
học, viễn thám và các phương tiện truyền thông hiện đại vào dự báo, phát hiện sớm
và thông tin về cháy rừng.
1.1.2.2. Nghiên cứu về các công trình phòng cháy rừng
Hiện còn rất ít những nghiên cứu về hiệu lực của các công trình PCR; mặc dù,
trong các quy phạm PCR có đề cập đến tiêu chuẩn của các công trình phòng cháy
như: đưa ra một số loài cây trồng sử dụng tạo băng xanh cản lửa phòng cháy, song
phần lớn đều được xây dựng trên cơ sở tham khảo tư liệu nước ngoài và kinh
nghiệm, chưa có khảo nghiệm đầy đủ trong điều kiện Việt Nam (Đặng Vũ Cẩn,
Hoàng Kim Ngũ, Phạm Ngọc Hưng, Trần Công Loanh, Trần Văn Mão, 1992) [2].
Các công trình PCR ở nước ta chủ yếu xây dựng đường băng trắng và đường
băng xanh cản lửa hạn chế cháy lan mặt đất, cháy lướt trên ngọn cây rừng. Theo
Phạm Ngọc Hưng (2001) [12], đường băng xanh được trồng cùng với việc trồng
rừng trong năm trên những diện tích rừng có độ dốc 25 độ. Đối với đai cây xanh
xung quanh các điểm dân cư, xung quanh những vùng đất sản xuất nông nghiệp,…
nằm ở trong rừng và ven rừng. Đai rừng phòng cháy có chiều rộng từ 20 - 30m, nếu
xây dựng theo đường phân khoảnh thì chiều rộng đai rừng chỉ cần từ 15 - 20m là
đủ. Thường những đường băng cản lửa lợi dụng những chướng ngại vật tự nhiên
như: sông, suối, hồ nước, đường mòn, đường dông, những công trình nhân tạo
(đường sắt, đường giao thông, đường điện cao thế, đường vận xuất, đường vận

chuyển,…) để làm băng. Trong những trường hợp này, đường băng thường chỉ xây
dựng dọc theo hai bên đường bằng một hoặc hai vành đai cây xanh cản lửa, có bề
rộng từ 6 - 10m. Những loài cây được giới thiệu đưa vào trồng thành băng hoặc đai
xanh cản lửa tại nhiều địa phương ở nước ta như sau:
- Cây Tống quá sủ (Alnus nepalensis): Ưa khí hậu á nhiệt đới, thường trồng ở
vùng núi cao dọc theo biên giới Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Cao Bằng.
- Cây Dứa bà (Agave americara): Chịu nước quanh năm, có khả năng ngăn
cháy lan mặt đất, có thể trồng rộng rãi nhiều nơi, như: Lâm Đồng, Quảng Ninh,…
- Cây Vối thuốc răng cưa (Schima superb Gardn. et Champ): Cây cao, thân
thẳng, mọc nhanh tiên phong trên đồi trọc hoặc tái sinh sau nương rẫy,… phân bố
nhiều ở miền Đông Bắc, cây có tác dụng ngăn lửa tốt cho rừng thông.
- Cây Me rừng (Phyllanthus emblica L): Loại cây bụi, thân chứa nhiều nước,
mọc nhiều ở vùng đồi núi trọc nên có thể chọn làm đai vản lửa ở nơi đồi trọc.
11
- Cây Thẩu tấu (Aporosa microcalyx Hassk): Cây bụi hoặc cây nhỏ, mọc phổ
biến ở đồi trọc, bãi hoang, nới rừng nghèo kiệt, phân bố vừng Bắc Bộ và Trung Bộ.
- Cây Đỏ ngọn (Cratoxylon pruuolium Dyer): Cây cao cỡ 6 - 10m, vỏ khi già
xốp có nhiều vảy, có khả năng phòng cháy, cây thường gặp ở các tỉnh Lạng Sơn, Hà
Bắc, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh
- Cây Dâu da đất (Baceaerea sapida Mull - Arg.): Là loại cây nhỡ, mọc rải rác
trong rừng thứ sinh tập trung ở vùng trung du Bắc Bộ và Trung Bộ.
- Cây Keo tai tượng (Acacia mangium Wild): Là loài cây có thể trồng ở hầu
hết khắp nơi trên nhiều loại đất; cây có tán khép kín, thường trồng ở đồi núi ở các
tỉnh Quảng Ninh, Nghệ An, Hà Tĩnh, Vĩnh Phúc, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Đắc Lắc, Kon Tum, Gia Lai,…
và có khả năng tạo ra đai xanh khép kín nhiều tầng, tẩng trên là Keo tai tượng, tầng
dưới là 1 số ít cây bụi thường xanh, tạo nên môi trường râm ẩm, có khả năng ngăn
ngừa lửa cháy lan từ ngoài vào rừng và ngăn cháy lướt trên ngọn cây rừng.
- Một số loài cây trồng trên kênh mương tạo băng cản lửa ở rừng tràm vùng
đồng bằng sông Cửu Long bao gồm: Dứa (thơm), Dừa nước (Nypa fruticans Wurb),

Chuối, Đào lộn hột (điều) (Anacardium occidentale L).
- Một số loài cây keo thuộc họ đậu mọc nhanh, xanh quanh năm, có tác dụng
cản lửa, tạo môi trường râm, ẩm, cải tạo đất tốt như: Keo dậu (Leacaena
leucocepha De wit.), Keo gai, Keo philippin,… dùng để trồng đai cây xanh ở vùng
đồi núi và vừng rừng Tràm ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ, miền
Bắc rất tốt.
1.1.2.3. Nghiên cứu về giải pháp kỹ thuật lâm sinh phòng cháy rừng
Biện pháp KTLS là một trong những yêu cầu bắt buộc ngay khi tiến hành quy
hoạch, thiết kế trồng rừng và trong suốt quá trình kinh doanh lợi dụng rừng. Một số
nghiên cứu về biện pháp kỹ thuật lâm sinh phòng cháy rừng (KTLSPCR) chủ yếu
hướng vào:
(1) - Trồng rừng hỗn giao nhiều loài để hạn chế thực bì là tầng cây bụi và lớp
thảm tươi sinh trưởng và phát triển. Trước đây, các công trình nghiên cứu chủ yếu
tập trung vào một số ít các loài cây như: Bạch đàn liễu, Mỡ, Bồ đề, Thông nhựa,
Thông đuôi ngựa,… Gần đây, cùng với những tiến bộ về nghiên cứu giống cây
rừng, các tác giả đã tập trung nhiều vào các loài cây mọc nhanh cung cấp nguyên
12
liệu giấy như: Keo lai, Keo tai tượng, Bạch đàn urophylla, Thông caribe,… Các
công trình nghiên cứu quan trọng có thể kể đến là nghiên cứu phương thức trồng
rừng hỗn giao cũng được nhiều tác giả quan tâm nhiều. Cụ thể: Phùng Ngọc Lan
(1991) [14] đã gây trồng rừng trồng hỗn giao Thông đuôi ngựa, Keo lá tràm, Bạch
đàn trắng ở Núi Luốt - Xuân Mai. Nguyễn Hữu Vĩnh, Phạm Thị Huyền, Nguyễn
Quang Việt (1994) [19] đã nghiên cứu cơ sở khoa học của phương thức trồng rừng
hỗn giao giữa loài Bạch đàn trắng và Keo lá tràm, có kết luận: Keo lá tràm và Bạch
đàn trắng là cây ưa sáng ngay từ khi mới trồng, sinh trưởng nhanh; song mức độ ưa
sáng, tốc độ sinh trưởng và các đặc tính sinh vật học khác nhau của chúng không
giống nhau; Keo lá tràm là cây họ đậu, hệ rễ có nhiều nốt sần, do đó bước đầu có
thể khẳng định cây Bạch đàn trắng và cây Keo lá tràm có thể trồng hỗn giao với
nhau; đến năm thứ 3, phương pháp hỗn giao cách tổ trong hang làm cho các chỉ tiêu
sinh trưởng của cây Keo lá tràm và cây Bạch đàn tốt hơn phương pháp hỗn giao với

các loài khác. Theo kết quả nghiên cứu Trần Nguyên Giảng (1985) [10] thí nghiệm
trồng rừng hỗn giao trên đối tượng đất trống, trọc sau khí phá rừng để trồng cây
lương thực, đất phát triển trên nền đá vôi; thực bì gồm cỏ là xen cỏ tranh, lau, găng
gai,… Tác giả đã trồng Keo tai tượng và Keo lá tràm với mật độ 3.300 cây/ha làm
áo che phủ; khi keo được 2 tuổi, tác giả đã đưa vào trồng 10 loài cây lá rộng bản địa
là: Lát hoa, Sấu, Nhội, Giổi, Kim giao, Trám trắng, Gội trắng, Muồng đỏ, Lim xẹt
và giữa hai hàng keo theo phương pháp hỗn giao các loài theo hàng, cự ly 2m x 2m.
Trong thời gian qua, các loài cây bản địa được trồng nhiều và đã được nhiều tác giả
chú ý nghiên cứu đến; cụ thể: Nguyễn Bá Chất (1994) [3] nghiên cứu cơ cấu cây
trồng và xây dựng quy trình hướng dẫn kỹ thuật trồng cho một số loài cây chủ yếu
phục vụ Chương trình 327/CT-CP, sau đó là Dự án trồng mới 5 triệu hecta rừng của
Chính phủ. Trong thời gian qua, nhiều tác giả đã nghiên cứu và thử nghiệm trồng
rừng hỗn giao ở nhiều vùng bằng nhiều loài cây với phương thức trồng khác nhau.
Tuy nhiên, các kết quả vẫn còn tản mạn, chưa được đúc kết, đánh giá và chưa được
áp dụng vào thực tiễn sản xuất; mặt khác, việc tìm chọn cấu trúc, loài cây, phương
thức trồng và thời điểm hỗn giao cũng rất phức tạp. Việc gây tạo rừng hỗn giao là
mong muốn của nhiều nhà lâm học đã và đang nỗ lực nghiên cứu thí nghiệm tạo ra
các lâm phần hài hòa, ổn định, bền vững về sinh thái và có giá trị cao về kinh tế.
13
(2) - Đốt trước vật liệu cháy là biện pháp làm giảm nguồn vật liệu cháy trong
rừng bằng cách chủ động đốt những vật liệu dễ cháy trong các khu rừng có nguy cơ
cháy cao vào thời gian trước mùa khô, nhưng có sự điều khiển của con người để
không gây cháy rừng và hạn chế tới mức thấp nhất những ảnh hưởng bất lợi của lửa
gây ra. Tuy nhiên, biện pháp này cho tới nay vẫn chưa được áp dụng phổ biến rộng
rãi ở nước ta. Việc tiến hành đốt trước khá phức tạp, đòi hỏi phải có nhiều kinh
nghiệm và phải được chuẩn bị chu đáo cả về lực lượng, phương tiện dập lửa (Bế
Minh Châu, Phùng Văn Khoa (2002)) [5].
Trong những năm gần đây, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu thử
nghiệm về biện pháp đốt trước nhằm giảm khối lượng vật liệu cháy. Cụ thể: Phó
Đức Đỉnh (1996) [9] đã thử nghiệm đốt trước vậy liệu cháy dưới tán rừng thông non

2 tuổi tại Đà Lạt (Lâm Đồng). Tác giả cho rằng, ở rừng thông non nhất thiết phải
thu gom vật liệu cháy vào chính giữa các hàng cây hoặc nơi trống để đốt, chọn thời
tiết đốt để ngọn lửa âm ỉ, không cao quá 0,5m có thể gây cháy tán cây rừng. Phan
Thanh Ngọ (1996) [16] đã thử nghiệm đốt trước vật liệu cháy dưới tán rừng thông 8
tuổi ở Đà Lạt (Lâm Đồng); tác giả cho rằng, với rừng thông lớn tuổi không cần phải
thu gom vật liệu cháy trước khi đốt mà chỉ cần tuân thủ những nguyên tắc về chọn
thời điểm và thời tiết thích hợp để đốt và có thể áp dụng đốt trước vật liệu cháy cho
một số loại rừng ở địa phương khác, trong đó có rừng khộp ở Đắc Lắk và Gia Lai.
Tác giả Thái Thành Lượm (1996) [15] đã áp dụng biện pháp đốt trước để xúc tiến
tái sinh rừng tràm bằng cách đốt trực tiếp có kiểm soát đúng thời điểm, chia thành
nhiều lần đốt để giảm bớt độ che phủ, kích thích hạt giống nảy mầm nhanh, hình
thành lớp cây tái sinh dưới tán rừng.
Năm 1986, Bộ Lâm Nghiệp nay là Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn
đã đưa ra quy định tạm thời về điều kiện đốt trước vật liệu cháy có điều khiển dưới
tán rừng thông. Các vấn đề cần chú ý trước khi tiến hành đốt trước vật liệu cháy
rừng được đưa ra dựa trên kết quả nghiên cứu của các chuyên gia về lửa rừng Việt
Nam. Vì vậy, vẫn còn một số hạn chế như một số nghiên cứu nêu trên.
Qua thực tiễn hoạt động và đức kết kinh nghiệm công tác trong lĩnh vực lửa
rừng trong thời gian từ năm 2001 - 2004, Phạm Ngọc Hưng và Bế Minh Châu đã
tiến hành đánh giá kết quả thực hiện các biện pháp phòng cháy chữa cháy rừng
(PCCCR) ở Việt Nam, từ việc tham khảo các công trình nghiên cứu đã được áp
14
dụng trên thế giới và trong nước. Các tác giả đã cho rằng, một trong những biện
pháp PCR quan trọng là biện pháp làm giảm nguồn vật liệu cháy bằng biện pháp đốt
trước có điều khiển. Trên cơ sở đó, tác giả đã tổng hợp các vấn đề liên quan và cách
tiến hành đốt trước vật liệu cháy áp dụng cho Việt Nam một cách khá toàn diện.
Tuy nhiên, do đặc điểm khí hậu của các khu vực rất khác nhau nên việc áp dụng các
kết quả này vẫn còn nhiều hạn chế.
Có thể nói rằng, những công trình nghiên cứu về biện pháp PCR ở nước ta có
thể xem ba công trình thử nghiệm đốt trước nguồn vật liệu cháy dưới tán rừng của

các tác giả cho đối tượng rừng thông ở Tây Nguyên và rừng Tràm ở vùng Tứ giác
Long Xuyên là tiêu biểu nhất. Tuy nhiên, các tác giả vẫn chưa định lượng được hiệu
quả của đốt trước vật liệu cháy để giảm nguy cơ cháy rừng cũng như lượng hóa các
tác động của đốt trước vật liệu cháy đến hoàn cảnh sinh thái và năng suất rừng
trồng. Vì vậy, tính thuyết phục của biện pháp đốt trước vật liệu cháy rừng chưa cao.
1.1.3. Nhận xét về vấn đề nghiên cứu
Tổng quan các vấn đề từ lý luận, thực tiễn và nghiên cứu liên quan đến PCR
ngoài nước và trong nước cho thấy:
- Trên thế giới nghiên cứu về PCCCR được bắt đầu từ thế kỷ XX. Các kết quả
nghiên cứu về bản chất của cháy rừng cũng chỉ ra 3 yếu tố quan trọng nhất ảnh
hưởng đến sự hình thành và phát triển cháy rừng là thời tiết, loại rừng và hoạt động
kinh tế - xã hội của con người đồng thời cũng khẳng định rằng, chưa có một yếu tố
nào khác ngoài ba yếu tố trên. Về các kết quả nghiên cứu về DBNCCR đều khẳng
định mối liên hệ chặt chẽ giữa điều kiện thời tiết với độ ẩm vật liệu cháy có khả
năng xuất hiện cháy rừng. Hầu hết các phương pháp DBNCCR đều tính đến đặc
điểm diễn biến hàng ngày của các yếu tố khí tượng. Đến nay, vẫn chưa có phương
pháp dự báo chung cho cả thế giới. Đối với các công trình PCR hiện nay, vẫn chưa
đưa ra được phương pháp xác định tiêu chuẩn kỹ thuật cho các công trình PCR. Các
biện pháp KTLSPCR trong thời gian qua, cũng chủ yếu làm giảm nguồn vật liệu
cháy bằng các biện pháp trồng rừng hỗn giao và làm giảm nguồn vật liệu cháy
bằng đốt trước.
- Trong nước nghiên cứu về PCR bắt đầu từ năm 1981, có nhiều phương pháp
DBNCCR khác nhau, trong đó vẫn chưa tính đến đặc điểm của các trạng thái rừng,
đặc điểm tiểu khí hậu và những yếu tố kinh tế - xã hội có liên quan ảnh hưởng tới
15
cháy rừng ở địa phương. Đối với các công trình PCR hiện nay, còn rất ít nghiên cứu
về hiệu lực các công trình cũng như phương pháp PCR. Song các công trình này,
được xây dựng dựa vào tài liệu nước ngoài là chính. Đối với các biện pháp
KTLSPCR có nhiều mô hình trồng rừng hỗn giao giữa các loài cây trồng và có thể
xem ba công trình thử nghiệm đốt trước vật liệu cháy rừng là tiêu biểu nhất. Tuy

nhiên, các tác giả vẫn chưa định lượng được hiệu quả cũng như xác định được ảnh
hưởng của đốt trước vật liệu cháy đến hoàn cảnh sinh thái và năng suất rừng, tính
thuyết phục của biện pháp đốt trước vật liệu cháy rừng chưa cao.
Hiện nay, vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào về PCCCR ở huyện Sa Pa,
tỉnh Lào Cai. Trong quá trình xây dựng và thực hiện phương án PCCCR của Sa Pa
người ta chưa bố trí được hợp lý các công trình PCCCR, hoặc tăng cường được
những trang bị cần thiết và tổ chức được lực lượng PCCCR hợp lý ở các khu vực
khác nhau trong địa bàn huyện, Điều này đã ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của các
hoạt động PCCCR của địa phương. Vì vậy, đề tài “Nghiên cứu và đề xuất một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng cháy và chữa cháy rừng tại huyện Sa
Pa, tỉnh Lào Cai” nhằm giảm thiểu nguy cơ cháy rừng ở địa phương và hoàn thiện
giải pháp KTLS PCR là hết sức cần thiết.
1.2. Tổng quan khu vực nghiên cứu
1.2.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu
1.2.1.1. Vị trí địa lý
Sa Pa là huyện vùng núi cao của tỉnh Lào Cai, có diện tích tự nhiên 68.329,09
ha, chiếm 10,70% diện tích tự nhiên của toàn tỉnh, có tọa độ địa lý: Từ 22
0
07’04’’
đến 22
0
28’46’’ vĩ độ Bắc và từ 103
0
43’28’’ đến 104
0
04’15’ kinh độ Đông, có
phạm vi ranh giới như sau:
- Phía Bắc giáp huyện Bát Xát - tỉnh Lào Cai;
- Phía Nam giáp huyện Văn Bàn - tỉnh Lào Cai;
- Phía Đông giáp TP Lào Cai và huyện Bảo Thắng - tỉnh Lào Cai;

- Phía Tây giáp huyện Tân Uyên, Tam Đường - tỉnh Lai Châu.
Huyện Sa Pa có 18 xã, thị trấn, trong đó thị trấn Sa Sa là trung tâm huyện lỵ,
nằm trên trục Quốc lộ 4D từ Lào Cai đi Lai Châu, cách thành phố Lào Cai 35 km về
phía Tây Nam.
1.2.1.2. Địa hình
16
Sa Pa có địa hình phức tạp, hiểm trở chia cắt mạnh thành nhiều hệ dông, khe
lớn nhỏ, độ dốc đất có rừng rất lớn từ 25 - 60
0
. Độ cao trung bình so với mặt nước
biển khoảng 1.600m, ảnh hưởng trực tiếp tới công tác PCCCR, huy động lực chữa
cháy rừng gặp nhiều khó khăn.
1.2.1.3. Khí hậu
Khí hậu Sa Pa mang đặc trưng chung của khí hậu khu vực Hoàng Liên Sơn,
hầu như quanh năm duy trì tình trạng ẩm ướt. Mùa đông thường mưa dai dẳng
nhiều ngày. Nhiệt độ trung bình là 15,2
o
C. Lượng mưa trung bình là 7,5 mm. Trong
năm, có 6 tháng khô hạn từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Độ ẩm trung bình là
87.6 %, độ ẩm năm thấp nhất bình quân là 49,6 %. Số giờ nắng trung bình là 3,8
giờ, số giờ nắng năm cao nhất bình quân là 9,4 giờ. Trong mùa khô hanh thường
kèm theo sương muối, mưa tuyết, mưa đá và gió Ô Quý Hồ là nhân tố chính gây
chết thực bì hàng loạt, khô nỏ rất dễ xảy ra cháy rừng. (Nguồn: Trung tâm khí
tượng thủy văn Sa Pa năm 2012).
1.2.1.4. Thủy văn
Sa Pa có khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, mưa lớn, địa hình phân cắt mạnh tạo ra
mạng lưới sông suối khá dày, bình quân khoảng 0,7-1,0 km/km
2
, có dạng cành cây và
vuông góc, hệ thống sông suối nhỏ và chủ yếu xâm thực sâu. Với hai hệ thống suối

chính là hệ thống suối Đum và hệ thống suối Bo.
- Hệ thống suối Đum có tổng chiều dài khoảng 50 km, bắt nguồn từ vùng núi
cao phía Bắc dãy Hoàng Liên Sơn được phân thành hai nhánh chính và phân bố ở
hầu hết các xã phía Bắc và Đông Bắc gồm các xã Sa Pả, Trung Chải, Tả Phìn với
tổng diện tích lưu vực khoảng 156 km
2
.
- Hệ thống suối Bo có chiều dài khoảng 80 km, bắt nguồn từ các núi cao phía
Đông Nam dãy Hoàng Liên Sơn với diện tích lưu vực khoảng 578 km
2
chạy dọc
theo sườn phía Đông và Đông Nam của dãy Hoàng Liên Sơn gồm các xã San Sả
Hồ, Lao Chải, Tả Van, Bản Hồ, Nậm Cang, Nậm Sài, Thanh Phú, Suối Thầu,
Thanh Kim và Bản Phùng. Các suối hầu hết có lòng hẹp, dốc, thác ghềnh nhiều, lưu
lượng nước thất thường và biến đổi theo mùa. Vào mùa khô các suối thường cạn.
1.2.1.5. Đất đai, thổ nhưỡng
17
Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện Sa Pa là 68.329,09 ha, trong đó có
79,07 % diện tích đã được khai thác đưa vào sử dụng cho các mục đích. Việc
chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất của 3 nhóm chính cụ thể:
+ Đất nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao (chiếm 96,21%diện tích đất đang sử
dụng và 76,09% tổng diện tích tự nhiên).
+ Đất phi nông nghiệp chiếm tỷ lệ còn thấp trong cơ cấu sử dụng đất của
huyện (chiếm 3,84% diện tích đang sử dụng và chiếm 3,0% tổng diện tích tự nhiên).
+ Đất chưa sử dụng được khai thác đưa vào sử dụng tương đối triệt để trong
những năm qua nhưng vẫn còn 14.300,16 ha, chiếm 20,93% tổng diện tích tự nhiên.
Phần diện tích này cần được tiếp tục đưa vào sử dụng trong những năm tới. (Nguồn:
Phòng tài nguyên và Môi trường Sa Pa năm 2012).
1.2.1.6. Tài nguyên rừng
Tính đa dạng sinh học của Sa Pa:

- Về Động vật: Có hệ động vật phong phú và da dạng cao, theo thống kê có
555 loài động vật có xương sống, trong đó có 60 loài động vật quý hiếm ghi trong
sách đỏ Việt Nam (1992); 33 loài trong danh lục đỏ IUCN/2004; 05 loài chim đặc
hữu cho Việt Nam và 25 loài chim khác đặc hữu cho vùng núi cao Hoàng liên sơn.
- Về thực vật: Hệ thực vật Phan Si Păng mang đặc trưng các yếu tố thực vật Á
nhiệt đới và ôn đới của ba luồng thực vật đó là: Vân Nam-Hymalaya; Bắc Việt
Nam-Nam Trung Hoa và luồng thực vật Ấn Độ-Malaysia. Bước đầu đã thống kê
được 2.343 loài thực vật có mạch thuộc 1.020 chi và 256 họ; có số loài thực vật đặc
hữu, quí hiếm có 149 trên tổng số 2.343 loài, chiếm 25% số loài thực vật đặc hữu
của Việt Nam; số loài thực vật quí hiếm trong sách đỏ Việt Nam là 133 loài; sách
đỏ thế giới là 34 loài. Những loài thực vật quí hiếm đặc trưng đó là: Pơ Mu, Bách
xanh, Thông đỏ, Vân sam Hoàng liên, Đinh, Dẻ Tùng, Sến, Vù Hương, Chò Chỉ,
Lát Hoa, Tam Thất, Đẳng Sâm, Đỗ Trọng
- Diện tích đất quy hoạch cho lâm nghiệp 50.596,79 ha, đất có rừng 46.059,69
ha, đất trống là 4.537,1 ha, trong đó rừng đặc dụng 20.976 ha, rừng phòng hộ
19.126,47 ha, rừng sản xuất 10.494,11 ha, tỷ lệ che phủ rừng đến 31/12/2012 đạt
67%: Rừng đặc dụng: Rừng đặc dụng trên địa bàn huyện Sa Pa thuộc Vườn quốc
gia Hoàng Liên quản lý, diện tích rừng tự nhiên 20.400,86 ha; Rừng phòng hộ:
Rừng phòng hộ thuộc Ban quản lý rừng phòng hộ huyện quản lý, diện tích rừng tự
18
nhiên 15.174,4 ha; Rừng sản xuất: 6.875,46 ha. Diện tích rừng sản xuất chủ yếu là
rừng bảo vệ của cộng đồng thôn bản, diện tích rừng tự nhiên 4.218,84 ha;
19
1.2.2. Đặc điểm dân sinh kinh tế - xã hội
1.2.2.1. Tình hình dân số, lao động, thành phần dân tộc và phân bố dân cư
Dân số toàn huyện Sa Pa tính đến năm 2012 là 57.152 người, 10.975 hộ, trong
đó Nữ 28.223 người chiếm 49,38% tổng số dân. Dân số thành thị là 9.715
người/2.715 hộ, chiếm 17%.
Lực lượng lao động toàn huyện 29.875 người, chiếm 52,27 %, trong đó thành
thị là 6.012 người, nông thôn 23.863 người. Nhìn chung lực lượng lao động phân bố

không đều, lực lượng đông nhưng lao động có chuyên môn kỹ thuật thấp, một số
lao động còn thiếu việc làm, năng suất lao động chưa cao, tập quán sản xuất còn lạc
hậu như thả rông gia súc, sản xuất nương rẫy quảng canh, luân canh còn phổ biến
… Đây là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng cháy rừng, phá rừng, lấn
chiếm rừng, làm suy giảm về diện tích, nguồn tài nguyên và suy thoái đất đai.
Sa Pa là một huyện miền núi với 7 dân tộc cùng sinh sống, trong đó đông nhất
là dân tộc Hmông chiếm 54,9%, dân tộc Dao 25,5%, dân tộc Kinh 13,6%, dân tộc
Tày 3%, dân tộc Giáy 1,6%, dân tộc Xá Phó 1,2%, dân tộc Thái 0,2%. Dân cư phân
bố trong 17 xã và một thị trấn gồm 95 thôn, bản với 6247 hộ. Tổng dân số 37272
người, tỷ lệ tăng dân số 2,84%, mật độ dân số 54,9 người/km
2
. Trong mỗi thôn bản
lại có sự phân hóa theo các đặc điểm sinh thái của các tộc người. Nhóm Dao - Giáy
- Xá Phó sống tập trung trên đai cao 700 - 1500 m, nhóm Mông cư trú trên đai cao
700 - 2000 m, còn nhóm Tày - Thái cư trú ở độ cao dưới 700m, sống tập trung ở
một số xã phía nam huyện như Bản Hồ, Nậm Sài, Thanh Phú là vùng thung lũng
bằng phẳng có nhiều ruộng nương dễ sinh sống. Người Kinh cư trú ở phần lớn chỗ
bằng phẳng, dọc theo hai bên đường và nhiều ở thị trấn.
Mật độ dân số phân bố không đều giữa các xã trong huyện, giữa nông thôn với
thành thị. Các dân tộc chung sống đan xen nhau, tuy nhiên mỗi dân tộc có tập quán
sinh hoạt riêng tạo nên sự phong phú đa dạng trong văn hóa Sa Pa, đây chính là
điểm hấp dẫn không nhỏ đối với du khách đặc biệt đối với du khách nước ngoài
trong việc tìm hiểu bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Người dân sống chủ yếu phụ
thuộc vào rừng và những ngành nghề thủ công truyền thống như dệt thổ cẩm, mây
tre đan… Dân tộc Kinh cư trú chủ yếu ở trị trấn Sa Pa, sống bằng nghề nông nghiệp
và dịch vụ thương mại. (Nguồn: Niên giám thống kê huyện Sa Pa năm 2012).
20
1.2.2.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Từ năm 2005 đến nay nền kinh tế của huyện Sa Pa được duy trì, ổn định và
phát triển với nhịp độ tăng trưởng cao, là huyện có tốc độ phát triển kinh tế và thu

ngân sách đứng thứ 2 của tỉnh (sau thành phố Lào Cai). Cơ cấu kinh tế đang chuyển
dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng dịch vụ, công nghiệp và giảm dần tỷ trọng nông,
lâm nghiệp và thuỷ sản. Với lợi thế lớn nhất của huyện Sa Pa là tiềm năng phát triển
kinh tế du lịch, nguồn thu từ dịch vụ du lịch đã đóng góp chủ yếu vào sự tăng
trưởng kinh tế của huyện. Bên cạnh đó tài nguyên đất màu mỡ, thích hợp với phát
triển trồng rau, hoa cao cấp và cây ăn quả.
Tính đến cuối năm 2012 thu nhập bình quân đầu người trên địa bàn huyện Sa
Pa là 6,5 triệu đồng/người/năm. Nguồn thu nhập chính từ sản xuất nông lâm nghiệp,
lâm sản phụ dưới tán rừng là thảo quả và từ các dịch vụ du lịch. Trình độ dân trí của
một bộ phận dân cư còn thấp nhất là ở phụ nữ, trẻ em nhiều người còn chưa biết
tiếng phổ thông, chưa hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
Tập quán canh tác nông lâm nghiệp còn lạc hậu, đồng bào vẫn còn dùng lửa đốt dọn
thực bì để làm nương rẫy gây cháy lan nên ảnh hưởng lớn tới công tác PCCCR.
1.2.2.3. Hệ thống giao thông
Hiện nay huyện Sa Pa có các tuyến đường bộ Quốc lộ 4D chạy từ thành phố
Lào Cai qua huyện Sa Pa đi Lai Châu, đoạn qua địa bàn huyện dài 35 km đã được
đầu tư nâng cấp; Tỉnh lộ 155 đoạn qua địa bàn huyện xuất phát từ ngã ba Ô Quí Hồ
đến Tả Giàng Phình dài 20 km, đi Bản Xèo Bát Xát; Các tuyến huyện lộ: Từ Thị
trấn Sa Pa đi các xã vùng hạ huyện đã được nâng cấp đổ bê tông và giải nhựa. Hệ
thống mạng lưới giao thông từ các xã đi các thôn bản đang được sửa sang và mở
theo chương trình xây dựng nông thôn mới. Nhìn chung, hệ thống giao thông trên
địa bàn huyện được phân bố tương đối hợp lý, các xã đều có đường ô tô đến trung
tâm xã. Tuy nhiên một số xã, thôn bản đi lại khó khăn nhất là vào những ngày mưa.
1.2.2.4. Y tế
Trên địa bàn huyện có 01 Bệnh viện (105 giường bệnh); 05 Phòng khám đa
khoa (50 giường bệnh); 18/18 xã thị trấn đều có trạm Y tế xã (90 giường bệnh).
Hàng năm huyện đều làm tốt công tác chăm sóc sức khỏa cho nhân dân, công tác y
tế dự phòng và phòng chống các tệ nạn xã hội nên không có dịch bệnh xảy ra diện
rộng trên địa bàn. Có 5,6 % xã đạt chuẩn Quốc gia về y tế.
21

1.2.2.5. Giáo dục và đào tạo
Huyện có 65 trường học các cấp, trong đó: Mầm non, mẫu giáo: 20 trường,
190 lớp học, với 4034 học sinh và 312 giáo viên; 22 trường tiểu học, 19 trường
trung học cơ sở, 4 trường trung học phổ thông; trong đó, đạt chuẩn: Mầm non 02
trường, tiểu học 10 trường, trung học cơ sở 6 trường. Nhìn chung, hệ thống các cấp
trường học khá hoàn chỉnh. Tuy nhiên, cơ sở vật chất của ngành giáo dục toàn
huyện vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, trang thiết bị cung cấp cho các trường còn
thiếu và lạc hậu; đội ngũ giáo viên giỏi, có chuyên môn cao, có tâm huyết với nghề
còn ít do đó chất lượng đào tạo chưa cao. (Nguồn: Niên giám thống kê năm 2012)
1.2.3. Nhận xét và đánh giá khu vực nghiên cứu
- Sa Pa có địa hình núi cao, dốc lớn, bị chia cắt mạnh, các khu vực có rừng lại
ở xa khu dân cư nên việc đi lại rất khó khăn dẫn đến việc phát hiện ra cháy rừng
cũng như việc tuần tra kiểm soát, tiếp cận đám cháy, huy động lực lượng, phương
tiện và chỉ huy chữa cháy gặp nhiều khó khăn. Thời tiết ngày càng diễn biến phức
tạp khô hanh, nắng nóng kéo dài kèm theo sương muối, mưa đá, mưa tuyết nhiều
làm chết hàng loạt thực bì dẫn đến làm tăng khối lượng vật liệu cháy trong rừng do
đó nguy cơ cháy rừng là rất lớn. Vào mùa khô hanh gió Tây Nam, còn gọi là gió Ô
Quý Hồ, thổi mạnh ảnh hưởng rất lớn đến công tác PCCCR của các xã vùng trọng
điểm cháy rừng khu vực thượng huyện.
- Diện tích đất có rừng trên địa bàn lớn chiếm 67,1 % diện tích tự nhiên, các
trạng thái rừng giàu IIIa1, IIIa2, IIIa3 phân bố ở các khu vực xa khu dân cư, giao
thông đi lại tới các vùng rừng này rất khó khăn, dốc, nhiều thác gềnh rất khó kiểm
soát được các hoạt động du lịch, đốt lửa sưởi ấm, đốt than, đun nấu trong rừng
Mặc dù một số diện tích đã được giao khoán bảo vệ rừng cho các hộ gia đình nhưng
hiệu quả còn hạn chế (việc vệ sinh rừng làm giảm lượng vật liệu cháy, làm đường băng
cản lửa trên diện tích rừng giao khoán bảo vệ chưa được thực hiện đầy đủ, đồng bộ vào
mùa khô hanh) do đó tiềm ẩn nguy cơ cháy rừng cao.
- Dân số trên địa bàn huyện Sa Pa chủ yếu là dân tộc thiểu số, sống phụ thuộc
chủ yếu vào sản xuất nông lâm nghiệp. Tập quán canh tác nương rẫy còn lạc hậu
chủ yếu là phát, đốt nương rẫy không có kiểm soát nên ảnh hưởng lớn đến công tác

PCCCR.
22
- Hàng năm vào thời điểm sau tết Nguyên đán đồng bào dân tộc ở các xã đốt
nương làm rẫy. Trong khi thời điểm này thời tiết nắng nóng, khô hanh kéo dài, gió
to nguy cơ xảy ra cháy rừng rất cao.
- Trên địa bàn toàn huyện Sa Pa nhìn chung tình hình kinh tế - xã hội đã có
bước phát triển, trường học, trạm xá, đường giao thông, thuỷ lợi, cấp nước sinh hoạt
đã được đầu tư xây dựng, tu sửa. Tình hình sản xuất nông lâm nghiệp các chỉ tiêu
đều tăng vượt kế hoạch, tỷ lệ hộ nghèo giảm, tỷ lệ người lao động có việc làm tăng,
thu nhập của người dân tăng, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi.
- Tình hình kinh tế xã hội phát triển làm cho áp lực đối với rừng giảm. Tuy
nhiên, đặc thù của Sa Pa chủ yếu dân tộc thiểu số, giao thông đi lại tới các thôn, bản
còn khó khăn, trình độ dân trí của một bộ phận dân cư còn hạn chế. Tập quán canh
tác nông lâm nghiệp còn lạc hậu vẫn phổ biến đốt phát dọn thực bì để làm nương
rẫy gây cháy lan nên ảnh hưởng lớn tới công tác PCCCR. Việc khai thác sử dụng
lâm sản, săn bắn động vật, chăn thả gia súc còn bừa bãi, tuỳ tiện ảnh hưởng tới chất
lượng rừng. Sa Pa là huyện du lịch, hàng năm du khách đến với Sa Pa rất lớn các
hoạt động du lịch sinh thái, nghiên cứu khoa học, dã ngoại ảnh hưởng tới rừng và
công tác PCCCR. Một số chính quyền cơ sở xã còn chưa nhận thức được tầm quan
trọng của công tác PCCCR nên còn chủ quan, lơ là không chỉ đạo sát sao, chưa coi
trọng tính phòng ngừa trong công tác PCCCR. Việc chuyển đổi mục đích sử dụng
đất của các công trình thuỷ điện làm giảm một phần diện tích đất sản xuất nông
nghiệp của nhân dân, làm giảm đáng kể sản lượng lương thực tạo áp lực lớn đối với
rừng và đất lâm nghiệp do phát sinh nhu cầu khai phá đất sản xuất nương rẫy, ảnh
hưởng trực tiếp đến công tác quản lý bảo vệ rừng và PCCCR.
23
Chương 2
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nội dung nghiên cứu
- Đánh giá hiện trạng tài nguyên rừng và đặc điểm vật liệu cháy tại huyện Sa

Pa, tỉnh Lào Cai.
- Phân tích ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên và kinh tế - xã hội đến công tác
PCCCR trên địa bàn huyện Sa pa, tỉnh Lào Cai.
- Đánh giá thực trạng công tác phòng cháy, chữa cháy rừng tại địa bàn huyện
Sa Pa, tỉnh Lào Cai.
- Phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức và bài học kinh nghiệm
trong công tác PCCCR tại huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả PCCCR tại huyện Sa Pa, tỉnh
Lào Cai.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp luận
Cháy rừng là hiện tượng oxy hóa các vật liệu hữu cơ do rừng tạo ra ở nhiệt độ
cao. Cháy rừng chỉ xuất hiện khi có mặt đồng thời cả 3 yếu tố gồm: oxy, nguồn lửa
và vật liệu cháy. Trong đó, nguồn lửa là một trong những nhân tố quan trọng ảnh
hưởng đến cháy rừng. Theo những kết luận của nhiều công trình nghiên cứu thì
nguồn lửa dẫn đến cháy rừng ở Việt Nam phần lớn là do con người. Những hoạt
động phổ biến nhất của con người có thể tạo nguồn lửa gây cháy rừng là đốt nương
rẫy, săn thú, bắt ong, đốt than, tảo mộ, nấu ăn, dọn thực bì trồng rừng, hoạt động du
lịch v.v… Ở những nơi càng đông dân cư, hoạt động kinh tế xã hội càng nhộn nhịp,
trình độ dân trí càng thấp, mâu thuẫn xã hội càng cao v.v… thì tần suất cháy rừng
càng cao.
Vật liệu cháy và những tính chất của nó có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến cháy
rừng. Theo kết quả của nhiều nghiên cứu thì những tính chất của vật liệu quyết định
đến khả năng bắt lửa và duy trì cháy rừng là độ ẩm, thành phần hoá học (tinh dầu,
chất tro), kích thước, khối lượng và phân bố không gian v.v Tính chất vật liệu cháy
cũng như đặc điểm về khối lượng, kích thước và phân bố không gian của nó được
quyết định bởi đặc điểm sinh học của cây rừng, tình trạng sinh trưởng, phát triển và
24
sự phân bố của chúng theo không gian trong hệ sinh thái. Các trạng thái rừng có đặc
điểm vật liệu cháy khác nhau sẽ có nguy cơ cháy rừng khác nhau. Vì vậy, khi

nghiên cứu đề tài sẽ tiếp cận theo các trạng thái rừng cụ thể.
Tuy nhiên, cho đến nay vì ảnh hưởng xã hội đến cháy rừng là vấn đề tương
đối phức tạp và ít được nghiên cứu, các yếu tố này đang có sự thay đổi không
ngừng dưới ảnh hưởng của di cư tự do, của việc thực hiện các chương trình và dự
án phát triển, và sự tuyên truyền giáo dục của Nhà nước. Vì vậy, trong đề tài này
việc nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế - xã hội được xem như một nhóm
yếu tố tham khảo khi đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả phòng cháy chữa cháy
rừng trên địa bàn huyện.
Các bước nghiên cứu cụ thể của đề tài được thể hiện qua sơ đồ 2.1 dưới đây:
Hình 2.1. Sơ đồ các bước nghiên cứu của đề tài
Do thời gian nghiên cứu của đề tài ngắn, địa bàn nghiên cứu rộng với nhiều
tính đặc thù khác nhau, vì vậy cách tiếp cận chủ yếu của đề tài là kế thừa các thông
tin, số liệu đã có.
25
Thu thập các thông tin, số liệu
đã có
Khảo sát sơ bộ khu vực nghiên
cứu, lựa chọn địa điểm điều tra
Hiện trạng rừng tại
khu vực nghiên
cứu
Thực trạng công tác
PCCCR những năm
qua
Các yếu tố tự nhiên,
kinh tế - xã hội ảnh
hưởng đến cháy rừng
Phân tích SWOT và bài học kinh
nghiệm
Đề xuất giải pháp PCCCR

Điều tra
Vật liệu
cháy

×