Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Biện pháp giải quyết cá giống doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.81 KB, 4 trang )

Biện pháp giải quyết cá giống
Trên cơ sở đáp ứng đưọc các yêu cầu kĩ thuật về
cỡ cá, số lượng và chất lượng cá giống phục vụ cho
kĩ thuật nuôi thả đảm bảo kế hoạch sản lượng và năng
suất khai thác chúng ta cần nghiên cứu lựa chọn các
phương án giải quyết nguồn cá giống thuận lợi nhất
và kinh tế nhất. Những năm trước đây hầu hết các cơ
sở nuôi cá mặt nước lớn dù diện tích quản lý có lớn
hay không đều đặt ra hoặc phấn đầu thực hiện
phương châm “tự túc cá giống” toàn bộ từ khâu sx cá
bột đến cá giống. Theo phương châm này nhiều cơ
sở, địa phương đã thực hiện có kết quả tốt, nhưng
cũng có nhiều cơ sở, địa phương thực hiện chưa tốt
và còn có nhiều khó khăn và tồn tại. Để hợp lý hóa
dây chuyền sản xuất và bảo đảm chất lượng giống cá
nuôi hiện nay, chúng ta đang bố trí nghiên cứu lại
mạng lưới các cơ sở sx cá giống trên địa bàn toàn
quốc. Nếu điều này thực hiện tốt thì sẽ tạo ra nhiều
thuận lợi để phát triển nuôi cá mặt nước lớn.
Trong khâu sx cá bột của mè trắng, mè hoa và
trắm cỏ thời gia qua chủ yếu là nhờ phương pháp sinh
sản nhân tạo, một phần số lượng cá bột chủ yếu nhờ
đi vớt ở sông về ương. Nguồn cá bố mẹ để sx ra cá
bột chủ yếu là đàn cá chuyên nuôi vỗ trong cá trại
giống. Sau khi nắm được qui luật phát dục tự nhiên
của cá nuôi vỗ trong ao có thể bắt lên để cho đẻ ngay
hoặc cũng có thể bắt cho vào ao nuôi vỗ một thời
gian rồi tiêm kích dục tố cho đẻ nhân tạo.
Chúng ta cũng đã nghiên cứu thăm dò biện pháp
cho cá đẻ ngay trong hồ nhưng có nhiều phiền phức
về trang thiết bị, về yêu cầu đánh bắt, về tính chủ


động trong kế hoạch sx nên chưa đưa vào sx mà cần
phải nghiên cứu thêm. Ở TQ tại một số hồ chứa
tương đối lớn đã áp dụng biện pháp này tương đối
phổ biến trong sx cá mè trắng, mè hoa và trắm cỏ.
Tích cực cải tạo ngánh hồ thiên nhiên và hồ chứa
thành các khu vực ương san cá giống lớn.
Bố trí mạng lưới sx cá bột, cá hương, cá giống
thích hợp nhằm đảm bảo cho kế hoạch thả cá giống.
Hiện nay qua điều tra khảo sát, nhận xét bước
đầu tách một số hồ chứa nước tương đối lớn 2000-
3000ha trở lên để chủ động động sx giống cá mè
trắng, mè hoa và trắm cỏ. Tuy nhiên trên thực tế cũng
cho thấy rằng do đặc điểm thủy văn của hồ chứa rất
phức tạp nên tỷ lệ nở, tỷ lệ sống của cá rất nhỏ. Theo
điều tra của TQ thì tỷ lệ nở và sống của cá bột chỉ
khoảng 1/40 ngàn. Tức là một vụ cá đẻ khoảng 40 tỷ
trứng thì mới chỉ bổ sung vào hồ khoảng 10 vạn cá
bột.
Nếu tất cả các loài cá nuôi đều có thể sinh sản tự
nhiên một cách có hiệu quả trong sông hồ tự nhiên và
hồ chứa nuôi cá thì đó là vấn đề hay nhất, lý tưởng
nhất. Trước mắt chúng ta vẫn lấy biện pháp sinh sản
nhân tạo để giải quyết nguồn cá bột, cá giống cho các
hồ nuôi cá. Riêng đối tượng cá trôi qua theo dõi thực
tế ở hồ chứa Thác Bà và Cấm Sơn sau nhiều năm
không thả cá trôi giống nhưng hàng năm vẫn đánh bắt
được nhiều cá trôi ở các lứa tuổi khác nhau, sản
lượng cá trôi trong hồ ngày một tăng. Như vậy chứng
tỏ khả năng đẻ tự nhiên là chắc chắn và hiệu quả sinh
sản tự nhiên của cá trôi trong hồ này không pahỉ là

thấp, có triển vọng tốt trong ứng dụng sx ở các hồ
chứa cỡ lớn.

×