Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Báo cáo: " Tìm hiểu về công ty cổ phần" doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.63 KB, 17 trang )

TRƯNG ĐI HC CÔNG NGHIP THNH PH H CH MINH
Báo cáo:
"Tìm hiểu về công ty cổ phần"
CĐKT12BTH Page 1
TRƯNG ĐI HC CÔNG NGHIP THNH PH H CH MINH


Đó là một dạng pháp nhân có trách nhiệm hữu hạn, được thành lập và tồn tại
độc lập đối với những chủ thể sở hữu nó. Vốn của công ty được chia nhỏ thành
những phần bằng nhau gọi là cổ phần và được phát hành huy động vốn tham gia
của các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế.
Các nhà đầu tư trở thành những cổ đông chính thức của công ty khi thực hiện
mua các cổ phần do công ty phát hành. Cổ đông được quyền tham gia quản lý,
kiểm soát, điều hành công ty thông qua việc bầu cử và ứng cử vào các vị trí trong
Ban quản lý, Ban kiểm soát và Ban điều hành. Ngoài ra, cổ đông còn được quyền
hưởng các khoản lợi nhuận do công ty tạo ra cũng như chịu lỗ tương ứng với mức
độ góp vốn.
Ưu điểm của loại hình công ty cổ phần là Nhà đầu tư chỉ chịu trách nhiệm hữu
hạn tương ứng với tỷ lệ góp vốn trong công ty; Quy mô hoạt động lớn và khả năng
mở rộng kinh doanh dễ dàng từ việc huy động vốn cổ phần; Nhà đầu tư có khả
năng điều chuyển vốn đầu tư từ nơi này sang nơi khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh
vực khác dễ dàng thông qua hình thức chuyển nhượng, mua bán cổ phần; Công tác
quản lý hiệu quả cao do tính độc lập giữa quản lý và sở hữu.
Bên cạnh những ưu điểm, loại hình công ty này cũng có những nhược điểm cơ
bản, cụ thể là: Mức thuế tương đối cao vì ngoài thuế, công ty phải thực hiện nghĩa
vụ với ngân sách nhà nước, các cổ đông còn phải chịu thuế thu nhập bổ sung từ
nguồn cổ tức và lãi cổ phần theo qui định của nhà nước; Chi phí thành lập công ty
khá tốn kém; Khả năng bảo mật kinh doanh và tài chánh bị hạn chế do phải công
khai và báo cáo với các cổ đông của công ty; Khả năng thay đổi phạm vi kinh
doanh kém linh hoạt do phải tuân thủ theo những qui định trong Bản điều lệ của
công ty.


CĐKT12BTH Page 2
TRƯNG ĐI HC CÔNG NGHIP THNH PH H CH MINH
Tuy nhiên, với môi trường kinh doanh hiện nay trên thế giới cũng như tại Việt
Nam, những nhược điểm trên hoàn toàn có khả năng khắc phục, hạn chế tối đa và
đồng thời phát huy được những ưu điểm của loại hình này.


Lịch sử ra đời Cổ phiếu gắn liền với lịch sử hình thành Công ty cổ phần - Cổ
phiếu chính là sản phẩm riêng có của công ty cổ phần. Vốn điều lệ của công ty cổ
phần được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Người mua cổ phần
gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một giấy xác nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ
phiếu. Cổ phiếu là bằng chứng và là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu của cổ đông
đối với công ty cổ phần. Quyền sở hữu của cổ đông trong công ty cổ phần tương
ứng với số lượng cổ phần mà cổ đông nắm giữ. Vì vậy, cổ phiếu còn được gọi
là chứng khoán vốn
 
Khi xem xét Cổ phiếu của Công ty cổ phần, thường có sự phân biệt cổ phiếu được
phép phát hành, cổ phiếu đã phát hành, cổ phiếu quỹ, cổ phiếu đang lưu hành.
 Cổ phiếu được phép phát hành: Khi công ty cổ phần được thành lập, thì
được phép phát hành cổ phiếu để huy động vốn. Nhưng luật pháp các nước quy
định công ty phải đăng ký tổng số cổ phiếu của công ty và phải ghi trong điều lệ
công ty và được gọi là cổ phiếu được phép phát hành' hay cổ phiếu đăng ký. Cổ
phiếu được phép phát hành là số lượng cổ phiếu tối đa của một công ty có thể
phát hành từ lúc bắt đầu thành lập cũng như trong suốt quá trình hoạt động. Khi
cần có sự thay đổi số lượng cổ phiếu được phép phát hành thì phải được đa số
cổ đông bỏ phiếu tán thành và phải sửa đổi điều lệ công ty.
 Cổ phiếu đã phát hành: là cổ phiếu mà công ty được bán ra cho các nhà đầu
tư trên thị trường và công ty đã thu về được toàn bộ tiền bán số cổ phiếu đó, nó
nhỏ hơn hoặc tối đa là bằng với số cổ phiếu được phép phát hành.
 Cổ phiếu quỹ: là cổ phiếu đã được giao dịch trên thị trường và được chính tổ

chức phát hành mua lại bằng nguồn vốn của mình. Số cổ phiếu này có thể được
CĐKT12BTH Page 3
TRƯNG ĐI HC CÔNG NGHIP THNH PH H CH MINH
công ty lưu giữ một thời gian sau đó lại được bán ra; luật pháp một số nước quy
định số cổ phiếu này không được bán ra mà phải hủy bỏ. Cổ phiếu quỹ không
phải là cổ phiếu đang lưu hành, không có vốn đằng sau nó; do đó không được
tham gia vào việc chia lợi tức cổ phần và không có quyền tham gia bỏ phiếu.
 Cổ phiếu đang lưu hành: là cổ phiếu đã phát hành, hiện đang lưu hành trên
thị trường và do các cổ đông đang nắm giữ. Số cổ phiếu đang lưu hành được
xác định như sau:
Số cổ phiếu đang lưu hành = Số cổ phiếu đã phát hành - Số cổ phiếu quỹ
Trong trường hợp công ty có cả hai loại cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi, người
ta sẽ xác định cụ thể cho từng loại một. Số cổ phiếu thường đang lưu hành là căn
cứ quan trọng để phân chia lợi tức cổ phần trong công ty.
Dựa vào hình thức cổ phiếu, có thể phân biệt cổ phiếu ghi danh và cổ phiếu vô
danh.
 Cổ phiếu ghi danh: là cổ phiếu có ghi tên người sở hữu trên tờ cổ phiếu. Cổ
phiếu này có nhược điểm là việc chuyển nhượng phức tạp, phải đăng ký tại cơ
quan phát hành và phải được Hội đồng Quản trị của công ty cho phép.
 Cổ phiếu vô danh: là cổ phiếu không ghi tên người sở hữu. Cổ phiếu này
được tự do chuyển nhượng mà không cần thủ tục pháp lý.
Dựa vào quyền lợi mà cổ phiếu đưa lại cho người nắm giữ, có thể phân biệt cổ
phiếu phổ thông (cổ phiếu thường) và cổ phiếu ưu đãi - Đây là cách phân loại phổ
biến nhất. Khi nói đến cổ phiếu của một công ty, người ta thường nói đến cổ phiếu
phổ thông (cổ phiếu thường) và cổ phiếu ưu đãi.
!
!"#$%
Cổ phiếu phổ thông (Cổ phiếu thường) là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu của
cổ đông đối với công ty và xác nhận cho phép cổ đông được hưởng các quyền lợi
thông thường trong công ty.

CĐKT12BTH Page 4
TRƯNG ĐI HC CÔNG NGHIP THNH PH H CH MINH
Người nắm giữ cổ phiếu thường là cổ đông thường và là đồng sở hữu của công ty
cổ phần. Cổ phiếu thường có những đặc điểm chủ yếu sau:
 Là loại cổ phiếu có thu nhập phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh của công
ty. Người sở hữu cổ phiếu phổ thông được tham gia họp Đại hội đồng cổ đông
và được bỏ phiếu quyết định những vấn đề quan trọng nhất của công ty, được
quyền bầu cử và ứng cử vào Hội đồng Quản trị của công ty.
 Cổ phiếu của công ty không có thời hạn hoàn trả, vì đây không phải là khoản
nợ đối với công ty.
 Cổ đông được chia phần giá trị tài sản còn lại khi thanh lý công ty sau khi
công ty đã thanh toán các khoản nợ và thanh toán cho các cổ đông ưu đãi.
 Người góp vốn vào công ty không được quyền trực tiếp rút vốn ra khỏi công
ty, nhưng được quyền chuyển nhượng sở hữu cổ phần dưới hình thức bán lại cổ
phiếu hay dưới hình thức quà tặng hay để lại cho người thừa kế. Chính điều này
đã tạo ra tính thanh khoản cho cổ phiếu công ty, đồng thời cũng hấp dẫn nhà
đầu tư.
 Được quyền ưu tiên mua cổ phiếu khi công ty phát hành cổ phiếu mới để
tăng vốn.
 Được quyền triệu tập đại hội đồng cổ đông bất thường theo luật định.
!&'()*+, rủi ro -
*.'/0"1"23"4+51 56
 "72'%"23"6
Các hình thức giá trị của Cổ phiếu thường
 Mệnh giá của cổ phiếu thường: Mệnh giá hay còn gọi là giá trị danh
nghĩa là giá trị mà công ty cổ phần ấn định cho một cổ phiếu và được ghi trên
cổ phiếu.
Mệnh giá cổ phiếu thường được sử dụng để ghi sổ sách kế toán của công ty. Mệnh
giá cổ phiếu không có giá trị thực tế đối với nhà đầu tư khi đã đầu tư, nên nó
không liên quan đến giá thị trường của cổ phiếu đó. Mệnh giá cổ phiếu chỉ có ý

CĐKT12BTH Page 5
TRƯNG ĐI HC CÔNG NGHIP THNH PH H CH MINH
nghĩa quan trọng vào thời điểm công ty phát hành cổ phiếu thường lần đầu huy
động vốn thành lập công ty. Mệnh giá thể hiện số tiền tối thiểu Công ty phải nhận
được trên mỗi cổ phiếu mà Công ty phát hành ra.
Một số nước luật pháp cho phép Công ty cổ phần có thể phát hành cổ phiếu thường
không có mệnh giá.
Giá trị sổ sách: của cổ phiếu thường là giá trị của cổ phiếu được xác định dựa trên
cơ sở số liệu sổ sách kế toán của công ty.
Trường hợp công ty chỉ phát hành cổ phiếu thường thì giá trị sổ sách của một cổ
phiếu thường được xác định bằng cách lấy vốn chủ sở hữu hoặc tổng giá trị tài sản
thuần (phần giá trị chênh lệch giữa giá trị tổng tài sản với tổng số nợ) của công ty
chia cho tổng số cổ phiếu thường đang lưu hành.
Trường hợp công ty phát hành cả cổ phiếu ưu đãi, thì phải lấy tổng giá trị tài sản
thuần trừ đi phần giá trị thuộc cổ phiếu ưu đãi rồi mới chia cho số cổ phiếu
thường đang lưu hành.
Phần giá trị của cổ phiếu ưu đãi được tính theo mệnh giá hoặc giá mua lại tùy
thuộc loại cổ phiếu ưu đãi công ty phát hành và cộng với phần cổ tức công ty còn
khất lại chưa trả cho cổ đông ưu đãi trong các kỳ trước đó (nếu có).
Việc xem xét giá trị sổ sách, cho phép Cổ đông thấy được số giá trị tăng thêm
của cổ phiếu thường sau một thời gian công ty hoạt động so với số vốn góp ban
đầu.
Giá trị thị trường: là giá trị thị trường hiện tại của cổ phiếu thường, được thể hiện
trong giao dịch cuối cùng đã được ghi nhận. Giá trị thị trường hay còn được gọi
là giá thị trường. Thực tế, giá thị trường của cổ phiếu không phải do công ty ấn
định và cũng không do người nào khác quyết định, mà giá thị trường của cổ phiếu
được xác định bởi giá thống nhất mà người bán sẵn sàng bán nó và giá cao nhất mà
người mua sẵn sàng trả để mua nó.
Tóm lại, Giá thị trường của cổ phiếu được xác định bởi quan hệ cung - cầu trên
thị trường. Giá trị thị trường cổ phiếu của một công ty phụ thuộc rất nhiều yếu tố,

do vậy nó thường xuyên biến động.
CĐKT12BTH Page 6
TRƯNG ĐI HC CÔNG NGHIP THNH PH H CH MINH
8'&9
8"#$%
Cổ phiếu ưu đãi là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu trong một công ty, đồng thời
cho phép người nắm giữ loại cổ phiếu này được hưởng một số quyền lợi ưu tiên
hơn so với cổ đông phổ thông. Người nắm giữ cổ phiếu ưu đãi được gọi là cổ đông
ưu đãi của công ty.
Cổ đông nắm giữ cổ phiếu ưu đãi có các quyền lợi sau:
Quyền được nhận cổ tức trước các cổ đông thường, mặc dù người có cổ phiếu ưu
đãi chỉ được quyền hưởng lợi tức cổ phần giới hạn nhưng họ được trả cổ tức trước
khi chia lợi tức cho cổ đông thường. Khác với cổ tức của cổ phiếu phổ thông, cổ
tức của cổ phiếu ưu đãi được xác định trước và thường được xác định bằng tỷ lệ
phần trăm cố định so với mệnh giá của cổ phiếu hoặc bằng số tiền nhất định in trên
mỗi cổ phiếu.
Quyền ưu tiên được thanh toán trước, khi giải thể hay thanh lý công ty, nhưng sau
người có trái phiếu.
Tương tự như cổ phiếu phổ thông, nhưng cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi không
được tham gia bầu cử, ứng cử vào Hội đồng Quản trị và quyết định những vấn đề
quan trọng của công ty.
Cổ phiếu ưu đãi có thể có mệnh giá hoặc không có mệnh giá và mệnh giá của nó
cũng không ảnh hưởng tới giá thị trường của cổ phiếu ưu đãi. Mệnh giá của cổ
phiếu ưu đãi có ý nghĩa hơn đối với mệnh giá của cổ phiếu phổ thông, vì nó là căn
cứ để trả cổ tức và là căn cứ để hoàn vốn khi thanh lý hay giải thể công ty.
Tuy cổ tức của cổ phiếu ưu đãi là cố định, nhưng cổ đông ưu đãi cũng chỉ được
nhận cổ tức khi công ty làm ăn có lợi nhuận.
CĐKT12BTH Page 7
TRƯNG ĐI HC CÔNG NGHIP THNH PH H CH MINH
86 '&9

Cổ phiếu ưu đãi tích lũy: là loại cổ phiếu ưu đãi có tính chất đảm bảo thanh toán cổ
tức. Khi công ty gặp khó khăn, không thanh toán được hoặc chỉ thanh toán một
phần cổ tức, thì số chưa thanh toán đó được tích lũy hay cộng dồn và công ty phải
trả số cổ tức này trước khi công bố trả cổ tức cho cổ đông thường. Hầu hết cổ
phiếu ưu đãi của các công ty là loại cổ phiếu ưu đãi tích lũy và không tham dự.
Cổ phiếu ưu đãi không tích lũy: là loại cổ phiếu ưu đãi mà khi công ty gặp khó
khăn không trả được cổ tức trong năm tài chính, thì cổ đông ưu đãi đó cũng mất
quyền nhận số cổ tức trong năm đó.
Cổ phiếu ưu đãi tham dự: là loại cổ phiếu ưu đãi mà cổ đông nắm giữ chúng, ngoài
việc hưởng cổ tức ưu đãi theo quy định còn được hưởng thêm phần lợi tức phụ trội
theo quy định khi công ty kinh doanh có lợi nhuận cao.
Cổ phiếu ưu đãi không tham dự: là loại cổ phiếu ưu đãi mà cổ đông nắm giữ chúng
chỉ được hưởng cổ tức ưu đãi cố định theo quy định, ngoài ra không được hưởng
thêm bất cứ phần lợi nhuận nào.
Cổ phiếu ưu đãi có thể mua lại: là loại cổ phiếu ưu đãi mà công ty có quyền thu
hồi lại. Công ty phát hành có quyền yêu cầu mua lại cổ phiếu này vào bất cứ lúc
nào, khi công ty có khả năng tài chính. Giá mua lại được xác định từ thời điểm
phát hành, giá này thường tính bằng mệnh giá của cổ phiếu ưu đãi cộng thêm phần
có tính chất đền bù cho các nhà đầu tư khi công ty mua lại loại cổ phiếu ưu đãi
này.
Cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi: là loại cổ phiếu ưu đãi cho phép người mua có
quyền chuyển đổi cổ phiếu ưu đãi này sang các loại chứng khoán khác.
1. Cổ phiếu chưa phát hành
Là loại cổ phiếu mà công ty chưa bao giờ bán ra cho các nhà đầu tư trên thị trường.
CĐKT12BTH Page 8
TRƯNG ĐI HC CÔNG NGHIP THNH PH H CH MINH
 Đ'c điểm của cổ phiếu
2.1. Không có kỳ hạn và không hoàn vốn
Cổ phiếu là chứng nhận góp vốn của các cổ đông vào công ty cổ phần. Chỉ có
chiều góp vào, không thể hiện thời hạn hoàn vốn; không có kỳ hạn. (Khi công ty

phá sản hoặc giải thể, thì sẽ không còn tồn tại cổ phiếu).
2.2. Cổ tức không ổn định và phụ thuộc vào kết quả SXKD của doanh
nghiệp
Cổ tức cổ phiếu thường tùy thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, và vì
kết quả kinh doanh không ổn định nên cổ tức cũng không thể cố định. Khi doanh
nghiệp làm ăn phát đạt thì cổ đông được hưởng lợi nhuận nhiều hơn so với các loại
chứng khoán khác có lãi suất cố định. Ngược lại, khi làm ăn khó khăn hoặc thua lỗ,
cổ tức có thể rất thấp hoặc không có cổ tức.
2.3. Khi phá sản, cổ đông là người cuối cùng nhận được giá trị còn lại của
tài sản thanh lý
2.4. Giá cổ phiếu biến động rất mạnh
Giá biến động nhiều nhất là trên thị trường thứ cấp, do giá chịu sự tác động của
nhiều nhân tố, và nhân tố quan trọng đó là kết quả kinh doanh của công ty.
"Bên cạnh đó, theo quan điểm của những nhà đầu tư, Cổ phiếu có các đặc điểm
sau:"
2.5. Tính thanh khoản cao
Cổ phiếu có khả năng chuyển hóa thành tiền mặt dễ dàng. Tuy nhiên tính thanh
khoản của cổ phiếu phụ thuộc vào các yếu tố sau:
Thứ nhất, kết quả kinh doanh của tổ chức phát hành (công ty có cổ phiếu niêm
yết). Nếu tổ chức phát hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả, trả cổ tức cao, cổ
phiếu của công ty sẽ thu hút nhà đầu tư và cổ phiếu thực sự dễ mua bán trên thị
trường. Ngược lại nếu công ty làm ăn kém hiệu quả không trả cổ tức hoặc cổ tức
thấp, cổ phiếu của công ty sẽ giảm giá và khó bán.
CĐKT12BTH Page 9
TRƯNG ĐI HC CÔNG NGHIP THNH PH H CH MINH
Thứ hai, là mối quan hệ cung - cầu trên thị trường chứng khoán: Thị trường cổ
phiếu cũng như các loại thị trường khác đều chịu sự chi phối của qui luật cung cầu.
Giá cổ phiếu trên thị trường không chỉ phụ thuộc vào chất lượng công ty mà còn
phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu của nhà đầu tư. Tuy một loại cổ phiếu rất tốt nhưng
thị trường đang bão hòa nguồn cung (nhiều hàng bán) thì cổ phiếu đó cũng khó

tăng giá. Ngược lại khi thị trường khan hiếm hàng hóa thì ngay cả những cổ phiếu
chất lượng kém hơn cũng có thể bán dễ dàng. Tuy nhiên cũng cần chú ý đến sự đầu
cơ trong thị trưòng, một số nhà đầu tư sở hữu một phần lớn lượng cổ phiếu trong
thị trường, đẩy giá lên xuống theo ý mình để trục lợi.
2.6. Có tính Lưu thông
Tính lưu thông khiến cổ phiếu có giá trị như một loại tài sản thực sư, nếu như tính
thanh khoản giúp cho chủ sở hữu cổ phiếu chuyển cổ phiếu thành tiền mặt khi cần
thiết thì tính lưu thông giúp chủ sở hữu cổ phiếu thực hiện được nhiều hoạt động
như thừa kế tặng cho để thục hiện nghĩa vụ tài sản của mình.
2.7. Tính Tư bản giả
Cổ phiếu có tính tư bản giả tức là cổ phiếu có giá trị như tiền. Tuy nhiên cổ phiếu
không phải là tiền và nó chỉ có giá trị khi được đảm bảo bằng tiền. Mệnh giá của
cổ phiếu không phản ánh đúng giá trị của cổ phiếu.
2.8. Tính Rủi ro cao
Tính Rủi ro phụ thuộc vào thông tin và tình hình phát triển, chính trị. Giá trị cổ
phiếu luôn biến động theo các yếu tố này.
:5

Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người
CĐKT12BTH Page 10
TRƯNG ĐI HC CÔNG NGHIP THNH PH H CH MINH
vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền
xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản
cho vay ban đầu khi nó đáo hạn.
;-&<
a. Một trái phiếu thông thường có ba đ'c trưng chính
+ Mệnh giá.
+ Lãi suất định kỳ (coupon).
+ Thời hạn.
b. Trái phiếu thể hiện quan hệ chủ nợ – con nợ giữa người phát hành và người

đầu tư
Phát hành trái phiếu là đi vay vốn. Mua trái phiếu là cho người phát hành vay vốn
và như vậy, trái chủ là chủ nợ của người phát hành. Là chủ nợ, người nắm giữ trái
phiếu (trái chủ) có quyền đòi các khoản thanh toán theo cam kết về khối lượng và
thời hạn, song không có quyền tham gia vào những vấn đề của bên phát hành.
c. Lãi suất của các trái phiếu rất khác nhau, được quy định bởi các yếu tố:
+ Cung cầu vốn trên thị trường tín dụng. Lượng cung cầu vốn đó lại tuỳ thuộc vào
chu kỳ kinh tế, động thái chính sách của ngân hàng trung ương, mức độ thâm hụt
ngân sách của chính phủ và phương thức tài trợ thâm hụt đó.
+ Mức rủi ro của mỗi nhà phát hành và của từng đợt phát hành. Cấu trúc rủi ro của
lãi suất sẽ quy định lãi suất của mỗi trái phiếu. Rủi ro càng lớn, lãi suất càng cao.
+ Thời gian đáo hạn của trái phiếu. Nếu các trái phiếu có mức rủi ro như nhau,
nhìn chung thời gian đáo hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
!=>6 5
3.1. Căn cứ vào việc có ghi danh hay không
CĐKT12BTH Page 11
TRƯNG ĐI HC CÔNG NGHIP THNH PH H CH MINH
- Trái phiếu vô danh: là trái phiếu không mang tên trái chủ, cả trên chứng chỉ
cũng như trên sổ sách của người phát hành. Những phiếu trả lãi đính theo tờ chứng
chỉ, và khi đến hạn trả lãi, người giữ trái phiếu chỉ việc xé ra và mang tới ngân
hàng nhận lãi. Khi trái phiếu đáo hạn, người nắm giữ nó mang chứng chỉ tới ngân
hàng để nhận lại khoản cho vay.
- Trái phiếu ghi danh: là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ của trái chủ, trên
chứng chỉ và trên sổ của người phát hành. Hình thức ghi danh có thể chỉ thực hiện
cho phần vốn gốc, cũng có thể là ghi danh toàn bộ, cả gốc lẫn lãi. Dạng ghi danh
toàn bộ mà đang ngày càng phổ biến là hình thức ghi sổ. Trái phiếu ghi sổ hoàn
toàn không có dạng vật chất, quyền sở hữu được xác nhận bằng việc lưu giữ tên và
địa chỉ của chủ sở hữu trên máy tính.
3.2. Căn cứ vào đối tượng phát hành trái phiếu
- Trái phiếu chính phủ: là những trái phiếu do chính phủ phát hành nhằm mục

đích bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công trình công ích, hoặc làm công
cụ điều tiết tiền tệ.Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán không có rủi ro thanh
toán và cũng là loại trái phiếu có tính thanh khoản cao. Do đặc điểm đó, lãi suất
của trái phiếu chính phủ được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ ấn định lãi suất
của các công cụ nợ khác có cùng kỳ hạn.
- Trái phiếu công trình: là loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn cho
những mục đích cụ thể, thường là để xây dung những công trình cơ sở hạ tầng hay
công trình phúc lợi công cộng. Trái phiếu này có thể do chính phủ trung ương hoặc
chính quyền địa phương phát hành.
- Trái phiếu công ty: là các trái phiếu do các công ty phát hành để vay vốn dài
hạn. Trái phiếu công ty có đặc điểm chung sau: Trái chủ được trả lãi định kỳ và trả
gốc khi đáo hạn, song không được tham dự vào các quyết định của công ty. Nhưng
cũng có loại trái phiếu không được trả lãi định kỳ, người mua được mua dưới mệnh
giá và khi đáo hạn được nhận lại mệnh giá. Khi công ty giải thể hoặc thanh lý, trái
phiếu được ưu tiên thanh toán trước các cổ phiếu. Có những điều kiện cụ thể kèm
theo, hoặc nhiều hình thức đảm bảo cho khoản vay.
CĐKT12BTH Page 12
TRƯNG ĐI HC CÔNG NGHIP THNH PH H CH MINH
Trái phiếu công ty bao gồm những loại sau:
+ Trái phiếu có đảm bảo: là trái phiếu được đảm bảo bằng những tài sản thế chấp
cụ thể, thường là bất động sản và các thiết bị. Người nắm giữ trái phiếu này được
bảo vệ ở một mức độ cao trong trường hợp công ty phá sản, vì họ có quyền đòi nợ
đối với một tài sản cụ thể.
+ Trái phiếu không bảo đảm: Trái phiếu tín chấp không được đảm bảo bằng tài sản
mà được đảm bảo bằng tín chấp của công ty. Nếu công ty bị phá sản, những trái
chủ của trái phiếu này được giải quyết quyền lợi sau các trái chủ có bảo đảm,
nhưng trước cổ động. Các trái phiếu tín chấp có thể chuyển đổi cho phép trái chủ
được quyền chuyển trái phiếu thành cổ phiếu thường của công ty phát hành. Tuỳ
theo quy định, việc chuyển đổi có thể được tiến hành vào bất cứ thời điểm nào,
hoặc chỉ vào những thời điểm cụ thể xác định.

Ngoài những đặc điểm trên, mỗi đợt trái phiếu được phát hành có thể được gắn
kèm theo những đặc tính riêng khác nữa nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của một bên
nào đó. Cụ thể là:
+ Trái phiếu có thể mua lại cho phép người phát hành mua lại chứng khoán trước
khi đáo hạn khi thấy cần thiết. Đặc tính này có lợi cho người phát hành song lại bất
lợi cho người đầu tư, nên loại trái phiếu này có thể có lãi suất cao hơn so với
những trái phiếu khác có cùng thời hạn.
+ Trái phiếu có thể bán lại cho phép người nắm giữ trái phiếu được quyền bán lại
trái phiếu cho bên phát hành trước khi trái phiếu đáo hạn. Quyền chủ động trong
trường hợp này thuộc về nhà đầu tư, do đó lãi suất của trái phiếu này có thể thấp
hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn.
+ Trái phiếu có thể chuyển đổi cho phép người nắm giữ nó có thể chuyển đổi trái
phiếu thành cổ phiếu thường, tức là thay đổi tư cách từ người chủ nợ trở thành
người chủ sở hữu của công ty. Loại trái phiếu này thuộc vào nhóm hàng hoá chứng
khoán có thể chuyển đổi được đề cập tới dưới đây.
CĐKT12BTH Page 13
TRƯNG ĐI HC CÔNG NGHIP THNH PH H CH MINH
?@5AB6
Cổ phiếu thường được gọi là chứng khoán vốn, trong khi trái phiếu được gọi là
chứng khoán nợ. Một nhà đầu tư khi nắm giữ cổ phiếu của một doanh nghiệp trên
TTCK, nhà đầu tư đó có quyền làm chủ một phần của doanh nghiệp đó, tương
đương với trị giá cổ phiếu mình có.
Ngược lại, khi một nhà đầu tư nắm giữ một số trái phiếu của một doanh nghiệp
trên TTCK, nhà đầu tư đó là chủ nợ của doanh nghiệp với trị giá trái phiếu người
ấy đang nắm giữ.
Giữa trái phiếu và cổ phiếu có một gạch nối liên kết, đó là trường hợp trái phiếu
chuyển đổi được. Khi bắt đầu, nhà đầu tư mua trái phiếu, tức là cho doanh nghiệp
vay một số tiền bằng trị giá mua trái phiếu (tất nhiên phải tính trừ phí hoa hồng
môi giới ), nhưng nhà đầu tư vẫn kỳ vọng rằng đây là doanh nghiệp sẽ có lãi và
có tương lai phát triển với mức thu nhập cao, nhà đầu tư đưa ra điều kiện là từng

phần hoặc toàn phần trị giá trái phiếu sẽ được chuyển đổi thành cổ phiếu.
Khi đó từ vai trò chủ nợ, nhà đầu tư trở thành một trong các sở hữu chủ của doanh
nghiệp và chuyển chứng khoán nợ thành chứng khoán vốn.
C;$@&<5.1
: 7D6 
Công ty huy động vốn khi thành lập để mở rộng kinh doanh bằng hình thức
phát hành cổ phiếu thì nguồn vốn huy động đó không cấu thành một khoản nợ mà
công ty phải có trách nhiệm hoàn trả cũng như áp lực về khả năng cân đối thanh
khoản của công ty sẽ giảm rất nhiều. Trong khi sử dụng các phương thức khác như
phát hành trái phiếu công ty, vay nợ từ các tổ chức tín dụng thì hoàn toàn ngược
lại.
Tuy nhiên, mỗi phương thức huy động đều có những ưu nhược điểm riêng,
nhà quản lý công ty phải cân nhắc, lựa chọn tùy từng thời điểm và dựa trên những
đặc thù cũng như chiến lược kinh doanh của công ty để quyết định phương thức áp
dụng thích hợp.
Nhà đầu tư trông đợi gì khi mua cổ phiếu?
CĐKT12BTH Page 14
TRƯNG ĐI HC CÔNG NGHIP THNH PH H CH MINH
Theo định nghĩa cơ bản, giấy chứng nhận cổ phần là một dạng chứng thư có
giá được xác định thông qua việc chuyển dịch, mua bán chúng trên thị trường
chứng khoán giữa các chủ thể đầu tư và được pháp luật bảo vệ.
Mặt khác, người mua cổ phiếu nghĩ rằng đồng vốn họ đầu tư được các nhà
quản lý công ty sử dụng có hiệu quả, tạo ra nhiều lợi nhuận hoặc đánh giá hoạt
động cũng như tiềm năng phát triển, sinh lợi của công ty dự định đầu tư là cao.
Đương nhiên, họ sẽ được hưởng một phần từ những thành quả đó thông qua việc
thanh toán cổ tức cho các cổ đông, đồng thời giá trị cổ phần sở hữu cũng sẽ gia
tăng trên cơ sở thực tại và triển vọng phát triển của công ty mình đã chọn.
Thông thường, khả năng sinh lợi, thu hồi vốn đầu tư cổ phiếu tỷ lệ thuận với giá
cả giao dịch cổ phiếu trên thị trường.
: 7D6 5

Không như cổ phiếu, phát hành trái phiếu không làm pha loãng lợi ích cổ
đông, chủ động hơn về nguồn vốn với lãi suất thấp, do lãi suất trái phiếu thường
xác định trước và là chi phí được khấu trừ thuế.
Có 2 loại trái phiếu doanh nghiệp: trái phiếu thông thường và trái phiếu chuyển
đổi. Trái phiếu thông thường là công cụ vay nợ trả lãi thuần túy và lãi suất phản
ánh đúng mức độ rủi ro. Còn trái phiếu chuyển đời thường có lãi suất thấp hơn,
nhưng được ưu đãi chuyển đổi sang cổ phần công ty sau một thời gian nhất định.
So với vay ngân hàng, huy động vốn qua trái phiếu có một số ưu điểm như không
cần có tài sản thế chấp và được chủ động sử dụng số tiền huy động mà không có sự
giám sát của ngân hàng. Doanh nghiệp chỉ phải trả lãi theo kỳ hạn 6 tháng hoặc 1
năm và chỉ trả gốc vào cuối kỳ. Lãi suất trái phiếu không bị khống chế bởi trần lãi
suất nên có tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư.
Hiện nay, trái phiếu doanh nghiệp chủ yếu được phát hành riêng lẻ. Nhà đầu tư
chủ yếu là ngân hàng và các công ty bảo hiểm có vốn lớn và yêu cầu mức lãi suất
ổn định.
Ở các thị trường tài chính phát triển như Mỹ, thị trường trái phiếu doanh nghiệp có
quy mô lớn và thanh khoản cao. Vai trò của các công ty đánh giá tín nhiệm như
S&P, Moody, Fitch Ratings rất quan trọng đối với hoạt động phát hành, định giá và
mua bán trái phiếu. Lãi suất trái phiếu khi phát hành (coupon rate) và lợi suất trái
phiếu sau phát hành (yield) phụ thuộc rất lớn vào hạng trái phiếu. Thông thường
CĐKT12BTH Page 15
TRƯNG ĐI HC CÔNG NGHIP THNH PH H CH MINH
trái phiếu chia làm 2 loại: loại để đầu tư (investment-grade) có mức xếp hạng BBB
trở lên đối với chuẩn S&P và chuẩn Fitch Ratings và loại sinh lời cao (high-yield
bond/junk bong) có mức xếp hạng BB trở xuống.
Trong khi đó, ở Việt Nam, thị trường trái phiếu công ty còn nhỏ và kém thanh
khoản. Nguyên nhân là hệ thống tài chính doanh nghiệp quá dựa vào ngân hàng;
thiếu các hoạt động đánh giá tín nhiệm đúng chuẩn và thường xuyên; hệ thống tài
chính và giá trị đồng nội tệ thiếu ổn định, dẫn đến không có đường cong lãi suất
làm chuẩn; thiếu vắng những nhà đầu tư tổ chức, đặc biệt là các quỹ hưu trí, quỹ

tương hỗ, dẫn đến nhu cầu đầu tư và tính thanh khoản của trái phiếu doanh nghiệp
trên thị trường thứ cấp kém.
Doanh nghiệp cần làm gì?
Thông thường, để phát hành trái phiếu, doanh nghiệp thường thuê một tổ chức tài
chính như ngân hàng, công ty chứng khoán làm đơn vị tư vấn phát hành. Vai phát
hành theo đúng thông lệ thị trường và đúng quy định của pháp luật, gồm:
1. Lập bản công bố thông tin về đợt phát hành trái phiếu, gồm: Phương án sử dụng
tiền; rủi ro khi đầu tư; đánh giá tín nhiệm và phân tích tài chính doanh nghiệp;
phân tích ngành; một số vấn đề về quản trị doanh nghiệp; kinh nghiệm và trình độ
của ban lãnh đạo doanh nghiệp.
2. Gửi bản công bố thông tin và dựng sổ (book building) tới các nhà đầu tư tiềm
năng để cung cấp thông tin và khảo sát nhu cầu, sự quan tâm của họ về quy mô vốn
tham gia, mức lãi suất kỳ vọng, kỳ hạn, cấu trúc của trái phiếu Nhà tư vấn sẽ
đánh giá, tổng hợp nhu cầu của nhà đầu tư và trên cơ sở những điều kiện đã dự
kiến, nhà phát hành sẽ chốt lại những điều khoản cuối cùng.
3. Thông báo tới các nhà đầu tư về các điêu khoản cuối cùng của trái phiếu.
4. Kết thúc thời hạn chào bán, nhà tư vấn sẽ tiếp nhận đơn đặt mua trái phiếu, tổng
hợp và thông báo phân bổ số lượng trái phiếu.
Do hoạt động định mức tín nhiệm doanh nghiệp và trái phiếu chưa phổ biến, nên
bên cạnh uy tín của doanh nghiệp phát hành, vai trò của tổ chức tư vấn phát hành
rất quan trọng. Các doanh nghiệp tư nhân muốn phát hành trái phiếu thành công
cần một ngân hàng bảo lãnh phát hành cam kết mua lại toàn bộ số trái phiếu không
được đăng ký mua. Nhà đầu tư cũng rất quan tâm đến điều khoản ngân hàng bảo
lãnh kiêm quản lý dòng tiền từ đợt phát hành trái phiếu và dòng tiền thu về từ các
dự án của doanh nghiệp.
CĐKT12BTH Page 16
TRƯNG ĐI HC CÔNG NGHIP THNH PH H CH MINH
Đối với những doanh nghiệp chưa có tên tuổi và phát hành trái phiếu lần đầu, ngân
hàng có thể kiêm thêm chức năng bảo lãnh thanh toán. Khi trái phiếu đến hạn
thanh toán, nếu doanh nghiệp mất khả năng chi trả, ngân hàng sẽ đứng ra thanh

toán tiền gốc và lãi cho nhà đầu tư. Tuy nhiên phí bảo lãnh phát hành và phí bảo
lãnh thanh toán đôi khi lên tới vài phần trăm, đẩy chi phi phí huy động vốn lên cao.
Phát hành trái phiếu vốn được xem là cuộc chơi của các đại gia. Chẳng hạn, các tập
đoàn nhà nước, nhờ niềm tin của nhà đầu tư vào Nhà nước, nên lãi suất trái phiếu
thấp hơn và quy mô đợt phát hành lớn nên tính thanh khoản cao hơn.
Ví dụ, gần đây EVN phát hành trái phiếu kỳ hạn 5 năm, ngoài mục lãi suất
10,4%/năm cho năm đầu tiên, các năm tiếp theo trái chủ sẽ nhận được mức lãi suất
thả nổi được tính bằng lãi suất cho vay kỳ hạn 12 tháng bình quân của 4 ngân hàng
quốc doanh cộng với 2,75%/năm. Đối với EVN, thủ tục huy động vốn qua trái
phiếu sẽ đơn giản và tiết kiệm hơn nhiều so với việc lập hồ sơ vay vốn cho từng dự
án và chứng minh mục đích sử dụng vốn cho từng lần giải ngân về sau.
Trong khi đó, đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng phát hành thành công là
rất thấp. Quy mô phát hành nhỏ làm giảm tính thanh khoản của trái phiếu, khiến
nhà đầu tư ngại mua. Có những trường hợp trái phiếu được bán hết, nhưng đến
70% là do ngân hàng bảo lãnh phát hành mua. Và nếu phát hành thành công doanh
nghiệp cũng phải trả chi phí cao hơn lãi vay ngân hàng. Điều này khiến một số
người đặt câu hỏi: "Tại sao họ không vay ngân hàng?".
Có nhiều lý do, chẳng hạn không phải lúc nào doanh nghiệp cũng có sẵn tài sản thế
chấp, hoặc nếu có thì tài sản không đủ đáp ứng số tiền cần cho dự án. Thêm vào
đó, với lợi thế được chủ động giải ngân tiền phát hành trái phiếu và thanh toán mức
lãi suất được xác định trước thì trái phiếu vẫn luôn là mong ước chưa thể thực hiện
của các doanh nghiệp nhỏ.
CĐKT12BTH Page 17

×