Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Xạ trị docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.46 KB, 8 trang )

Xạ trị

Phóng xạ đã được phát hiện ra cách đây hơn 100 năm. Từ đó, các bác sĩ đã tìm ra những
cách để dùng phóng xạ điều trị ung thư.
Những tiến bộ trong kỹ thuật và những hiểu biết rõ hơn về tác dụng của nó trên cơ thể đã
làm cho xạ trị trở nên một phần quan trọng trong điều trị ung thư ngày nay. Thật sự
khoảng một nửa bệnh nhân ung thư sẽ phải xem xạ trị ít nhất là một phần trong kế hoạch
điều trị của mình.
Bài viết này nhằm mục đích giúp bạn đọc hiểu xạ trị là gì, nó được sử dụng để điều trị
ung thư như thế nào và một số tác dụng phụ của nó.
XẠ TRỊ HOẠT ĐỘNG NHƯ THẾ NÀO?
Phóng xạ là năng lượng được chuyên chở bởi các sóng hoặc một luồng các hạt nhỏ li ti.
Nó có thể làm thay đổi gen (DNA) và một số phân tử của tế bào. Các gen kiểm soát quá
trình phát triển và phân chia của tế bào. Để hiểu được xạ trị được dùng để điều trị như thế
nào, bạn nên biết chu kỳ sống bình thường của tế bào. Chu kỳ tế bào có 5 pha (giai đoạn)
trong đó chỉ có 1 pha là tế bào phân chia thật sự. Khi tế bào phân chia thành 2 tế bào khác
nhau, người ta gọi đó là sự phân bào.

Chu kỳ tế bào:
GO = Tế bào đang trong giai đoạn nghỉ
G1 = Tạo RNA và protein
S = Tạo DNA
G2 = Xây dựng các cơ cấu để phân bào
M = Phân bào (tế bào phân ra làm 2 tế bào khác nhau)
 Pha G0 (giai đoạn nghỉ): Tế bào chưa bắt đầu phân chia, chiếm phần lớn thời
gian sống của tế bào. Tùy thuộc vào loại tế bào mà giai đoạn này có thể kéo dài từ
vài giờ hay nhiều năm. Khi tế bào nhận được tín hiệu sinh sản, nó sẽ chuyển sang
pha G1.
 Pha G1: Trong pha này, tế bào bắt đầu tạo ra nhiều protein hơn để sẵn sàng phân
chia. Pha G1 kéo dài khoảng 18 đến 30 giờ.
 Pha S: Ở pha S, các nhiễm sắc thể chứa mã di truyền (DNA) được sao chép để cả


2 tế bào mới đều có DNA giống nhau. Pha này kéo dài khoảng 18 đến 20 giờ.
 Pha G2: Pha G2 xảy ra ngay trước khi tế bào bắt đầu phân chia thành 2 tế bào
mới. Pha này kéo dài từ 2 đến 10 giờ.
 Pha M (Mitosis - phân bào): Ở pha này, tế bào thật sự phân chia thành 2 tế bào
mới. Pha này chỉ kéo dài khoảng từ 30 đến 60 phút.
Chu kỳ tế bào và phóng xạ
Chu kỳ tế bào rất quan trọng trong điều trị ung thư do tia xạ thường cho tác dụng tốt nhất
trên các tế bào đang hoạt động hoặc phân chia nhanh chóng và không có tác dụng ở
những tế bào đang ở pha nghỉ (G0) hoặc phân chia chậm. Độ nhạy cảm phóng xạ là thuật
ngữ dùng để chỉ mức độ nguy cơ một tế bào bị phóng xạ làm tổn thương.
Xạ trị tấn công các tế bào ung thư đang phân chia nhưng nó cũng ảnh hưởng đến các tế
bào đang phân chia khác của mô bình thường. Những tổn thương trên các tế bào bình
thường gây ra các tác dụng phụ. Một khi thực hiện xạ trị bao gồm sự cân bằng giữa phá
hủy các tế bào ung thư và tránh các tế bào bình thường.
Trước đây, người ta nghĩ rằng khi một khu vực đã được điều trị bằng tia xạ một lần rồi thì
không thể điều trị thêm lần nữa được do sự tổn thương của các tế bào bình thường ở khu
vực điều trị. Nhưng những nghiên cứu gần đây cho thấy ở một số trường hợp có thể xạ trị
tiếp lần thứ hai.
CÁC LOẠI XẠ TRỊ
Tia xạ dùng trong điều trị ung thư được gọi là bức xạ ion hóa do nó tạo ra ion bên trong
các tế bào mà nó đi qua khi giải phóng các electron ra khỏi nguyên tử (Ion là các nguyên
tử mang điện tích do nhận thêm hoặc mất đi các electron). Hiện tượng này có thể tiêu diệt
các tế bào hoặc làm thay đổi gen.
Một dạng khác của tia xạ như sóng radio, microwave, sóng ánh sáng được gọi là bức xạ
không ion hóa. Chúng không có nhiều năng lượng bằng các bức xạ ion hóa và cũng
không có khả năng ion hóa các tế bào.
Bức xạ ion hóa có thể được chia ra làm 2 loại chính:
 Photon (tia X và tia gamma) được dùng rộng rãi nhất
 Bức xạ hạt (electron, proton, neutron, hạt alpha, và hạt beta).
Một số loại bức xạ ion hóa mang năng lượng nhiều hơn những loại khác. Năng lượng

càng cao, tia xạ càng có thể xuyên thủng sâu hơn vào bên trong mô. Cách hoạt động của
một số loại bức xạ rất quang trọng trong xây dựng kế hoạch xạ trị. Các bác sĩ xạ trị ung
thư sẽ lựa chọn loại và năng lượng phóng xạ phù hợp nhất đối với mỗi khối u của bệnh
nhân.
Những loại bức xạ thường gặp dùng để điều trị ung thư bao gồm:
 Photon năng lượng cao: bắt nguồn từ những nguồn phóng xạ như coban, cesium,
hoặc máy gia tốc tuyến tính (linear accelerator - còn được gọi tắt là linac). Chúng
là loại xạ trị được dùng nhiều nhất ngày nay.
 Tia electron: được sản xuất bởi máy gia tốc tuyến tính, dùng cho những khối u
gần bề mặt cơ thể do độ xuyên thấu của chúng kém hơn khi đến các mô sâu hơn.
 Proton: là một dạng điều trị mới. Proton là một phần của nguyên tử gây ra những
tổn thương nhỏ cho các mô mà chúng đi qua những chúng rất tốt để tiêu diệt
những tế bào ở cuối đường đi của chúng. Điều này có nghĩa là các tia proton cho
phép đưa nhiều bức xạ đến ung thư hơn nhưng lại gây ra ít tác dụng phụ cho
những mô bình thường xung quanh hơn. Proton được dùng thường xuyên cho một
số loại ung thư nhưng cũng cần phải nghiên cứu thêm để điều trị những loại ung
thư khác. Một số kỹ thuật dùng trong điều trị bằng proton cũng có thể thực hiện ở
những bệnh nhân điều trị bằng neutron. Điều trị bằng tia xạ proton đòi hỏi phải có
những thiết bị mang tính chuyên biệt cao và hiện nay chỉ được thực hiện ở một số
cơ sở y tế mà thôi.
 Neutron: được dùng điều trị cho một số loại ung thư ở đầu, cổ và tiền liệt tuyến.
Đôi khi chúng cũng có ích khi những dạng xạ trị khác không có tác dụng. Tuy
nhiên, chúng được sử dụng ngày càng ít đi do những tác dụng phụ lâu dài mà
chúng gây ra.
MỤC TIÊU ĐIỀU TRỊ
Xạ trị được xem là cách điều trị cục bộ do chỉ có những tế bào bên trong và xung quanh
ung thư là bị ảnh hưởng. Chúng không có ích khi điều trị những ung thư đã xâm lấn ra
những phần xa của cơ thể do hầu hết các loại xạ trị không có tác dụng trên toàn bộ cơ thể.
Xạ trị có thể được dùng để:
 Trị hết hoặc thu nhỏ những khối u ở giai đoạn sớm: Một số ung thư rất nhạy

cảm với tia xạ. Trong những trường hợp đó xạ trị có thể được dùng để thu nhỏ
khối u lại hoặc làm chúng biến mất hoàn toàn. Đối với các loại ung thư khác, xạ
trị thường được thực hiện trước phẫu thuật để thu nhỏ khối u lại (trị liệu tiền
phẫu) hoặc sau phẫu thuật để phòng ngừa ung thư xuất hiện trở lại (trị liệu hỗ trợ).
Xạ trị cũng được sử dụng cùng với hóa trị trong một số trường hợp. Khi sử dụng
xạ trị cùng với những phương pháp điều trị khác, kế hoạch điều trị sẽ được thiết
lập bởi các bác sĩ phẫu thuật, bác sĩ ung bướu, bác sĩ xạ trị và bệnh nhân.
 Ngăn ung thư tái phát ở khu vực khác: Nếu một loại ung thư đã được biết có
khả năng lan đến một khu vực nhất định nào đó, các bác sĩ thường cho rằng một ít
tế bào ung thư có thể đã lan đến những khu vực đó, ngay cả khi những khảo sát
hình ảnh (MRI hoặc CT) không phát hiện thấy khối u. Khu vực đó có thể được xạ
trị để giữ những tế bào ung thư không thể phát triển thành khối u được. Chẳng
hạn như, những bệnh nhân bị một số thể ung thư phổi có thể cần phải được xạ trị
dự phòng (prophylactic) ở vùng đầu do loại ung thư này thường lan đến não.
 Điều trị triệu chứng ở những trường hợp ung thư nặng: Một số loại ung thư
đã phát triển xa đến mức không thể chữa khỏi được. Nhưng điều đó không có
nghĩa là không thể điều trị được nữa để giúp bệnh nhân cảm thấy khá hơn. Xạ trị
có thể giúp làm giảm những triệu chứng như đau, khó nuốt hoặc khó thở, hoặc
những triệu chứng tiêu hóa có thể gây ra bởi ung thư giai đoạn nặng.
CÁC PHƯƠNG PHÁP XẠ TRỊ
Hầu hết mọi người đều cho rằng xạ trị được thực hiện từ một loại máy nằm bên ngoài cơ
thể. Nhưng thật ra có nhiều cách để xạ trị khác nhau.
Xạ trị từ bên ngoài
Là cách xạ trị được dùng rộng rãi nhất. Tia xạ xuất phát từ máy nằm ngoài cơ thể và tập
trung vào khu vực bị ảnh hưởng bởi ung thư. Nó gần giống với khi chụp X quang nhưng
với thời gian lâu hơn. Loại tia xạ này thường được phát ra bởi máy gia tốc tuyến tính.
Tia xạ sẽ được hướng đến khối u nhưng cũng có thể ảnh hưởng đến những mô bình
thường mà nó đi qua trên đường đi vào và ra khỏi cơ thể. Xạ trị từ bên ngoài cho phép
điều trị một vùng lớn trên cơ thể và có thể điều trị nhiều vùng cùng lúc chẳng hạn như
khối u chính và những hạch bạch huyết gần đó. Cách này thường được sử dụng để điều

trị mỗi ngày trong vòng vài tuần.
Một số loại mới của cách xạ trị này làm cho phương pháp xạ trị trở nên an toàn hơn và
hiệu quả hơn.
Kế hoạch điều trị: tiến trình lên kế hoạch điều trị rất phức tạp và có thể mất vài ngày để
hoàn thành. Nhưng nó lại là một trong những bước chính yếu của quá trình xạ trị. Bác sĩ
sẽ thiết kế quá trình điều trị cho bạn. Bạn sẽ nhận được liều xạ trị mạnh nhất đến khối u
nhưng những mô lành được bảo vệ nhiều nhất có thể. Do đó, có thể giúp bạn giảm những
tác dụng phụ có thể mắc phải.
Bước đầu tiên của quá trình lên kế hoạch được gọi là bước mô phỏng. Bạn sẽ được yêu
cầu nằm im trên bàn trong khi các bác sĩ tính toán tư thế điều trị tốt nhất cho bạn. Sau đó
họ sẽ đánh dấu vùng xạ trị là vị trí chính xác trên cơ thể của bạn mà tia xạ sẽ được nhắm
đến. Các bác sĩ có thể sẽ dùng những khảo sát hình ảnh như CT scan để kiểm tra kích
thước của khối u, dự đoán xem nó có khả năng lan đến vùng nào nhiều nhất, vạch ranh
giới những mô lành nằm bên trong khu vực điều trị, đo đạc và vạch ra kế hoạch điều trị.
Qua một quá trình đo đạc phức tạp, các chương trình trên vi tính sẽ tính ra mức độ phóng
xạ mà những cấu trúc bình thường bên cạnh sẽ phải đón nhận để từ đó tính ra được liều
phóng xạ điều trị.
Các bác sĩ và những nhà đo đạc sẽ làm việc với nhau để quyết định liều phóng xạ mà bạn
sẽ nhận và những cách tốt nhất để nhắm nó đến khối u dựa vào các yếu tố như: kích
thước khối u, độ nhạy cảm đối với tia xạ của khối u và mức độ chịu đựng của những mô
lành ở khu vực đó.
Tính liều và điều trị
Tổng liều xạ trị mà bạn sẽ nhận được tính bằng đơn vị Gray (Gy). Thông thường liều sẽ
được thể hiện bằng centigray (cGy), bằng 0.01 Gy. Đối với xạ trị từ bên ngoài, liều tổng
cộng thường được chia ra thành nhiều liều nhỏ và được cho trong vài tuần. Như vậy bệnh
nhân sẽ nhận được liều tốt nhất trong khi mô lành ít bị tổn thương nhất. Chẳng hạn như
quá trình điều trị thường được cho 5 ngày mỗi tuần trong vòng 5 đến 8 tuần.
Đối với một số loại ung thư, bệnh nhân có thể được điều trị nhiều hơn 1 lần mỗi ngày:
 Xạ trị tăng phân liều: là khi liều mỗi ngày được chia ra làm 2 đợt điều trị mà
không thay đổi độ dài quá trình điều trị. Ở trường hợp này, bạn sẽ được điều trị 2

lần mỗi ngày trong vòng vài tuần.
 Xạ trị tăng tốc: là khi tổng liều xạ trị được cho trong một khoảng thời gian ngắn
hơn bằng cách cho cùng một liều xạ trị nhưng với mức độ thường xuyên hơn
(nhiều hơn 1 lần/ngày).
Lịch xạ trị này giúp điều trị hiệu quả hơn trong một số ung thư nhưng mặt trái của nó là
những tác dụng phụ sẽ xuất hiện sớm hơn và có thể nặng nề hơn.
Điều quan trọng là bạn được xạ trị với chính xác cùng một cách mỗi lần để tia xạ với một
liều lượng chính xác có thể đến được đúng vị trí. Đối với xạ trị từ bên ngoài, bạn có thể
sẽ phải bị đánh một dấu nhỏ, lâu phai hoặc tồn tại vĩnh viễn (hình xăm) lên cơ thể để xác
định vị trí tia xạ cần nhắm đến. Bạn sẽ phải giữ cùng một tư thế trong suốt mỗi đợt điều
trị có thể kéo dài khoảng 30 phút. Đôi khi có thể cần phải dùng khung để giữ cho phần cơ
thể được điều trị ở cùng một vị trí trong lúc xạ trị. Các bác sĩ cũng có thể sẽ làm cho bạn
những áo giáp đặc biệt để bảo vệ những phần còn lại của cơ thể khỏi bị tiếp xúc với tia
xạ.
Xạ trị từ bên trong
Một vật chứa chất phóng xạ sẽ được đặt vào bên trong khối u hoặc bên trong khoang của
cơ thể gần với khối u. Ưu điểm của phương pháp này là có thể truyền một liều xạ lớn đến
một vùng nhỏ. Nó hữu ích trong những trường hợp cần liều xạ cao hoặc liều xạ cao hơn
mức chịu dựng của những mô bình thường nếu được đưa vào từ bên ngoài. Xạ trị từ bên
trong có những loại chính sau:
 Xạ trị trong kẽ: nguồn bức xạ được đặt trực tiếp vào bên trong hoặc bên cạnh khối
u bằng những viên, hạt nhỏ, dây, ống hoặc đồ đựng.
 Xạ trị trong khoang: túi đựng vật chất phóng xạ được đặt vào một trong các
khoang của cơ thể như ngực, tử cung, hoặc âm đạo.
Các bác sĩ có thể dùng siêu âm, X quang, hoặc CT để giúp đặt nguồn phóng xạ vào đúng
vị trí. Nguồn phóng xạ có thể được đặt lâu dài hoặc tạm thời:
 Xạ trị từ bên trong lâu dài các bác sĩ sử dụng những vật chứa nhỏ có kích thước
bằng một hạt gạo đặt trực tiếp vào khối u bằng các cây kim nhỏ và rỗng ruột. Khi
đã được đặt vào đúng vị trí, các vật chứa này có thể phát phóng xạ trong vòng vài
tuần đến vài tháng. Do chúng rất nhỏ và chỉ gây một chút khó chịu nên sau khi vật

chất phóng xạ đã được sử dụng hết, chỉ cần giữ chúng lại y nguyên chỗ cũ.
 Xạ trị từ bên trong tạm thời: có thể sử dụng ở liều cao hoặc thấp. Cả hai cách này
đều phải đặt tạm thời một cây kim rỗng, ống hoặc bóng có chứa đầy dịch vào khu
vực cần điều trị. Những vật chất phóng xạ có thể được đặt vào vật chứa trong một
khoảng thời gian ngắn rồi sau đó được lấy đi. Đối với xạ trị tạm thời liều cao,
nguồn phóng xạ sẽ được đặt trong khoảng 10 đến 20 phút mỗi lần rồi sau đó được
lấy ra. Tiến trình này có thể được lặp lại 2 lần mỗi ngày trong vòng vài ngày hoặc
một lần mỗi tuần trong vòng vài tuần. Đối với xạ trị tạm thời liều thấp, nguồn xạ
trị được đặt trên 7 ngày. Để tránh nguồn xạ trị được đặt vào cơ thể bị lệch khỏi vị
trí, bạn sẽ cần phải nằm tại giường và tương đối im lặng. Do đó, có thể bạn sẽ
được giữ lại bệnh viện khi phải xạ trị tạm thời liều thấp.
Trong quá trình xạ trị ít khi bạn gặp những cơn đau hoặc mệt mỏi nặng nề. Bạn có thể sẽ
cảm thấy buồn ngủ, yếu ớt, buồn nôn trong một khoảng thời gian ngắn do thuốc mê được
dùng khi được cấy nguồn xạ trị vào cơ thể. Hãy báo với y tá nếu bạn gặp bất kỳ tác dụng
phụ bất thường nào như nóng rát hoặc vã mồ hôi. Thông thường không cần phải sử dụng
thuốc tê khi lấy nguồn phóng xạ ra khỏi cơ thể. Hầu hết các trường hợp có thể được lấy ra
ngay trong bệnh phòng. Nếu bạn phải nằm tại giường trong quá trình điều trị, bạn có thể
sẽ phải nằm lại bệnh viện thêm một ngày nữa để có thể lấy nguồn phóng xạ ra.
Khi nguồn phóng xạ được lấy ra, sẽ không còn phóng xạ bên trong cơ thể bạn nữa. Các
bác sĩ sẽ thông báo cho bạn nếu như bạn cần phải hạn chế vận động thể lực một thời gian.
Hầu hết các bệnh nhân được khuyến khích làm theo ý thích càng nhiều càng tốt. Nhiều
người cần được ngủ thêm hoặc nghỉ ngơi trong ngày đầu tiên về nhà, nhưng có thể bạn sẽ
cảm thấy mạnh hơn một cách nhanh chóng. Đôi khi, vùng cơ thể được xạ trị sẽ bị đau
hoặc nhạy cảm sau khi điều trị.
Thuốc xạ trị
Thuốc xạ trị là những loại thuốc có chứa chất phóng xạ, chúng có thể được đưa vào cơ
thể qua đường tiêm tĩnh mạch, đường uống, hoặc dưa vào các khoang của cơ thể. Tùy
thuộc vào thuốc và các đưa thuốc vào cơ thể, những vật chất phóng xạ sẽ đến nhiều vùng
khác nhau của cơ thể để điều trị ung thư.
Điều trị đau xương

Strontium 89 và samarium 153 là những thuốc xạ trị thường được sử dụng cho các khối u
đã lan đến xương (di căn xương). Những thuốc khác hiện nay đang được nghiên cứu.
Những thuốc này được cho qua đường tĩnh mạch và bám vào những vùng của xương có
các tế bào ung thư. Tia xạ sẽ tiêu diệt các tế bào ung thư và làm giảm những cơn đau gây
ra do di căn xương.
Đối với những ung thư đã lan đến nhiều xương khác nhau thì cách điều trị này tốt hơn
nhiều so với cách bắn chùm tia xạ từ bên ngoài vào từng xương một. Loại thuốc này cũng
được dùng cùng lúc với xạ trị từ bên ngoài hướng đến những di căn xương gây đau nhất.
Sự kết hợp này đã giúp nhiều nam giới bị ung thư tiền liệt tuyến, nhưng công dụng của
nó với những loại ung thư khác vẫn chưa được nghiên cứu nhiều.
Một số bệnh nhân cảm thấy cơn đau xương tăng lên trong vòng 1 hoặc 2 ngày sau điều
trị. Những loại thuốc này cũng làm giảm số lượng tế bào máu, đặc biệt là bạch cầu (làm
tăng nguy cơ nhiễm trùng) và tiểu cầu (làm tăng nguy cơ bị bầm tím hoặc chảy máu).
Điều trị ung thư tuyến giáp
Tuyến giáp hấp thu gần như toàn bộ iod bên trong máu, do đó iod phóng xạ (còn được
gọi là iod 131) có thể được dùng để tiêu hủy tuyến giáp và ung thư tuyến giáp mà chỉ cho
rất ít tác dụng phụ đối với phần còn lại của cơ thể. Cách điều trị này thường được dùng
sau khi phẫu thuật ung thư tuyến giáp để tiêu hủy bất kỳ các tế bào giáp nào vẫn còn sót
lại hoặc điều trị một số loại ung thư tuyến giáp đã di căn đến các hạch bạch huyết và
những vùng khác của cơ thể.
Xạ trị liều thấp có thể không đòi hỏi bệnh nhân phải nhập viện, nhưng liều điều trị ung
thư giáp thông thường đòi hỏi bệnh nhân phải nhập viên từ 2 đến 3 ngày. Iod phóng xạ sẽ
ra khỏi cơ thể vài tuần sau điều trị. Tại thời điểm này, các bác sĩ có thể kiểm tra xem độ
hiệu quả của điều trị.
Iod phóng xạ ít cho tác dụng phụ ngắn hạn nhưng có thể bao gồm nhạy cảm đau ở cổ,
buồn nôn và kích thích dạ dày, nhạy cảm đau ở các tuyến nước bọt và khô miệng. Liều
cao có thể gây giảm tế bào máu. Nam giới có thể bị vô sinh sau khi được điều trị liều cao.
Iod phóng xạ cũng có thể cho một số nguy cơ lâu dài,. Những cuộc nghiên cứu lớn cho
thấy có thể có sự gia tăng rất nhẹ nguy cơ bị bệnh bạch cầu trong tương lai.
Những phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ nên tránh có thai trong vòng ít nhất 1 năm sau khi

điều trị, ngay cả khi chưa có bằng chứng gây dị tật bẩm sinh nếu có thai sau khi điều trị.
Phosphorus 32
Dạng phosphorus này (còn có tên là P-32 hoặc cromic phosphate P 32) được đặt bên
trong khối u não dạng nang (rỗng) để tiêu diệt khối u mà không gây tổn thương cho
những mô bình thường xung quanh. Trước đây, P-32 được cho qua đường tĩnh mạch và
là cách điều trị phổ biến cho một bệnh về máu có tên là tăng hồng cầu nguyên phát
(polycythemia vera). P-32 cũng được đặt vào bên trong bụng (trong khoang phúc mạc) để
điều trị ung thư buồng trứng. Ngày nay cách này hiếm còn được dùng nữa.
Kháng thể gắn phóng xạ
Những kháng thể đơn dòng là phiên bản nhân tạo của các protein của hệ thống miễn dịch
chỉ tấn công trên những mục tiêu phân tử chuyên biệt ở các tế bào ung thư nhất định. Các
nhà khoa học đã biết cách gắn những kháng thể này với các nguyên tử phóng xạ. Khi
được tiêm vào máu, các kháng thể chỉ tấn công vào đúng mục tiêu của chúng và mang
phóng xạ đến trực tiếp vị trí của các tế bào ung thư.
Kháng thể gắn phóng xạ được sử dụng để điều trị một số thể lymphoma không Hodgkin,
đặc biệt là ở những trường hợp không đáp ứng với những cách điều trị khác. Chúng có
thể gây các phản ứng dị ứng khi sử dụng lần đầu. Chúng cũng có thể làm giảm số lượng
tế bào máu làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và giảm tiểu cầu gây tăng nguy cơ thâm tím
hoặc chảy máu.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×