Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Trang 1
BÁN PHÁ GIÁ & CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ - LIÊN HỆ THỰC TIỄN
I. BÁN PHÁ GIÁ:
1.Khái niệm bán phá giá:
- Pháp lệnh Giá của Việt Nam đưa ra
định nghĩa : "Bán phá giá là hành vi bán
hàng hoá, dịch vụ với giá quá thấp so với
giá thông thường trên thị trường Việt Nam
để chiếm lĩnh thị trường, hạn chế cạnh
tranh đúng pháp luật gây thiệt hại đến lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất
kinh doanh khác và lợi ích Nhà nước".
- Trong thương mại quốc tế, theo quy định
tại Điều 2.1, Hiệp định Chống bán phá giá
của WTO thì :
- Một sản phẩm được coi là bị bán phá giá
khi giá xuất khẩu sản phẩm đó thấp hơn:
+ Giá có thể so sánh được trong
điều kiện thương mại thông
thường ("giá trị thông thường")
+ Giá của sản phẩm tương tự khi
tiêu thụ ở thị trường nước xuất
khẩu.
- WTO không đề cập đến trường hợp bán
phá giá sản phẩm tương tự trong thị trường
nội địa của một nước.
+ Sản phẩm tương tự (SPTT): là sản
phẩm giống hệt hoặc có các đặc tính gần
giống với sản phẩm là đối tượng điều tra.
+ Điều kiện thương mại thông
thường: tuy không có định nghĩa về điều
kiện thương mại thông thường nhưng có
một số trường hợp, khi giá bán tại thị
trường nội địa nước xuất khẩu thấp hơn giá
thành sản xuất thì có thể coi như là không
nằm trong điều kiện thương mại thông
thường.
2. Nguyên tắc xác định phá giá:
+ Biên độ phá giá (BĐPG) =
giá trị thông thường (GTTT) - giá
xuất khẩu (GXK)
+ Nếu BĐPG > 0 là có phá
giá
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Trang 2
+ BĐPG có thể tính bằng trị
giá tuyệt đối hoặc theo phần trăm
theo công thức:
+ BĐPG = (GTTT-
GXK)/GXK
a.)Tính biên độ phá giá ( BĐPG):
Cách tính GTTT
Trường hợp không có giá nội địa của
SPTT ở nước xuất khẩu do:
- SPTT không được bán nước xuất
khẩu trong điều kiện thương mại thông
thường; hoặc
- Có bán ở nước xuất khẩu nhưng
trong điều kiện đặc biệt; hoặc
- Số lượng bán ra không đáng kể (<
5% số lượng SPTT bán ở nước nhập khẩu
thì:
GTTT = giá xuất khẩu SPTT sang
nước thứ ba ; hoặc
GTTT = giá thành sản xuất + chi phí (hành
chính, bán hàng, quản lý chung…) + lợi
nhuận
Trường hợp SPTT được xuất khẩu từ
một nước có nền kinh tế phi thị trường (giá
bán hàng và giá nguyên liệu đầu vào do
chính phủ ấn định) thì các qui tắc trên
không được áp dụng để xác định GTTT.
b.)Cách tính GXK:
GXK = giá mà nhà sản xuất nước ngoài
bán SPTT cho nhà nhập khẩu đầu tiên.
Trường hợp giá bán SPTT không tin cậy
được do:
Giao dịch xuất khẩu được thực hiện
trong nội bộ công ty; hoặc
Theo một thỏa thuận đền bù nào đó
thì:
GXK = giá mà sản phẩm nhập khẩu được
bán lần đầu tiên cho một người mua độc
lập ở nước nhập khẩu.
So sánh GTTT và GXK:
Để so sánh một cách công bằng
GTTT và GXK, Hiệp định qui định
nguyên tắc so sánh như sau:
- So sánh hai giá này trong cùng điều
kiện thương mại (cùng xuất xưởng/bán
buôn/bán lẻ), thường lấy giá ở khâu xuất
xưởng;
- Tại cùng một thời điểm hoặc thời điểm
càng gần nhau càng tốt.
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Trang 3
Việc so sánh GTTT và GXK là cả một
quá trình tính toán rất phức tạp, vì không
phải bao giờ cũng có sẵn mức giá xuất
xưởng của GTTT và GXK mà chỉ có mức
giá bán buôn hoặc bán lẻ của SPTT ở thị
trường nước xuất khẩu (GTTT+) và giá
tính thuế hải quan, giá hợp đồng hoặc giá
bán buôn/bán lẻ SPTT của nhà nhập khẩu
(GXK+) nên thường phải có một số điều
chỉnh để có thể so sánh GTTT và GXK
một cách công bằng.
Điều chỉnh các chênh lệch trong:
- Điều kiện bán hàng
- Các loại thuế
- Số lượng sản phẩm
- Đặc tính vật lý của sản phẩm
- Và những yếu tố khác ảnh hưởng đến
việc so sánh hai giá
3. Phân loại bán phá giá:
Có 3 loại bán phá giá:
Bán phá giá dai dẳng
Bán phá giá thường xuyên
Bán phá giá không thường xuyên
Trong việc bán phá giá dai dẳng, thì
hàng hóa liên tục được bán với một giá
thấp hơn so với giá cả trong nước nhập
khẩu. Tình trạng này là tình trạng mà trong
đó hàng hóa đơn giản là hàng nhập khẩu
khác được bán dưới những điều kiện tối đa
hóa lợi nhuận. Bất kỳ hàng rào thương mại
nào cũng sẽ dẫn đến một giá cả cao hơn
đối với người tiêu dùng trong nước nhập
khẩu và ảnh hưởng của phúc lợi của chúng
Trong bán phá giá thường xuyên,
một xí nghiệp nước ngoài sẽ bán tại giá cả
thấp cho đến khi những nhà sản xuất trong
nước bị loại ra khỏi thị trường; lúc đó giá
cả sẽ gia tăng bởi sự độc quyền xuất hiện.
Những nhà sản xuất trong nước lúc đó có
thể được lôi kéo trở lại thị trường cho đến
khi giá cả giảm xuống trở lại. Có một tranh
luận có giá trị cho việc bảo hộ với việc bán
phá giá thường xuyên do việc di chuyển
nguồn lực lãng phí. Khi những nhân tố sản
xuất di chuyển vào và ra một ngành bởi
ảnh hưởng của giá cả nhập khẩu thì chi phí
và và sự lãng phí đổ dồn cho xã hội
Việc bán phá giá không thường
xuyên sẽ xuất hiện khi nhà sản xuất nước
ngoài (hoặc chính phủ) với một thặng dư
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Trang 4
sản phẩm tạm thời xuất khẩu số này tại bất
cứ giá nào mà nó cần. Việc bán phá giá
theo kiểu này có thể có những ảnh hưởng
xấu tạm thời đến việc cạnh tranh với
những nhà cung cấp trong nước chủ nhà
bởi việc làm gia tăng rủi ro trong hoạt
động của ngành. Những rủi ro này cũng
như sự mất mát phúc lợi từ việc di chuyển
nguồn lực tạm thời có thể được tránh khỏi
bởi việc đưa ra chính sách bảo hộ, mặc dù
những ảnh hưởng phúc lợi khác có thể
được đưa vào trong phân tích khi xem xét
những hạn chế thương mại. Tuy nhiên,
việc bán phá giá thường xuyên dường như
không biện hộ được việc bảo hộ trong
ngắn hạn.
4.Điều kiện xem xét bán phá giá:
- Theo Hiệp định, để áp dụng biện pháp
chống bán phá giá, mỗi quốc gia phải
thông qua thủ tục điều tra và chứng minh
được 3 yếu tố:
Phải có hành vi bán phá giá của
hàng hoá nước ngoài trên thị
trường trong nước
Hành vi bán phá giá phải gây
thiệt hại đáng kể, hoặc đe doạ
gây thiệt hại nghiêm trọng đến
ngành sản xuất trong nước của
quốc gia nhập khẩu.
Quốc gia nhập khẩu phải chứng
minh được mối quan hệ nhân
quả giữa việc bán phá giá và
thiệt hại, hoặc nguy cơ gây thiệt
hại nghiêm trọng cho ngành sản
xuất trong nước mình.
* Xác định thiệt hại:
Định nghĩa thiệt hại:
Thiệt hại về vật chất đối với một
ngành sản xuất trong nước (thiệt
hại hiện tại); hoặc
Nguy cơ gây thiệt hại về vật
chất đối với một ngành sản xuất
trong nước (thiệt hại tương lai);
hoặc
Làm trì trệ sự phát triển một
ngành sản xuất trong nước
(không có qui định cụ thể).
Như vậy, để xác định thiệt hại cần xem
xét các nhân tố sau:
(i) Khối lượng hàng nhập khẩu bị bán phá
giá: có tăng một cách đáng kể không?
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Trang 5
(ii) Tác động của hàng nhập khẩu đó lên
giá SPTT: giá của hàng nhập khẩu đó:
- Có rẻ hơn giá SPTT sản xuất ở nước
nhập khẩu nhiều không?
- Có làm sụt giá hoặc kìm giá SPTT ở
thị trường nước nhập khẩu không?
=> Khi sản phẩm thuộc diện điều tra được
nhập khẩu từ nhiều nước: đánh giá gộp tác
động nếu BĐPG >= 2% GXK và khối
lượng hàng nhập khẩu từ mỗi nước >= 3%
khối lượng nhập khẩu SPTT.
Việc khảo sát tác động của hàng
nhập khẩu bị bán phá giá đối với một
ngành sản xuất trong nước phải xem xét tất
cả các yếu tố kinh tế có thể ảnh hưởng đến
ngành sản xuất đó, gồm những yếu tố sau:
- Năng suất
- Thị phần
- Biên độ phá giá
- Giá nội địa ở nước nhập
khẩu
- Suy giảm thực tế và nguy
cơ suy giảm doanh số bán hàng
- Số lượng hàng tồn kho
- Sản lượng
- Tình trạng thất nghiệp
- Lương
- Tác động tiêu cực đến
luồng tiền
- Huy động năng lực
- Lợi nhuận
- Tỷ lệ thu hồi vốn đầu tư
- Đầu tư
- Khả năng huy động vốn
- Tốc độ tăng trưởng
Khi xác định mối liên hệ giữa việc
bán phá giá hàng nhập khẩu và thiệt hại
cho một ngành sản xuất trong nước: cần
tính đến những yếu tố khác (ngoài việc bán
phá giá), nếu các yếu tố này gây thiệt hại
cho ngành sản xuất đó thì không được quy
thiệt hại của ngành sản xuất đó do hàng
nhập khẩu bị bán phá giá gây ra.
* Nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản
xuất trong nước :
Để xác định nguy cơ gây thiệt hại cho
ngành sản xuất trong nước cần xem xét:
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Trang 6
Tốc độ tăng nhập khẩu và khả
năng tăng nhập khẩu trong
tương lai;
Khả năng tăng năng lực xuất
khẩu của nhà xuất khẩu dẫn đến
khả năng tăng nhập khẩu;
Tình hình hàng nhập khẩu làm
sụt giá SPTT ở nước nhập khẩu;
Số lượng tồn kho SPTT ở nước
nhập khẩu
5. Chống bán phá giá, các hình
thức chống bán phá giá:
Trong thương mại quốc tế, khi hàng
hóa bị xem là bán phá giá thì chúng có thể
bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá
(antidumping) như: thuế chống phá giá,
đặt cọc hoặc thế chấp, cam kết hạn chế
định lượng hoặc điều chỉnh mức giá của
nhà xuất khẩu nhằm triệt tiêu nguy cơ gây
thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước
nhập khẩu, trong đó thuế chống bán phá
giá là biện pháp phổ biến nhất hiện nay.
Về thực chất, thuế chống bán phá giá là
một loại thuế nhập khẩu bổ sung đánh vào
những hàng hóa bị bán phá giá ở nước
nhập khẩu nhằm hạn chế những thiệt hại
do việc bán phá giá đưa đến cho ngành sản
xuất của nước đó nhằm bảo đảm sự công
bằng trong thương mại (nói chính xác đó là
một sự bảo hộ hợp lý cho sản xuất trong
nước). Thuế này đánh vào các nhà sản xuất
riêng lẻ chứ không phải là thuế áp đặt
chung cho hàng hóa của một quốc gia.
Nguyên tắc chung nêu ra trong Hiệp định
của WTO là không được phân biệt đối xử
khi áp dụng thuế chống phá giá, tức là nếu
hàng hóa bị bán phá giá được xuất khẩu từ
những quốc gia khác nhau với cùng biên
độ phá giá như nhau thì sẽ áp đặt mức thuế
chống phá giá ngang nhau. Mức thuế
chống phá giá sẽ phụ thuộc vào biên độ
phá giá của từng nhà xuất khẩu chứ không
phải áp dụng bình quân (ngay cả khi các
nhà xuất khẩu từ cùng một quốc gia) và
không được phép vượt quá biên độ phá giá
đã được xác định.
* Có 2 hình thức thu thuế chống bán
phá giá:
- Kiểu tính thuế hồi tố (kiểu của Hoa kỳ):
+ Việc tính mức thuế được căn cứ
vào số liệu của thời điểm trước khi điều tra
(6 tháng - 1 năm). Sau khi điều tra, cơ
quan chức năng bắt đầu áp dụng một mức
thuế chống bán phá giá. Sau khi áp dụng
được một thời gian, nếu nhà nhập khẩu yêu
cầu đánh giá lại mức thuế (do giá xuất
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Trang 7
khẩu tăng lên) thì cơ quan chức năng sẽ
tiến hành xác định lại số tiền thuế phải nộp
trong vòng 12 tháng, chậm nhất là 18
tháng ngay sau khi nhận được yêu cầu. Sau
đó mức thuế mới sẽ được áp dụng. Việc
hoàn thuế sẽ được thực hiện trong vòng 90
ngày sau khi xác định lại mức thuế cuối
cùng phải nộp.
- Kiểu tính thuế ấn định (kiểu của EU):
+ Cơ quan điều tra lấy số liệu của
thời điểm trước khi điều tra để tính biên độ
phá giá và ấn định biên độ này cho cả quá
trình áp dụng thuế chống bán phá giá. Sau
khi áp dụng được một thời gian, nếu nhà
nhập khẩu đề nghị hoàn thuế với phần trị
giá cao hơn biên độ phá giá (do giá xuất
khẩu tăng) thì cơ quan chức năng sẽ tiến
hành xem xét việc hoàn thuế trong vòng 12
tháng, chậm nhất là 18 tháng ngay sau khi
nhận được đề nghị hoàn thuế kèm theo đầy
đủ bằng chứng. Việc hoàn thuế sẽ được
thực hiện trong vòng 90 ngày kể từ khi ra
quyết định hoàn thuế.
- Tuy nhiên, không phải bất kỳ trường hợp
bán phá giá nào cũng bị áp đặt các biện
pháp chống bán phá giá. Theo quy định
của WTO cũng như luật pháp của rất nhiều
nước thì thuế chống bán phá giá chỉ được
áp đặt khi hàng hóa được bán phá giá gây
thiệt hại đáng kể hay đe dọa gây thiệt hại
đáng kể cho ngành sản xuất ở nước nhập
khẩu. Như vậy, nếu một hàng hóa được
xác định là có hiện tượng bán phá giá
nhưng không gây thiệt hại đáng kể cho
ngành sản xuất mặt hàng đó ở nước nhập
khẩu thì sẽ không bị áp đặt thuế chống bán
phá giá và các biện pháp chống phá giá
khác. Thiệt hại cho ngành sản xuất trong
nước được hiểu là tình trạng suy giảm
đáng kể về sản lượng, mức tiêu thụ trong
nước, lợi nhuận sản xuất, tốc độ phát triển
sản xuất, việc làm cho người lao động, đầu
tư tới các chỉ tiêu khác của ngành sản xuất
trong nước hoặc dẫn đến khó khăn cho
việc hình thành một ngành sản xuất trong
nước. Bán phá giá được xác định dựa vào
2 yếu tố cơ bản là: 1- Biên độ phá giá từ
2% trở lên; 2- Số lượng, trị giá hàng hóa
bán phá giá từ một nước vượt quá 3% tổng
khối lượng hàng nhập khẩu (ngoại trừ
trường hợp số lượng nhập khẩu của các
hàng hóa tương tự từ mỗi nước có khối
lượng dưới 3%, nhưng tổng số các hàng
hóa tương tự của các nước khác nhau được
xuất khẩu vào nước bị bán phá giá chiếm
trên 7%).
II.VAI TRÒ VÀ TÁC HẠI CỦA BÁN
PHÁ GIÁ VÀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ:
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Trang 8
Tác động lớn nhất của bán phá giá là
việc gây ra tổn thất vật chất cho ngành sản
xuất trong nước. Tổn thất này rất lớn xét
trên cả góc độ vĩ mô và vi mô. Trên góc độ
vĩ mô, khi một ngành sản xuất bị đe dọa sẽ
dẫn đến việc phá sản của nhiều doanh
nghiệp thuộc ngành đó. Kéo theo đó là tình
trạng mất việc làm của công nhân và các
tác động “lan chuyền” sang các ngành kinh
tế khác. Trên góc độ vi mô, đối mặt với
hiện tượng bán phá giá, doanh nghiệp sẽ bị
mất thị trường và mất lợi nhuận. Đây thực
sự là mối lo ngại không chỉ của các nước
phát triển mà của cả các nước đang phát
triển, vì lợi thế so sánh của các nước luôn
thay đổi và cạnh tranh ngày càng trở nên
gay gắt hơn trên thị trường quốc tế.
Xét ở góc độ người tiêu dùng, việc
hàng hóa nước ngoài được bán phá giá sẽ
mang lại những lợi ích cụ thể, trước mắt
cho họ do mua được hàng hóa với giá rẻ.
Tuy nhiên, việc bán phá giá sẽ kéo theo
hàng loạt những tác động xấu cho các
ngành sản xuất trong nước. Nó dần dần
bóp chết các ngành sản xuất non trẻ và
thiếu sức cạnh tranh. Ngoài ra, một khi
hàng hóa bán phá giá đã chiếm lĩnh được
thị trường thì các nhà xuất khẩu chắc chắn
không dừng lại ở đó mà họ sẽ nâng dần giá
hàng để thu lợi nhằm bù đắp những chi phí
của việc bán phá giá. Lúc đó, người tiêu
dùng sẽ phải mua hàng hóa với giá cao.
Chống phá giá là một công cụ lợi hại
mà các nước đang sử dụng như một con
bài để bảo hộ sản xuất trong nước và bảo
đảm một nền thương mại công bằng.
Thông thường thì tranh chấp liên
quan tới bán phá giá chỉ thuần tuý mang
tính thương mại, nhưng đôi khi ẩn đằng
sau lại là các vấn đề có tính chính trị nhạy
cảm tại nước nhập khẩu cũng như giữa
nước nhập khẩu với nước xuất khẩu. Tại
nước nhập khẩu việc điều tra và áp dụng
các biện pháp chống bán phá giá sẽ động
chạm trực tiếp tới lợi ích vật chất của hai
nhóm lợi ích căn bản là những nhà sản
xuất mặt hàng tương tự và những người
tiêu dùng mặt hàng đó, trong số này phải
kể tới những nhà sản xuất sử dụng mặt
hàng này như đầu vào cho quá trình sản
xuất của họ.
Mặc dù lợi ích chung của toàn xã hội
có thể bị giảm nếu áp dụng biện pháp
chống bán phá giá nhưng thông thường do
sức mạnh chính trị của các nhà sản xuất
cao hơn của nhóm còn lại nên cơ quan có
thẩm quyền vẫn đưa ra những quyết định
có lợi cho họ. Chính vì vậy trong một số
tranh chấp dù cho nước xuất khẩu rất tích
cực vận động nhưng do bối cảnh chính trị
ở nước nhập khẩu mà kết quả cuối cùng
vẫn khó có thể thay đổi.
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Trang 9
III. TÌNH HÌNH ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG
BÁN PHÁ GIÁ TRÊN THẾ GIỚI:
Kể từ khi WTO ra đời, tính đến thời
điểm cuối năm 2001, trên thế giới đã có tất
cả 2132 cuộc điều tra về chống bán phá giá
và có tất cả là 1066 lần áp dụng thuế chống
bán phá giá (chiếm 50% tổng số cuộc điều
tra). Điều này thể hiện, không phải tất cả
các cuộc điều tra về chống bán phá giá đều
có kết luận dẫn đến việc áp dụng thuế
chống bán phá giá. Các loại mặt hàng chịu
thuế chống bán phá giá thường là các sản
phẩm dệt may, giầy dép, sắt thép, kim loại
và một số sản phẩm công nghiệp cơ khí,
v.v…
Trên thực tế, các nước áp dụng thuế
chống bán phá giá thường bị nước xuất
khẩu hàng hoá là đối tượng chịu thuế
chống bán phá giá khởi kiện đến WTO, cụ
thể là Cơ quan Giải quyết Tranh chấp. Các
vụ việc giải quyết tranh chấp về việc
chống bán phá giá luôn là vấn đề phức tạp
và gây nhiều tranh cãi. Đôi khi, kết quả
thường dẫn đến các hành vi trả đũa trong
thương mại, gây ra rất nhiều mâu thuẫn,
ảnh hưởng xấu đến tình hình thương mại
chung trên thế giới. Vì vậy, các quốc gia
thường rất thận trọng khi quyết định việc
áp dụng thuế chống bán phá giá đối với
hàng hoá nhập khẩu bị bán phá giá vào
nước mình.
Trong thực tiễn áp dụng thuế chống
bán phá giá trên thế giới, đã có nhiều nước
áp dụng biện pháp này trước khi WTO ra
đời. Căn cứ thống kê từ năm 1990, việc áp
dụng thuế chống bán phá giá hiện nay luôn
thể hiện sự tiến bộ và xu hướng phát triển
của các nước đang phát triển so với các
nước phát triển. Điều này được thể hiện
bằng biểu đồ dưới đây:
Một điểm cần quan tâm là không chỉ
có các nước phát triển áp dụng thuế chống
bán phá giá đối với các nước đang phát
triển và ngược lại. Các nước phát triển còn
áp dụng thuế chống bán phá giá đối với
các nước phát triển khác và điều này cũng
xảy ra tương tự đối với các nước đang phát
triển.
IV. THỰC TIỄN BÁN PHÁ GIÁ VÀ
CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ Ở VIỆT NAM.
PHÂN TÍCH VỀ MỘT SỐ BÀI HỌC
RÚT RA TỪ CÁC VỤ CHỐNG PHÁ
GIÁ ĐỐI VỚI CÁ DA TRƠN VÀ TÔM:
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Trang 10
1. Tình hình hàng xuất khẩu của
Việt Nam bị nước ngoài điều tra và áp
dụng thuế chống bán phá giá:
Hơn một thập kỷ qua Việt nam đã đạt
được thành tựu ngoạn mục trong việc đẩy
mạnh xuất khẩu hàng hóa. Tuy nhiên, tình
trạng hàng xuất khẩu của ta bị nước nhập
khẩu điều tra và áp dụng thuế chống bán
phá giá ngày càng tăng. Trong xu hướng
nhiều nước trên thế giới tăng cường sử
dụng biện pháp chống bán phá giá như một
công cụ bảo hộ thì có thể dự kiến rằng
trong thời gian tới chúng ta sẽ phải đối phó
với biện pháp này nhiều hơn khi kim
ngạch xuất khẩu nhiều mặt hàng tăng
mạnh.
2. Phân tích về một số bài học rút ra từ
vụ chống phá giá đối với cá da trơn:
a.) Khái quát về pháp luật chống
bán phá giá của Hoa Kỳ:
Chính sách chống phá giá của Hoa
kỳ được thể hiện thông qua Luật chống
bán phá giá năm 1921. Sau khi WTO ra
đời trên cơ sở kết quả đàm phán của vòng
Uruguay vào năm 1995, các quy định của
Hoa kỳ về chống bán phá giá phải tuân thủ
theo Hiệp định về chống bán phá giá của
WTO. Trên cơ sở đó, Hoa kỳ đã ban hành
Quy định về chống bán phá giá và chống
trợ cấp vào năm 1997, trong đó hướng dẫn
tiến trình thực hiện về điều tra và áp dụng
thuế chống bán phá giá.
b.) Vụ cá da trơn:
* Khi “Catfish” không được gọi là
“Catfish”
Câu
chuyện
về
vụ
cá
da
trơn
không
bắt
đầu
vào
ngày
28
tháng
6
năm
2002,
ngày
mà Hiệp
hội
Doanh
nghiệp
Cá
da
trơn
Mỹ
(CFA)
gửi
đơn
khởi
kiện
lên
ITC
và
DOC
và
tuyên bố
là
sản
phẩm
philê
cá
da
trơn
của
Việt
Nam
đã
bán
phá
giá.
Câu
chuyện
thực
chất
đã
bắt đầu
từ
một
năm
trước
đó
Vào
năm
2001,
các
nhà
sản
xuất
cá
da
trơn
của
Mỹ
sau
khi
bị các
nhà
sản
xuất
Việt
Nam
cạnh
tranh
mạnh
mẽ
đã
phát
động
thành
công
một
chiến
dịch tại
cả
cấp
bang
và
liên
bang
để
cấm
các
nhà
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Trang 11
sản
xuất
Việt
Nam
sử
dụng
từ
“catfish”
cho các
sản
phẩm
của
mình.
Cá
da
trơn
Việt
Nam,
vốn
rẻ
hơn
giá
thành
cá
da
trơn
tại
khu
vực Đông
Nam
của
nước
Mỹ,
đã
tăng
từ
0,6
triệu
pao
vào
năm
1998
lên
26
triệu
pao
vào năm
2001.
Hiệp
định
thương
mại
giữa
Việt
Nam
và
Hoa
Kỳ
có
hiệu
lực
vào
ngày
10 tháng
12
năm
2001
đã
xoá
bỏ
thuế
nhập
khẩu
đối
với
cá
da
trơn
của
Việt
Nam
có
thể
là một
trong
những
nguyên
nhân
của
sự
gia
tăng
đáng
kể
số
lượng
nhập
khẩu
cá
vào
Mỹ
từ 12,5
triệu
pao
vào
năm
2000
tới
26
triệu
pao
vào
năm
2001.
Năm
2001,
giá
của
cá
sản xuất
tại
Mỹ
đã
giảm
xuống
50
xu
một
pao,
tức
là
thấp
hơn
giá
thành
khoảng
15
xu
và
thấp
hơn
khoảng
30
xu
so
với
giá
cá
vào
năm
2000.
Vào
năm
2001,
CFA
đã
phát
động
một
chiến
dịch
tiêu
tốn
500.000
đô
la
Mỹ
tấn
công vào
cá
da
trơn
nhập
khẩu
theo
ba
yếu
tố
sau:
(i)
điều
kiện
vệ
sinh
của
cá
da
trơn
Việt
Nam, (ii)
vấn
đề
chủng
loại,
và
(iii)
sự
cạnh
tranh
không
lành
mạnh
của
các
nhà
sản
xuất
Việt
Nam
khi
lợi
dụng
thị
trường
đã
được
phát
triển
bằng
nguồn
lực
tài
chính
của
các
doanh nghiệp
Mỹ.
Để
chứng
minh
việc
các
nhà
sản
xuất
Việt
Nam
đã
cố
tình
gây
lẫn
lộn
về
nhãn
mác, CFA
lập
luận
rằng
“
chỉ
có
giống
cá
tại
Bắc
Mỹ,
có
tên
gọi
là
Ictaluridae
-
mới
thực
sự
là cá
da
trơn”
bất
chấp
sự
thực
là
có
hơn
2.000
giống
cá
da
trơn.
Họ
cũng
giải
thích
rằng “cá
da
trơn
chỉ
là
loại
cá
thuộc
dòng
có
tên
Latinh
Ictaluridae.
Giống
cá
của
Việt
Nam
thuộc
về
họ
Pangasiidae,
loại
cá
da
trơn
sống
tại
Châu
Phi
và
Đông
Nam
Á’”.
Quy
định
về nhãn
hiệu
sau
đó
được
mở
rộng
tới
việc
cấm
mọi
hoạt
động
marketing
và
bán
các
loại
cá dưới
tên
catfish. Những
quy
định
tương
tự
về
nhãn
mác
cũng
được
ban
hành tại
các
bang
Mississippi,
Louisiana,
và
Arkansas.
Các
nhà
sản
xuất
Việt
Nam
sau
đó
tiếp
thị
sản
phẩm
của
mình
dưới
tên
cá
“tra”
hoặc
“basa”.
c.) Tình tiết vụ việc:
Mặc
dù
có
tranh
chấp
về
nhãn
hiệu,
sản
lượng
nhập
khẩu
của
cá
basa
và
tra
của
Việt Nam
vào
năm
2002
vẫn
đạt
số
lượng
36
triệu
pao,
cao
hơn
hẳn
năm
2001
(26
triệu
pao).
Tỷ
lệ
tăng
trưởng
của
sản
lượng
nhập
khẩu
từ
năm
2000
đến
2002
là
187,4%
và
tăng trưởng
của
giá
trị
nhập
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Trang 12
khẩu
là
127,5%.Vào
ngày
28/6/2002,
CFA
và
một
số
nhà
chế biến
cá
da
trơn
Mỹ
(Sau
đây
gọi
là
Bên
nguyên)
đã
nộp
đơn
lên
ITC
và
DOC
tuyên
bố
rằng
ngành
công
nghiệp
cá
da
trơn
của
Mỹ
bị
chịu
thiệt
hại
đáng
kể
vì
nhập
khẩu
của
cá
da
trơn Việt
Nam.
Vào
ngày
24/7/2002,
DOC
tuyên
bố
bắt
đầu
điều
tra
vụ
án
chống
phá
giá
trên
Công
báo
(67
FR
48437).
Việt Nam chưa phải là nước có nền
kinh tế thị trường, ngay khi DOC kết luận
kinh tế Việt Nam là phi thị trường, con cá
basa đã đối mặt với muôn vàn khó
khăn. Và cũng từ đây, vụ kiện bán phá giá
đã chuyển sang giai đoạn mới, trong đó, cá
basa của Việt Nam được "giả dụ" là đến từ
Bangladesh.
* Các công ty Việt nam đối phó như thế
nào với vụ kiện:
- Các biên sơ bộ:
+ Đối với bốn bị đơn bắt buộc trong
cuộc điều tra này, Công ty Cổ phần Xuất
Nhập khẩu Thuỷ sản An Giang
(“Agifish”), Công ty Xuất Nhập khẩu
Nông sản và Súc sản Cần Thơ (“Cataco”),
Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Nam Việt
(“Nam Việt”), và Công ty Trách nhiệm
Hữu hạn Vinh Hoan (“Vinh Hoan”), các
biên sơ bộ dao động từ 37,94 đến 61,88%.
+ Đối với các nhà sản xuất/xuất
khẩu Việt Nam tự nguyện trả lời Phần A
trong bản các câu hỏi điều tra của Bộ, và là
các đối tượng mà Bộ xác định được hưởng
một mức riêng (Công ty Xuất nhập khẩu
Nông sản Thực phẩm An Giang (“Afiex”),
Doanh nghiệp Chế biến Xuất khẩu Súc sản
và Ngư sản Cần Thơ (“CAFATEX”), Tổng
Công ty Xuất Nhập khẩu Hải sản Đà Nẵng
(“Đà Nẵng”), Công ty Cá Mê Kông
(“Mekonimex”), Công ty Trách nhiệm
Hữu hạn Lương thực QVD (“QVD”), và
Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Hải sản
Việt Hải (“Việt Hải”), chúng tôi ấn định
mức biên là 49,16%, căn cứ vào biên trung
bình tính theo trọng lượng của các bị đơn
bắt buộc.
+ Các sản phẩm nhập khẩu của các
nhà sản xuất/xuất khẩu Việt Nam khác sẽ
phải chịu mức chung dành cho Việt Nam
là 63,88%.
+ DOC
ban
hành
phán
quyết
sơ
bộ
khẳng
định
việc
phá
giá
và trường
hợp
khẩn
cấp
vào
ngày
31/1/2003
(68
FR
4986).
Khẳng
định
việc
phá
giá
và trường
hợp
khẩn
cấp
được
sửa
đổi
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Trang 13
ngày
5
và
28/5/2003.
ITC
tổ
chức
phiên
xét
xử
vào ngày
17/6/2003.
DOC
có
phán
quyết
cuối
cùng
về
thuế
bán
phá
giá
và
trường
hợp
khẩn cấp
vào
ngày
23/6/2003
(68
FR
37116)
3. Các giải pháp đối phó với các vụ kiện:
Việc tham gia các vụ điều tra chống
phá giá đòi hỏi rất nhiều kiến thức chuyên
môn và cách ứng xử chuyên nghiệp. Mặc
dù thủ tục chống phá giá là thủ tục hành
chính nhưng nó vẫn được coi như là “bán
tố tụng”. Điều này có nghĩa là các doanh
nghiệp không thể trả lời chỉ dựa trên cảm
tính đơn thuần mà phải dựa trên bằng
chứng. Các doanh nghiệp cần ý thức
được rằng các phản ứng cảm tính có thể
làm xấu đi mối quan hệ giữa cơ quan điều
tra và doanh nghiệp chứ không làm nó tốt
lên.
Do đó, các doanh nghiệp cần phải coi
việc chuẩn bị thông tin và dữ liệu cho
cuộc điều tra là quan trọng hàng đầu
trong kế hoạch làm việc của họ.
Các doanh nghiệp Việt Nam trong
quá trình điều tra phải hợp tác với cơ quan
điều tra. Thay vì việc cố gắng chứng
minh “ai đúng” và “ai sai” thì doanh
nghiệp cần tập trung vào việc cung cấp
cho cơ quan điều tra tất cả các thông tin
mà cơ quan này cần. Điều quan trọng
nhất không phải là chứng minh rằng “lẽ
phải thuộc về mình” mà là giảm thiểu
mức áp thuế chống bán phá giá càng
thấp càng tốt.
Các doanh nghiệp không hợp tác
trong vụ kiện cá da trơn và vụ tôm đã bị áp
mức thuế suất cao hơn nhiều so với các
doanh nghiệp được coi là hợp tác.
Tôn trọng thời hạn của các Bảng
câu hỏi là rất quan trọng. Những thông
tin cung cấp muộn có thể bị cơ quan điều
tra từ chối chấp nhận và do đó, có thể dẫn
tới thuế bán phá giá cao hơn. Bên cạnh
đó, thông tin do các doanh nghiệp cung
cấp cũng có thể bị từ chối chấp nhận nếu
cơ quan điều tra cho rằng doanh nghiệp
không hợp tác đầy đủ hoặc là không
trung thực.
Hợp tác với bị đơn khác trong quá
trình điều tra cũng rất quan trọng. Cơ
quan điều tra chống phá giá có thể kiểm
tra chéo các thông tin do các bị đơn cung
cấp. Thông qua việc phối hợp với các bị
đơn khác, doanh nghiệp có thể tìm thấy
các sai sót hoặc sai biệt trong thông tin
của mình và sửa chữa nó trước khi báo cáo
cho cơ quan điều tra.
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Trang 14
Vận động hành lang: vụ cá da
trơn cho thấy rằng vận động hành lang
đối với ngành lập pháp là rất có hiệu quả.
Tuy nhiên các nhà sản xuất nội địa bao
giờ cũng có ưu thế hơn các nhà sản xuất
nước ngoài trong lĩnh vực này. Vận động
hành lang đối với ngành hành pháp có
hiệu quả hạn chế. Tuy nhiên vận động là
cần thiết vì nó có thể khiến cho cơ quan
chống phá giá áp dụng các biện pháp
công bằng và hợp lý trong quá trình điều
tra. Tuy nhiên, vận động hành lang cần
một chiến lược với các mục tiêu và mục
đích rõ ràng. Trong vận động hành lang,
chứng cứ tạo ra sức thuyết phục mạnh
hơn là chỉ tiếp cận tới các đối tượng và
đưa ra những lập luận cảm tính đối với
họ. Hợp tác với báo chí, các tổ chức có
quyền lợi chung và các tổ chức phi chính
phủ đóng vai trò quan trọng trong việc
giành sự ủng hộ của dư luận.
4. Các giải pháp cho các doanh nghiệp
Xuất khẩu Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu
nhưng hạn chế bị kiện bán phá giá:
Từ vụ cá da trơn, vai trò của Hiệp
Hội Doanh Nghiệp là rất quan trọng.
Hiệp hội là cơ quan điều phối mọi hoạt
động liên quan tới vụ kiện. Trước khi vụ
kiện xảy ra, hiệp hội là cơ quan theo dõi
tình hình của ngành và vận hành cơ chế
cảnh báo sớm. Hiệp hội cũng chịu trách
nhiệm trong việc tổ chức đào tạo cho các
thành viên để đối phó với việc điều tra
chống bán phá giá cũng như là người phát
triển mạng lưới quan hệ ở quốc gia xảy ra
vụ kiện. Mỗi hiệp hội doanh nghiệp cần
thành lập một nhóm chuyên trách để
chuẩn bị cho các vụ kiện chống bán phá
giá. Các nhiệm
vụ chính của nhóm
chuyên trách này gồm:
+ Đánh giá mức khả năng hàng
hoá của hiệp hội bị kiện chống bán phá
giá ở nước ngoài;
+ Nghiên cứu luật pháp về chống
bán phá giá tại các thị trường xuất khẩu
chính của hiệp hội;
+ Làm việc với luật sư và các kinh
tế gia chuyên ngành về chống bán phá giá
để nghiên cứu các vụ kiện trước đây tại
các quốc gia mà hàng hoá Việt Nam có
khả năng bị kiện để tìm hiểu chiến thuật
và chiến lược của ngành công nghiệp nội
địa tại quốc gia đó cũng như quan điểm
của cơ quan quản lý chống bán phá giá;
+ Làm việc với các thành viên
hiệp hội để hoàn thiện tiêu chuẩn kế
toán nhằm đáp ứng các đòi hỏi của việc
điều tra chống bán phá giá;
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Trang 15
+ Hoạch định một kế hoạch nhằm
hợp tác giữa các thành viên của hiệp hội
trong trường hợp bị kiện.
Việc gia nhập WTO giúp chúng ta
mới tránh được sự phân biệt đối xử trong
thương mại, bao gồm cả việc giải quyết
các tranh chấp về bán phá giá. Hơn nữa, ta
có thể sử dụng cơ chế giải quyết tranh
chấp có hiệu quả và khá công bằng của
WTO. Chẳng hạn, từ 1995 tới 10/2000 đã
có tổng cộng 186 vụ tranh chấp thương
mại được giải quyết trong WTO, trong đó
có 24 vụ liên quan tới bán phá giá (13%).
Trong số 24 vụ tranh chấp này thì Hoa kỳ
bị kiện 7 vụ, EU 2 vụ, các nước đang phát
triển 7 vụ. Trong năm 2001 có 8 vụ kiện về
bán phá giá thì Hoa kỳ bị kiện tới 3 vụ.
Chính phủ vừa ban hành Nghị định
số 90/2005/NĐ-CP quy định chi tiết thi
hành một số điều của Pháp lệnh chống bán
phá giá hàng hóa nhập khẩu vào VN. Đây
vừa là công cụ pháp lý bắt buộc phải có để
đối phó với hàng nhập khẩu bị bán phá giá
vào Việt nam, vừa là vũ khí tốt giúp cho
đàm phán với các nước khác theo kiểu
“nếu anh điều tra phá giá với hàng của tôi
thì tôi cũng sẽ điều tra phá giá với hàng
của anh”.
5. Những giải pháp khi thua kiện hoàn
toàn:
* Đa dạng hóa thị trường:
Bài học đầu tiên từ vụ cá da trơn là
khi ưu thế cạnh tranh của các nhà sản
xuất nội địa giảm sút, thị phần của họ suy
giảm, họ có thể sử dụng mọi biện pháp
có thể để ngăn cản hàng nhập khẩu.
Chống phá giá chỉ là một trong các biện
pháp mà người sản xuất nội địa có thể sử
dụng. Bài học thứ hai là: các nhà sản
xuất nội địa có nhiều ưu thế hơn các nhà
sản xuất nước ngoài trong việc vận động
hành lang đối với ngành lập pháp.
Những ưu thế này là :
(i) kiến thức của họ về nền
chính trị tại nước họ,
(ii) tính “địa phượng cục bộ” của
nền chính trị các quốc gia lớn
như Hoa Kỳ,
(iii) sự hiểu biết và kinh nghiệm
trong các hoạt động quan hệ
quần chúng (public relations)
tại quốc gia đó, và
(iv) hệ thống quan hệ của họ.
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Trang 16
Do đó, các nhà sản xuất trong nước
có nhiều cơ hội trong việc ngăn cản
hàng ngoại nhập hơn là ngược lại. Đa
dạng thị trường xuất khẩu giúp cho
doanh nghiệp Việt Nam giảm thiểu các
ảnh hưởng xấu trong việc xuất khẩu sang
một quốc gia bị ngăn cản.
Thực tế năm 2007 Bộ Thủy sản cho biết
sản phẩm cá tra, ba sa đạt mức tăng
trưởng nhanh nhất. Dự kiến cả năm, sản
lượng cá tra, ba sa xuất khẩu đạt
210.000 tấn, trị giá khoảng 560 triệu
USD. Đáng nổi bật là giá trị kim ngạch
xuất khẩu cá tăng mạnh ở hầu hết các
thị trường. Cá tra, ba sa được tiêu thụ
mạnh ở EU và Đông Âu. Nga nhập gần
54,9 triệu USD cá tra, ba sa Việt Nam,
bằng 2.751% so với năm 2005. Ba Lan
đạt 45 triệu USD, bằng 858% so với
năm 2005. Điều này chứng tỏ thị trường
cá tra, ba sa tại Nga, Đông Âu và EU rất
có triển vọng.
Nga đã trở thành thị trường xuất khẩu
lớn nhất của cá tra, basa Việt Nam,
Số liệu từ Tổng cục Thống kê, năm 2006,
bất chấp những sức ép cạnh tranh và rào
cản thương mại mới, thủy sản Việt Nam
vẫn đạt kim ngạch xuất khẩu 3,36 tỷ USD,
vượt hơn nửa tỷ USD so dự kiến kế hoạch
năm.Việt Nam Phấn đấu đạt 72,5 tỷ USD
giá trị xuất khẩu vào năm 2010.
* Xây dựng thương hiệu mạnh:
Vụ cá da trơn có một hệ quả mà
VASEP không ngờ tới. Sau khi DOC áp
dụng thuế bán phá giá đối với cá da trơn
Việt Nam, lượng xuất khẩu cá da trơn của
VASEP tới các thị trường khác tăng vọt(ví
dụ EU, Nhật, Úc). Người Việt Nam cũng
bắt đầu sử dụng cá da trơn trong bữa ăn.
Lý do khá đơn giản, cá da trơn được giới
truyền thông quan tâm và là đề tài nóng
hổi – dù rằng chỉ trong thời gian ngắn
nhưng cũng đủ để người tiêu dùng Mỹ và
các quốc gia khác biết về sản phẩm. Kinh
nghiệm này cho thấy rằng, chất lượng tốt
và giá rẻ là chưa đủ cho một sản phẩm để
thâm nhập thị trường nước ngoài.
Thương hiệu mạnh và các biện pháp
marketing phù hợp là cần thiết
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Mơn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Trang 17
NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM TRƯỚC NGUY CƠ
BỊ KIỆN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TẠI
THỊ TRƯỜNG HOA KỲ
I. Khái niệm:
- “Bán phá giá” xảy ra khi một nhà sản
xuất nước ngồi bán sản phẩm thấp hơn
giá trị thơng thường của sản phẩm đó tại
thị trường của nước nhập khẩu.
- Giá trị thơng thường có thể là giá bán tại
thị trường nội địa, thị trường của một nước
thứ ba, giá trị cấu thành hay các yếu tố sản
xuất trong trường hợp quốc gia xuất khẩu
là một nước có nền kinh tế phi thị trường.
II. Ngành dệt may Việt Nam đối
mặt với những đơn kiện chống
bán phá giá:
- Cuối tháng 9/2006, Chính phủ Mỹ tun
bố sẽ chủ động điều tra chống phá giá đối
với Việt Nam nếu số liệu cho thấy hàng
dệt may của Việt Nam bán phá giá.
- Chính phủ Mỹ sẽ theo dõi số liệu nhập
khẩu, thu thập số liệu sản xuất từ ngành
cơng nghiệp nội địa của Mỹ và kiểm tra
định kỳ 6 tháng để xác định liệu có thể
khởi kiện hay khơng.
- Vì Việt Nam đã được chính thức kết nạp
vào WTO từ ngày 7/11/2006, nên đợt kiểm
tra số liệu đầu tiên của Chính phủ Mỹ sẽ
diễn ra vào mùa hè năm 2007.
- Số liệu bị kiểm tra sẽ bao gồm trong giai
đoạn từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2007
- Tất cả sản phẩm dệt (textile) và may
(apparel) xuất sang Mỹ, đặc biệt là
quần, áo sơ-mi, đồ lót, đồ bơi và áo len sẽ
là sản phẩm mục tiêu.
- Đại diện Thương mại Hoa Kỳ hứa sẽ theo
dõi hàng nhập khẩu từ Việt Nam “trong
thời gian của chính quyền này (chính
quyền Bush)”, tức là đến hết 2008.
III. Cơ chế giám sát hàng Dệt May
Việt Nam của Hoa Kỳ (đang lấy ý
kiến, chưa thông qua):
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Mơn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Trang 18
1/. Tóm tắt nội dung chương trình
giám sát:
- Nhóm sản phẩm dự kiến giám sát: quần
dài, áo, đồ lót, đồ bơi, áo len (dự kiến xác
định theo CAT, mã 3 số - dữ liệu tập hợp
để giám sát sẽ thực hiện theo mã 10 số)
- Quy trình sản xuất mẫu (danh mục chi
phí sản xuất): sẽ được xác định khi cần
thiết
- Giai đoạn giám sát: Việc phân tích các
thơng tin thu thấp trong q trình giám sát
sẽ được thực hiện 6 tháng 1 lần
2/. Các nhóm vấn đề bất cập liên
quan đến chương trình giám sát:
a- Căn cứ pháp lý:
- Việc giám sát khơng phù hợp với quy
định của WTO về điều tra chống bán phá
giá và ngun tắc khơng phân biệt đối xử;
- Khơng thoả mãn điều kiện nào để tiến
hành giám sát theo pháp luật Hoa Kỳ;
- DOC khơng có thẩm quyền tiến hành
giám sát
b- Về đối tượng giám sát
- Danh mục sản phẩm dự kiến giám sát q
rộng, chưa được cụ thể hố
- Các sản phẩm dự kiến giám sát (được
xem là nhạy cảm) khơng phải là những sản
phẩm được sản xuất bởi các đơn vị đã
lobby để thiết lập cơ chế giám sát này
(trong khi bản thân các đơn vị sản xuất
những sản phẩm này lại khơng có nhu cầu
và do đó khơng u cầu DOC giám sát).
c- Về thủ tục giám sát
- Chưa thiết lập được các ngun tắc, các
phương pháp và bước giám sát cụ thể >>
khơng đảm bảo tính khả đốn, minh bạch
- u cầu đối với thủ tục giám sát:
+ Tất cả các bước của q trình
giám sát phải có sự tham gia bình luận và
cung cấp thơng tin của các bên liên quan
(các bên trực tiếp sản xuất, xuất khẩu,
nhập khẩu, bán lẻ nhóm sản phẩm thuộc
diện bị giám sát), đặc biệt là phải tư vấn
cộng đồng doanh nghiệp dệt may VN;
+ Các thơng tin liên quan đến
CTGS (từ thủ tục, phương pháp, nguồn số
liệu, báo cáo giám sát…) phải được cơng
khai hố trên Internet
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Mơn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Trang 19
IV. Những điểm chính của luật
Chống Phá Giá Hoa Kỳ:
- Cho phép Chính phủ Hoa Kỳ áp đặt thuế
chống bán phá giá để bù trừ việc hàng
nhập khẩu bán ở mức “khơng cơng bằng”
và gây thiệt hại cho một ngành cơng
nghiệp của Hoa Kỳ
- Để áp đặt thuế chống bán phá giá, chính
phủ Hoa Kỳ phải xác định rằng hàng hố
nhập khẩu:
+ đã bán ở mức “thấp hơn giá
trị bình thường”
+ gây ra hoặc đe dọa gây ra
“thiệt hại vật chất”
- Vai trò của Bộ Thương Mại Hoa Kỳ
(DOC) và Ủy Ban Thương Mại Quốc Tế
Hoa Kỳ (ITC):
+ Thông thường Bộ Thương Mại
Hoa Kỳ (DOC) bắt đầu căn cứ
vào đơn kiện của một nhà sản
xuất Hoa Kỳ, một nhóm các nhà
sản xuất Hoa Kỳ, hoặc một liên
đoàn lao động Hoa Kỳ để tiến
hành điều tra.
+ Trong một số rất ít trường hợp,
DOC có thể “tự tiến hành” điều
tra.
- Giá bán vào Hoa Kỳ được xem là “thấp
hơn giá trị bình thường” nếu giá bán được
điều chỉnh tại Hoa Kỳ thấp hơn giá so
sánh:
+ Giá bán tại thị trường trong
nước – khơng áp dụng cho Việt
Nam
+ Giá bán tại nước thứ ba –
khơng áp dụng cho Việt Nam
+ “Giá áp đặt” – áp dụng cho
Việt Nam (thông thường là
giá từ thò trường Bangladesh
và n Độ), trong đó bao
gồm:
• Các yếu tố tiêu thụ
thực tế
• Giá trị thay thế
Minh hoạ:
Các yếu tố SX thực tế và giá trị
thay thế
Giá bán, chi phí quản lý và chi phí
chung của nước thay thế
Lợi nhuận từ nước thay thế
Giá trị áp đặt áp
dụng cho các
nước khơng có
nền kinh tế thị
trường
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Mơn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Trang 20
* Phương pháp tính biên độ phá
giá đối với nền kinh tế phi thò
trường (NME):
- Bước 1: Tính giá ròng cho mỗi đợt
bán hàng vào Hoa Kỳ
- Bước 2: Tính bình quân có trọng số
cùng với giá ròng của mỗi số
hiệu kiểm soát của Hoa Kỳ (sản
phẩm được sử dụng để khớp nhau
như được DOC đònh nghóa)
- Bước 3: Tính giá trò thông thường
căn cứ vào các yếu tố sản xuất
đối với số hiệu kiểm soát của Hoa
Kỳ
- Bước 4: Tính biên độ trên mỗi đơn
vò đối với từng số hiệu kiểm soát
của Hoa Kỳ
- Bước 5: Nhân biên độ trên mỗi
đơn vò với số lượng của số hiệu
kiểm soát của Hoa Kỳ
- Bước 6: Cộng tất cả các biên độ
phá giá (ví dụ: kể cả các biên độ
âm và dương đối với tất cả số
hiệu kiểm soát).
- Bước 7: Chia tổng các biên độ phá
giá cho giá trò của các đợt bán
hàng vào Hoa Kỳ để có biên độ
phá giá bình quân có trọng số
chung.
- Bước 8: Xác đònh biên độ chung có
lớn hơn 2% hay không; nếu lớn hơn,
thì kết luận có bán phá giá.
- Bước 9: Nếu biên độ phá giá
chung do DOC tính tại quyết đònh cuối
cùng nhỏ hơn 2%, thì kết thúc điều
tra nhà sản xuất.
Ví dụ:
Hoa Kỳ xem xét một sản
phẩm áo dệt kim xuất xứ từ Việt
Nam, bán tại thò trường Hoa Kỳ với
giá 7.50 USD/pc có bán phá giá hay
không. Kết quả theo bảng sau:
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Mơn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Trang 21
V/. Những yêu cầu đối với đơn
kiện chống bán phá giá tại Hoa
Kỳ:
1/. Phạm vi:
- Khi nộp đơn, bên khiếu kiện cần mơ tả
chi tiết loại hàng hố u cầu điều tra bao
gồm:
+ Các đặc điểm kỹ thuật và mục
đích sử dụng của hàng hố
+ Số phân loại hạng mục thuế
quan hiện hành tại Mỹ (số HTS)
- Đánh giá của Bộ TM về phạm vi của vụ
kiện:
+ Nếu trước khi nộp đơn bên
khiếu kiện có u cầu Bộ TM tư
vấn về việc nộp đơn kiện thì Bộ
TM phải đảm bảo rằng phạm vi
của đơn kiện là sự phản ánh
chính xác về loại sản phẩm đang
chịu thiệt hại.
+ Các bên liên quan có thể đưa
ra bình luận về phạm vi của vụ
kiện trong thời hạn 20 ngày sau
khi viêc khởi xướng vụ kiện
được thơng báo trên Cơng báo
của Liên bang.
Nôi dung
Giá trò
(USD/unit)
I. Chi phí đầu
vào
Nguyên vật
liệu
A 9.26250
Chi phí điện
năng
B 0.04195
Nhân công
trực tiếp
C 1.78450
Vải vụn tái
SX
D 0.03293
Vật liệu
đóng gói
E 0.12295
Nhân công
đóng gói
F 0.02075
II.Giá trò
thông
thường
Tổng giá trò
đầu vào
t/tiếp
G = A + B 9.30445
Nhân công
trực tiếp
C 1.78450
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Môn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Trang 22
2/. Sản phẩm tương tự:
- Bên khiếu kiện phải miêu tả rõ ràng sản
phẩm tương tự của thị trường trong nước,
tức là sản phẩm bán tại thị trường Mỹ có
những đặc điểm giống nhất với sản phẩm
được nhập khẩu đang bị điều tra.
- Bộ TM sẽ quyết định về sản phẩm tương
tự cho mục đích tiến hành điều tra, ITC
cũng sẽ có quyết định riêng của mình về
sản phẩm tương tự.
3/. Cáo buộc phá giá:
- Cáo buộc về mức doanh số bán trong
điều kiện thương mại không công bằng
(phá giá) là lý do của mọi đơn kiện. Cáo
buộc về bán phá giá cần cung cấp đủ các
thông tin và dữ kiện cần thiết:
+ Việc tính toán giá cả hàng hoá
bán ra tại thị trường Mỹ nội địa
và
+ Giá trị thông thường của sản
phẩm tương tự được nhập khẩu
từ nước ngoài
4/. Thiệt hại thực tế:
- Theo định nghĩa trong Đạo luật “thiệt hại
thực tế” là sự thiệt hại mang tính hậu quả,
thực tế hoặc quan trọng.
+ ITC chịu trách nhiệm xác định
xem có phải ngành sản xuất
trong nước đang chịu thiệt hại
thực tế hay bị đe doạ chịu thiệt
hại thực tế do tác động của loại
hàng hoá nhập khẩu đang bị cáo
buộc bán phá giá hay không.
- Bộ TM sẽ kiểm tra xem liệu đơn kiện có
cung cấp đủ bằng chứng về thiệt hại thực
tế hay đe doạ gây thiệt hại thực tế hay
không.
+ Để đánh giá tính chính xác và
đầy đủ của chứng cứ liên quan
đến thiệt hại thực tế và cáo buộc
về mối quan hệ nhân quả, Bộ
TM sẽ so sánh các chứng cứ
trong đơn kiện với những thông
tin sẵn có hợp lý.
- Đánh giá về cáo buộc thiệt hại của Bộ
TM lieân quan ñeán:
+ Giá bán tại thị trường trong
nước giảm
+ Khối lượng sản xuất giảm
+ Khả năng khai thác công suất
giảm
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Mơn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Trang 23
+ Thị phần và doanh thu giảm
+ Doanh thu mất di do hàng
nhập khẩu
+ Khả năng lợi nhuận giảm
+ Số lượng cơng ăn việc làm
giảm
+ Phá sản
VI. Các giai đoạn diều tra chống
bán phá giá tại Hoa Kỳ:
Nga
øy
Sự kiện
0
Đơn kiện
được nộp
20
DOC Bắt
Đầu
Điều Tra
45
Quyết
Đònh Sơ
Bộ
của ITC
160
Ngày
210, nếu
Quyết
Đònh Sơ
được gia
hạn
Bộ
của DOC
235
Ngày
345, nếu
quyết
đònh sơ
bộ và
quyết
đònh
cuối
cùng
đều
được gia
hạn
Quyết
Đònh
Cuối
Cùng
của DOC
280
Ngày
390, nếu
quyết
đònh sơ
bộ là
quyết
đònh
cuối
cùng
của
DOC
đều
được gia
hạn
Quyết
Đònh
Cuối
Cùng
của ITC
X.định sơ bộ
về thiệt hại
X.định sơ bộ
về bán PG
Q.định c/cùng
về bán PG
Q.định c/cùng
về thiệt hại
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Mơn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Trang 24
287
Ngày
397, nếu
quyết
đònh sơ
bộ và
quyết
đònh
cuối
cùng
của
DOC
đều
được gia
hạn
DOC ban
hành
lệnh
áp dụng
thuế
chống
phá giá
VII. Thủ tục của Bộ Thương mại
Hoa Kỳ về diều tra chống bán
phá giá:
1/. Bảng câu hỏi:
- DOC sẽ đưa ra bảng câu hỏi cho
các công ty được chọn để trả lời
bảng câu hỏi (bò đơn).
- Bảng câu hỏi dài và chi tiết và
được chia thành các phần sau:
+ Phần A: Thông tin về tổ
chức, phạm vi quản lý của chính
phủ trung ương đối với hoạt động
xuất khẩu, nghiệp vụ kế toán và
hoạt động kinh doanh và thông tin
chung về doanh số bán hàng.
+ Phần B: Không áp dụng cho
các vụ kiện thuộc nền kinh tế phi thò
trường.
+ Phần C: Thông tin về doanh
số của hàng hóa tại Hoa Kỳ.
+ Phần D: Các yếu tố sản
xuất.
- Thời hạn: Thời hạn trả lời thông
thường là ba mươi ngày kể từ ngày
đưa ra bảng câu hỏi, có thể được gia
hạn thêm hai tuần.
2/. Đối tượng xem thông tin của công
ty:
- DOC và bên tư vấn của nguyên
đơn.
+ Căn cứ vào lệnh bảo vệ
hành chính, hoặc viết tắt là APO,
bên tư vấn của nguyên đơn được xem
thông tin mật do bò đơn cung cấp.
Ngay cả khi thông tin mật được vô ý
Trường ĐHKT TPHCM Giáo viên hướng dẫn: GS.TS. Võ Thanh Thu
Lớp K2004 TPHCM (Ngoại Thương) Mơn: Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Trang 25
tiết lộ, bên tư vấn của nguyên đơn
vẫn được phép xem thông tin đó.
+ Bên tư vấn của nguyên đơn
sẽ đệ trình ý kiến cho DOC về các
lónh vực mà họ tin là thiếu hoặc
các lónh vực mà nguyên đơn tin là bò
đơn đã sử dụng phương pháp không
thích hợp.
3/. Bảng câu hỏi bổ sung:
- Căn cứ vào các ý kiến của
nguyên đơn, và sau khi kiểm tra độc
lập, DOC sẽ đưa ra bảng câu hỏi bổ
sung.
+ Độ dài và độ dày: sẽ thay
đổi căn cứ vào chất lượng của dữ
liệu do bò đơn nộp và chất lượng
kiểm tra của cả nguyên đơn và DOC.
+ Thời Hạn Trả Lời: Thông
thường là hai tuần, có thể được gia
hạn thêm hai tuần nữa.
* Lưu ý: DOC có thể đưa ra nhiều
bảng câu hỏi bổ sung.
4/. Thẩm tra:
- Sau khi quyết đònh sơ bộ, DOC tiến
hành kiểm tra tại chỗ dữ liệu do bò
đơn nộp.
+ Mục Đích: thẩm tra tính chính
xác của thông tin được nộp và thẩm
tra rằng bò đơn chưa bỏ qua bất kỳ
thông tin liên quan nào.
+ Thẩm Tra Việc Bán Hàng:
Nếu việc bán hàng được thực hiện
trực tiếp đến Hoa Kỳ, thì việc thẩm
tra sẽ được thực hiện tại nhà máy
xuất khẩu; nếu thông qua công ty
trực thuộc tại Hoa Kỳ, thì có thể
được thực hiện tại Hoa Kỳ.
+ Các Yếu Tố Sản Xuất: Sẽ
được điều tra tại nhà máy hoặc trụ
sở công ty.
Lưu ý: Việc chuẩn bò tốt trước là
cực kỳ quan trọng. Thông thường,
luật sư hỗ trợ cho công ty sẽ chuẩn
bò cho công ty một tuần trước khi
thẩm tra.
5/. Báo cáo thẩm tra:
- Ngay sau khi DOC hoàn tất thẩm tra,
DOC sẽ ban hành báo cáo thẩm tra.