Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

TÀI LIỆU NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI FPI pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (813.03 KB, 77 trang )

TÀI LIỆU
NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ
GIÁN TIẾP NƯỚC
NGOÀI FPI

1
Chương 1
Lý luận chung về nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài FPI
I. Khái niệm FPI
Theo quy định trong Khoản 3, Điều 3 của Luật Đầu tư mới: "Đầu tư
gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái
phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các
định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản
lý hoạt động đầu tư".
Theo cách hiểu này, đầu tư gián tiếp nước ngoài là các khoản đầu tư
gián tiếp do các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện – để phân biệt với đầu tư gián
tiếp trong nước do các nhà đầu tư trong nước thực hiện – thông qua 2 hình thức
chủ yếu sau:
• Nhà đầu tư trực tiếp mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy
tờ có giá khác của các doanh nghiệp, của chính phủ và của các tổ chức tự trị
được phép phát hành trên thị trường tài chính.
• Nhà đầu tư gián tiếp thực hiện đầu tư thông qua Quỹ đầu tư
chứng khoán hoặc định chế tài chính trung gian khác trên thị trường tài chính.
II. Đặc trưng của FPI
Thứ nhất, nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý doanh nghiệp
phát hành chứng khoán hoặc các hoạt động quản lý nói chung của cơ quan phát
hành chứng khoán.
Thứ hai, nhà đầu tư không kèm theo cam kết chuyển giao tài sản vật
chất, công nghệ, đào tạo lao động và kinh nghiệm quản lý như trong trực tiếp
đầu tư (FDI). FPI là đầu tư tài chính thuần túy trên thị trường tài chính.
2


Như vậy có thể thấy, FPI là một khái niệm khá mới mẻ, nhất là ở nước ta,
vì chúng xuất hiện và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của
thị trường chứng khoán quốc gia và quốc tế.
Trên thực tế, mặc dù FPI dùng để chỉ các hình thức đầu tư không phải
là đầu tư trực tiếp nước ngoài truyền thống (tức đầu tư để lập doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài, lập liên doanh hoặc công ty cổ phần và kinh doanh theo
hợp đồng hợp tác kinh doanh…), song sự phân biệt này không phải lúc nào
cũng rạch ròi và thống nhất. Chẳng hạn, khi nhà đầu tư dùng vốn của mình để
mua cổ phiếu của doanh nghiệp, nếu tỷ lệ cổ phiếu do nhà đầu tư nắm giữ thấp
hơn mức nhất định (10% theo tiêu chuẩn của IMF và 30% theo tiêu chuẩn của
Việt Nam hiện hành) là đầu tư gián tiếp, nhưng khi vượt ngưỡng này lại được
xếp vào đầu tư trực tiếp và khi đó, nhà đầu tư có thể dùng quyền bỏ phiếu của
mình để can thiệp trực tiếp vào thực tế quản lý, kinh doanh của doanh nghiệp…
Cũng như FDI, động thái dòng FPI chịu ảnh hưởng trực tiếp và mạnh
mẽ của các nhân tố như bối cảnh quốc tế (hòa bình, ổn định vĩ mô, các quan
hệ ngoại giao và môi trường pháp lý quốc tế thuận lợi); nhu cầu và khả năng đầu
tư của nhà đầu tư nước ngoài; mức độ tự do hóa và sức cạnh tranh (chủ yếu là
ưu đãi tài chính và sự thân thiện, thuận tiện của quản lý nhà nước đối với nhà
đầu tư) của môi trường đầu tư trong nước; sự phát triển của hệ thống tiền tệ và
các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh nói riêng, của các thể chế thị trường nói chung
của nước tiếp nhận đầu tư v.v…
Nhưng khác với FDI, FPI chịu ảnh hưởng trực tiếp mạnh hơn từ các
nhân tố như: sự phát triển và độ mở cửa của thị trường chứng khoán, chất lượng
của các cổ phiếu, trái phiếu do doanh nghiệp và Nhà nước phát hành, cũng như
các chứng khoán có giá khác lưu thông trên thị trường tài chính; sự đa dạng và
vận hành có hiệu quả của các định chế tài chính trung gian (trước hết là các
quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư tài chính các loại, các quỹ đầu tư đại
chúng, quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ thành viên); sự phát triển và chất lượng của
3
hệ thống thông tin và dịch vụ chứng khóan, trong đó có các tổ chức cung cấp

dịch vụ tư vấn và dịch vụ định mức hệ số tín nhiệm doanh nghiệp và chứng
khoán. Dòng FPI sẽ chảy mạnh vào trong nước tỷ lệ thuận và cấp số nhân cùng
với sự gia tăng quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân
và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động hiệu quả ở trong
nước, cũng như cùng với việc nới rộng tỷ lệ nắm giữ cổ phần của các nhà đầu tư
nước ngoài trong các doanh nghiệp đó…
III. Tính chất của FPI
1. Tính thanh khoản cao
Do mục đích của FPI là tỷ suất lợi tức cao với một mức độ rủi ro nhất
định (hoặc tỷ suất lợi tức nhất định với mức rủi ro thấp nhất) chứ không quan
tâm đến quá trình sán xuất kinh doanh giống như trong phương thức FDI, cho
nên NĐT nước ngoài sẵn sàng bán lại những chứng khoán mà họ đang nắm
giữ để đầu tư sang thị trường khác hoặc chứng khoán khác với tỷ suất lợi tức
dự tính cao hơn, an toàn hơn. Tính thanh khoản cao của FPI khiến cho hình thức
đầu tư này trở thành khoản mục đầu tư ngắn hạn mặc dù cố phiếu được coi là
chứng khoán dài hạn và nhiều loại trái phiếu giao dịch trên TTCK có thời gian
đáo hạn dài hơn 1 năm.
2. Tính bất ổn định
Tính thanh khoản cao là nguyên nhân làm cho dòng vốn FPI mang tính
bất ổn định. Sự bất ổn định, trong một giới hạn nào đó có thể có lợi do nó làm
cho thị trường tài chính nội địa hoạt động năng động và hiệu quả hơn, vốn đầu
tư không ngừng được phân bổ lại, dịch chuyến từ nơi có tỷ suất lợi nhuận thấp
sang nơi có tỷ suất lợi nhuận cao. Tuy nhiên, nếu điều đó xảy ra với tốc độ quá
nhanh, những ảnh hưởng xấu đến hệ thống tài chính và tình trạng bất ổn định
của nền kinh tế xảy ra là không thể tránh khỏi. Vấn đề trở nên nghiêm trọng hơn
đối với các nước có thị trường tài chính mới hình thành và nền kinh tế còn
trong giai đoạn chuyển đổi như Việt Nam.
4
3. Tính dễ đảo ngược
Tính dễ đảo ngược của dòng vốn FPI thực sự gây tác động xấu đến nền

kinh tế, nó là hệ quả của hai đặc tính thanh khoản cao và bất ổn định. Do dễ
đảo ngược cho nên có thể chỉ trong khoảng thời gian ngắn một lượng vốn FPI
lớn tháo lui “bẻ ghi” đầu tư sang thị trường khác để lại hậu quả khôn lường cho
nền kinh tế. Kinh nghiệm khủng khoảng kinh tế tài chính của các nước châu á
vào cuối thập kỷ 90 của thế kỷ 20 đă cho thấy tác hại của sự đảo ngược dòng
vốn FPI khi nền kinh tế của các quốc gia này xuất hiện những khoảngtrống, hậu
quả là nền kinh tế bong bóng nhanh chóng bị sụp đổ mà trong ngắn hạn khó có
thể khắc phục được.
IV. So sánh FPI và FDI
1. Điểm tương đồng
Thứ nhất, cả hai đều là hoạt động đưa vốn ra nước ngoài làm tăng
lượng vốn và dự trữ ngoại tệ của nước chủ nhà. FDI và FPI xuất hiện do nhu cầu
hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai, luồng vốn được luân chuyển từ nước của nhà đầu tư sang
nước sử dụng vốn đầu tư, nhằm mục đích tạo lợi nhuận cho nhà đầu tư. Để tạo
lợi ích tốt nhất cho mình, nhà đầu tư có thể lựa chọn cho mình cách thức đầu
tư phù hợp nhất hoặc kết hợp cả 2 hình thức trên. Lợi nhuận của nhà đầu tư
phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và tỉ lệ thuận với số vốn
đầu tư. Do đó, tình hình hoạt động của doanh nghiệp là mối quan tâm chung
của hai hoạt động đầu tư này.
Thứ ba, cả hai nguồn vốn này đều chịu sự điều chỉnh của nhiều luật lệ khác
nhau. Do đều là đầu tư quốc tế nên cả FDI và FPI đều chịu sự điều chỉnh của
nhiều luật lệ khác nhau. Mặc dù các hoạt động này chịu ảnh hưởng lớn từ luật
pháp nước tiếp nhận đầu tư nhưng trên thực tế vẫn bị điều chỉnh bởi các điều ước,
thông lệ quốc tế và luật của bên tham gia đầu tư. Do đó, để tạo một môi trường
5
đầu tư lành mạnh, tránh những xung đột và tranh chấp không đáng có, trong quá
trình hội nhập và phát triển, các nước nên có sự điều chỉnh luật lệ của mình gần
và phù hợp với điều ước và luật lệ quốc tế.
2. Điểm khác biệt

Điểm khác biệt thứ nhất là quyền sử dụng và quyền sở hữu nguồn vốn. Với
FDI, nhà đầu tư có quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn còn FPI nhà đầu tư chỉ
có quyền sở hữu chứ không có quyền sử dụng vốn. Khi đầu tư theo hình thức
trực tiếp, nhà đầu tư vừa là người bỏ vốn, vừa là người trực tiếp quản lý điều
hành việc sử dụng vốn của mình, vừa có quyền tham gia vào hoạt động của
doanh nghiệp. Do đó, nhà đầu tư đặc biệt quan tâm tới hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp vì liên quan trực tiếp đến lợi nhuận của họ. Lợi ích thu
được theo lợi nhuận công ty và được chia theo tỉ lệ vốn góp. Trái lại, nếu đầu tư
theo hình thức vốn gián tiếp FPI, nhà đầu tư chỉ đơn thuần là hoạt động bỏ
vốn, đầu tư vốn vào doanh nghiệp thông qua việc mua bán chứng khoán hoặc
những tài sản có giá khác, nhà đầu tư không có quyền tham dự vào hoạt động
của công ty. Lợi nhuận thu được từ việc chia cổ tức hoặc việc bán chứng khoán
thu chênh lệch, Tuy nhiên, nếu nắm giữ một trên một tỷ lệ cổ phần nhất định,
FPI có thể trở thành FDI, nhà đầu tư có quyền ra quyết định đối với công ty họ
bỏ vốn.
Điểm khác biệt thứ hai là tốc độ luân chuyển vốn: FPI có khả năng luân
chuyển vốn tốt hơn FDI. Đặc điểm nổi bật nhất của FPI là tính bất ổn định. Việc
bán chứng khoán diễn ra đơn giản hơn nhiều so với việc hủy bỏ một dự án đầu tư
trong đầu tư trực tiếp nước ngoài. Do đó, tốc độ luân chuyển vốn của FPI cao
hơn nhiều so với FDI. Điều này có thể giúp các nền kinh tế mới nổi tăng tính
linh hoạt, thúc đẩy quá trình phát triển của mình. Tuy nhiên, trong thời kì nền kinh
tế suy thoái, lượng vốn ra và vào quá nhanh lại làm nền kinh tế mất tính cân bằng,
gây ảnh hưởng lớn đến các hoạt động sản xuất, Ngược lại, FDI là nguồn bổ
sung vốn dài hạn cho nước chủ nhà không dễ bị rút đi trong thời gian ngắn vì gắn
liền với hoạt động của dự án. Nước chủ nhà sẽ được tiếp nhận một nguồn vốn
6
lớn bổ sung cho vốn đầu tư trong nước mà không lo phải trả nợ. Ví dụ như, nếu
nhà đầu tư chọn hình thức đầu tư trực tiếp FDI vào một dự án xây dựng 1 công
trình, muốn thu hồi vốn thì phải đợi công trình được hoàn thiện và như vậy có
thể sẽ mất tới rất nhiều năm. Trong khi đó, nếu đầu tư vào thị trường chứng

khoán, có thể dễ dàng thu hồi vốn bằng cách bán lại chứng khoán.
Điểm khác biệt thứ ba là tính chấp nhận rủi ro: FPI thường chấp nhận rủi ro
cao hơn FDI. FDI thường hướng tới cơ hội kinh doanh mang lại lợi nhuận cụ thể,
có thể tính toán và dự báo với xác suất thành công cao. Ngược lại, nhà đầu tư
gián tiếp có điều kiện theo đuổi những cơ hội đầu tư với mức rủi ro lớn hơn
với kì vọng vào thời cơ tăng trưởng bùng nổ trong tương lai.
Về hình thức đầu tư: FPI chỉ là hoạt động luân chuyển vốn còn FDI là
hoạt động luân chuyển vốn có thể kèm theo các loại hình đầu tư khác. FDI không
chỉ gắn với việc di chuyển vốn mà còn đi kèm hoạt động chuyển giao công
nghệ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm, tạo thị trường mới cho cả bên đầu
tư và tiếp nhận đầu tư. Vốn FDI không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ
đầu tư dưới hình thức vốn pháp định mà còn bao gồm cả vốn vay doanh nghiệp
để triển khai và mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư trích từ lợi nhuận thu được
trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Thông thường, FDI thường đi kèm
với 3 yếu tố: hoạt động thương mại, chuyển giao công nghệ, di cư lao động. Sản
phẩm của FDI thường thấy là những nhà máy mới, hiện đại ; mạng lưới công
nghệ thông tin cao cấp; những khu thương mại khổng lồ; những lao động chất
lượng cao giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ quốc tế.
Về đối tượng tiếp nhận đầu tư FPI thường đi vào các nước phát triển trong
khi FDI lại chuyển từ nước phát triển sang các nước đang phát triển. Để thực hiện
FPI cần 1 hệ thống tài chính hoạt động hiệu quả. Trong khi đó, các nước kém
phát triển lại có hệ thống tài chính yếu nên FPI có xu hướng luân chuyển giữa
các nước phát triển với nhau hoặc các nước đang phát triển sang các nước phát
triển. Trong khi đó, FDI nhằm mục tiêu tìm kiếm thị trường, nguồn nhân công rẻ,
lợi nhuận cao
7
Về chủ thể đầu tư đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện chủ yếu
bằng các Công ty xuyên quốc gia, các thương nhân. Những công ty xuyên quốc
gia rất lớn và có lịch sử phát triển lâu đời là Unilever, Ford Motor, Royal Dutch
Shell, Siemens. Còn đầu tư gián tiếp được thực hiện bởi Nhà nước, các tổ chức tài

chính quốc tế.
V. Tác động của FPI
1. Tác động tích cực
FPI trực tiếp làm tăng tổng vốn đầu tư gián tiếp và gián triếp làm tăng
tổng vốn đầu tư trực tiếp xã hội, góp phần khai thác & nâng cao hiệu quả sử
dụng các nguồn lực trong nước, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy hội
nhập thị trường vốn quốc
tế.
FPI là một kênh dẫn vốn quy mô lớn sẽ trực tiếp làm tăng lượng FPI trên thị
trường vốn trong nước. Khi FPI gia tăng sẽ làm phát sinh hệ quả tích cực gia
tăng dây chuyền đến dòng vốn đầu tư gián tiếp trong nước. Nói cách khác, các
nhà đầu tư trong nước sẽ “nhìn gương" các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài và
tăng động lực bỏ vốn đầu tư gián tiếp của mình, Kết quả tổng đầu tư gián tiếp
xã hội sẽ tăng lên. Hơn nữa, FPI gia tăng sẽ là một bảo đảm và tạo động lực mới
hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư khác mạnh dạn thông qua các quyết định đầu
tư trực tiếp mới của mình, kết quả là gián tiếp góp phần làm tăng đầu tư trực
tiếp xã hội từ phía các nhà đầu tư cả nước ngoài, cũng như trong nước.
FPI góp phần tích cực vào sự phát triển của thị trường tài chính nói
riêng, hoàn thiện các thể chế và cơ chế thị trường nói chung. Do FPI có tính
thanh khoản cao, nên các giao dịch vốn trên thị trường sẽ trở nên sôi động hơn
khi có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài. Hơn nữa, điều kiện và kết quả
đi kèm với sự gia tăng dòng FPI này là sự phát triển nở rộ các định chế & dịch
vụ tài chính – chứng khoán, trước hết là các loại quỹ đầu tư, công ty tài chính, và
các thể chế tài chính trung gian khác, cũng như các dịch vụ tư vấn, bổ trợ tư
pháp & hỗ trợ kinh doanh, xác định hệ số tín nhiệm, bảo hiểm, kế toán, kiểm
toán & thông tin thị trường. Đồng thời kéo theo sự gia tăng yêu cầu & hiệu quả
8
áp dụng các nguyên tắc cạnh tranh thị trường, trước hết trên thị trường chứng
khoán…Tất cả những điều này trực tiếp và gián tiếp góp phần phát triển mạnh
mẽ hơn các bộ phận và tổng thể thị trường tài chính nói riêng, các thể chế & cơ

chế thị trường nói chung.
FPI góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý theo các nguyên tắc
và yêu cầu kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Sự gia tăng dòng vốn đầu tư gián
tiếp nước ngoài và phát triển thị trường tài chính sẽ đặt ra những yêu cầu mới và
cũng tạo các công cụ, khả năng mới cho quản lý nhà nước nói chung và quản lý,
quản trị doanh nghiệp nói riêng. Việc quản lý và quản trị doanh nghiệp phát
hành chứng khoán sẽ được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả hơn do yêu cầu về
báo cáo tài chính doanh nghiệp và minh bạch hóa, cập nhật hóa thông tin liên
quan đến các chứng khoán mà doanh nghiệp đã và sẽ phát hành. Hơn nữa, về
nguyên tắc, các nhà đầu tư chỉ lựa chọn đầu tư vào chứng khoán của các doanh
nghiệp đáng tin cậy, đang và sẽ có triển vọng phát triển tốt trong tương lai. Chính
điều này sẽ cho phép quá trình "chọn lọc nhân tạo", "bỏ phiếu" cho sự hỗ trợ
và phát triển các doanh nghiệp này trở nên khách quan và phù hợp cơ chế thị
trường hơn (còn những doanh nghiệp khác mà chứng khoán của họ không hấp
dẫn sẽ phải điều chỉnh lại định hướng và chất lượng quản trị kinh doanh, sáp
nhập hoặc giải thể). Hệ thống luật pháp, cũng như các cơ quan, bộ phận và cá
nhân trong hệ thống quản lý nhà nước liên quan đến thị trường tài chính, nhất
là đến đầu tư gián tiếp nước ngoài sẽ phải được hoàn thiện, kiện toàn và nâng
cao năng lực hoạt động hơn theo yêu cầu, đặc điểm của thị trường này, cũng
như theo các cam kết hội nhập quốc tế. Đồng thời, thông qua tác động vào thị
trường tài chính, Nhà nước sẽ đa dạng hóa các công cụ và thực hiện hiệu quả
việc quản lý của mình theo các mục tiêu lựa chọn thích hợp. Trên cơ sở đó,
năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với nền kinh tế nói chung, thị
trường tài chính nói riêng sẽ được cải thiện hơn.
2. Tác động tiêu cực
Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, dòng vốn FPI còn gây ra một số
9
tác động tiêu cực sau:
Thứ nhất, làm tăng mức độ nhạy cảm vả bất ổn về kinh tế có nhân tố nước
ngoài. FPI được thực hiện dưới dạng đầu tư tài chính thuần túy với các chứng

khoán có thể chuyển đổi và mang tính thanh khoản cao trên thị trường tài
chính, nên các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài dễ dàng và nhanh chóng mở
rộng hoặc thu hẹp, thậm chí đột ngột rút vốn đầu tư của mình về nước, hay
chuyển sang đầu tư dưới dạng khác, ở địa phương khác tùy theo kế hoạch và
mục tiêu kinh doanh của mình. Đặc trưng nổi bật này cũng chính là nguyên
nhân hàng đầu gây nên nguy cơ tạo và khuếch đại độ nhạy cảm và chấn động
kinh tế ngoại nhập của dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đối với nền kinh tế
của nước tiếp nhận đầu tư. Cần nói thêm rằng, sự nhạy cảm và bất ổn kinh tế có
thể bắt nguồn từ các nguyên nhân bên trong, cũng có thể hoàn toàn do các
nguyên nhân bên ngoài nước tiếp nhận đầu tư (phản ứng dây chuyền, làn sóng
domino của các nhà đầu tư quốc từ đó dẫn tới khủng hoảng tài chính tiền tệ châu
Á cuối thập kỷ 90 thế kỷ trước)
Thứ hai, khi dòng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào quá nhiều, nhất là đầu tư
gián tiếp, có thể gây ra những rủi ro vĩ mô. Nguy cơ phổ biến nhất là tỷ giá tăng
lên quá mức (đồng bản tệ lên giá), chính điều đó phá vỡ cân bằng tài khỏan vốn
và làm tích tụ nợ nước ngòai (tỷ gía hối đóai thực tăng sẽ thúc đầy khả năng vay
ngoại tệ không có bảo đảm và gieo mầm cho tình trạng mất vốn khi tỷ giá giảm
xuống mức thấp hơn mức có thể kiểm sóat được). Bên cạnh đó, vốn đổ vào có
thể gây ra áp lực lạm phát trong một số trường hợp như: khi tỷ giá cố định đươc
duy trì, dòng vốn đổ vào dẫn đến tình trạng mở rộng điều kiện tiền tệ trong
nền kinh tế, qua đó sẽ tác động đến mức giá, tỷ lệ lạm phát có thể gia tăng.
Điều đó sẽ gây bất lợi cho hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động của hệ
thống trung gian tài chính nói riêng
10
Chương 2
Thực trạng huy động vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài FPI của
Việt Nam
I. Việc quản lý của nhà nước với dòng vốn FPI
1. Quy định về tỷ lệ nắm giữ sở hữu nước ngoài
Sau 12 năm mở cửa cho đầu tư trực tiếp nước ngoài, ngày 28/6/1999, Thủ

tướng chính phủ ban hành quyết định số 145/1999/QĐ-TTg chính thức cho phép
các nhà đầu tư nước ngoài được phép mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt
Nam.
Ngày 10/6/1999, chính phủ ra quyết định số 139/1999/QĐ-TTg cho phép
các tổ chức, cá nhân nước ngoài được nắm giữ tối đa 20% tổng số cổ phiếu đang
lưu hành của một tổ chức phát hành, chứng chỉ quỹ đầu tư của một quỹ đầu tư
chứng khoán, trong đó một tổ chức nước ngoài được nắm giữ tối đa 7% và một cá
nhân nước ngoài được nắm giữ tối đa 3%. Các tổ chức, cá nhân nước ngoài được
nắm giữ tối đa 40% tổng số trái phiếu đang lưu hành của một tổ chức phát hành,
trong đó một tổ chức nước ngoài được nắm giữ tối đa 10% và một cá nhân nước
ngoài được nắm giữ tối đa 5%.Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài trong Công ty
chứng khoán liên doanh tối đa là 30%.
Sang đến năm 2003, thủ tướng chính phủ ra quyết định số 36/2003/QĐ-
TTg về việc ban hành quy chế góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài
trong các doanh nghiệp Việt Nam. Quyết định này nhằm khuyến khích các nhà
đầu tư nước ngoài góp vốn, đồng thời huy động công nghệ, phương pháp quản lý
doanh nghiệp của nước ngoài và mở rộng thị trường, tăng sức cạnh tranh cho các
doanh nghiệp Việt Nam.Tỷ lệ cho phép mua cổ phần vẫn bị khống chế ở mức 30%
vốn điều lệ của doanh nghiệp vì nếu vượt quá tỷ lệ này thì doanh nghiệp không
11
còn là doanh nghiệp trong nước nữa mà đã trở thành xí nghiệp liên doanh được
điều chỉnh theo một hệ thống pháp luật khác.
Điểm đáng chú ý ở đây là việc mở rộng loại doanh nghiệp được phép nhận
vốn góp, bán cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài bao gồm: doanh nghiệp nhà
nước thực hiện cổ phần hoá, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty hợp danh, liên hiệp hợp tác xã, hợp tác xã hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực
ngành nghề do Thủ tướng Chính phủ quyết định hoặc uỷ quyền bộ trưởng bộ Kế
hoạch và Đầu tư công bố ở từng thời kỳ.
Đồng thời là việc mở rộng định nghĩa về nhà đầu tư nước ngoài bao gồm:
“Tổ chức kinh tế tài chính nước ngoài” là tổ chức kinh tế tài chính được

thành lập theo pháp luật nước ngoài và hoạt động kinh doanh tại nước ngoài hoặc
tại Việt Nam.
“Người nước ngoài không thường trú ở Việt Nam” là công dân nước
ngoài cư trú ở nước ngoài.
“Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam” là công dân nước ngoài và
người không có quốc tịch Việt Nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở Việt Nam.
“Người Việt Nam định cư ở nước ngoài” là người quốc tịch Việt Nam
và người gốc Việt Nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài.
Trong khi đó đối với công ty niêm yết, bằng quyết định số 146/2003/QĐ-
TTg ngày 17/3/2003 của Thủ tướng chính phủ tỷ lệ mua cổ phiếu từ 20% đã được
nâng lên mức 30%. Tổ chức, cá nhân nước ngoài được nắm giữ không giới hạn tỷ
lệ trái phiếu lưu hành trên thị trường chứng khoán Việt Nam thay cho việc chỉ nắm
giữ 40% như trước kia. Tỷ lệ góp vốn của tổ chức kinh doanh chứng khoán nước
ngoài trong Công ty Chứng khoán liên doanh hoặc công ty quản lý quỹ liên doanh
tối đa là 49% vốn điều lệ tăng lên so với mức 30% như trong Quyết định
139/1999/QĐ-TTg.
12
Việc mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có lẽ sẽ mãi còn bị khống chế
ở tỷ lệ 30% nếu như còn sự phân biệt giữa doanh nghiệp nước ngoài và doanh
nghiệp trong nước.
Tuy nhiên đến năm 2005 với việc ra đời của Luật Doanh nghiệp và Luật
Đầu Tư sự phân biệt này đã được xóa bỏ. Theo tinh thần của hai đạo luật này nhà
đầu tư nước ngoài nói chung được đối xử bình đẳng như nhà đầu tư trong nước, cả
về quyền đầu tư, góp vốn, mua cổ phần (dù còn một số phân biệt nhất định).
Quyết định số 238/2005/QĐ-TTg về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào
TTCK Việt Nam ban hành ngày 29/9/2005, theo đó các tổ chức cá nhân người
nước ngoài mua bán chứng khoán trên TTCK được phép nắm giữ tối đa 49% tổng
số cổ phiếu niêm yết; tối đa 49% tổng số chứng chỉ quỹ đầu tư niêm yết, đăng ký
giao dịch của một quỹ đầu tư chứng khoán và không giới hạn tỷ lệ nắm giữ đối với
trai phiếu lưu hành của một tổ chức phát hành.

Mới đây nhất là quyết định 55/2009/QĐ/TTg quy định: Nhà đầu tư nước
ngoài mua, bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam được nắm
giữ: Đối với cổ phiếu: tối đa 49% tổng số cổ phiếu của công ty cổ phần đại chúng.
Trường hợp pháp luật chuyên ngành có quy định khác thì áp dụng theo quy
định của pháp luật chuyên ngành. Trường hợp tỷ lệ sở hữu bên nước ngoài được
phân loại theo danh mục các ngành nghề cụ thể thì áp dụng theo danh mục phân
loại. Đối với chứng chỉ quỹ đầu tư đại chúng: tối đa 49% tổng số chứng chỉ quỹ
đầu tư của một quỹ đầu tư chứng khoán đại chúng. Đối với công ty đầu tư chứng
khoán đại chúng: tối đa 49% vốn điều lệ của một công ty đầu tư chứng khoán đại
chúng. Đối với trái phiếu: tổ chức phát hành có thể quy định giới hạn tỷ lệ nắm giữ
đối với trái phiếu lưu hành của tổ chức phát hành.
Riêng đối với việc nắm giữ cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài trong
các ngân hàng thương mại, Chính phủ đã có Nghị định 69/2007/NĐ-CP ngày
13
20/4/2007 quy định các nhà đầu tư nước ngoài được nắm giữ tối đa 30% vốn điều
lệ.
Tuy nhiên chỉ đến khi Chính phủ ban hành Nghị định số 139/2007/NĐ-CP
vào ngày 5/9/2007 thì quyền này mới được ghi nhận một cách cụ thể, rõ ràng.
Theo đó tất cả các tổ chức là pháp nhân, gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, không phân biệt nơi đăng kí trụ sở chính và mọi cá nhân, không phân biệt
quốc tịch và nơi cư trú, đều có quyền góp vốn, mua cổ phần với mức không hạn
chế tại các doanh nghiệp, trừ một số trường hợp (công ty cổ phần niêm yết; doanh
nghiệp ngành nghề kinh doanh có điều kiện do pháp luật chuyên ngành quy định;
doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa và doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ áp dụng
theo Biểu cam kết về thương mại dịch vụ với WTO).
Ngay trong Biểu cam kết dịch vụ với WTO, Việt Nam cũng cam kết: “Một
năm sau khi gia nhập, hạn chế 30% cổ phần nước ngoài trong việc mua cổ phần
của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được bãi bỏ, ngoại trừ đối với việc góp vốn
dưới hình thức mau cổ phần trong các ngân hàng thương mại cổ phần và các
ngành không cam kết trong biểu cam kết này”.

Như vậy từ ngày 11/1/2008 (một năm sau khi gia nhập WTO), thực chất
rào cản chỉ nằm trong ba loại trường hợp đặc biệt còn lại theo quy định của Nghị
định 139/2007/NĐ-CP. Tuy nhiên khi Việt Nam thực thi lộ trình cam kết với
WTO những lĩnh vực hạn chế nói trên trong tương lai cũng sẽ “mở toang” cánh
cửa cho đầu tư nước ngoài.
Như vậy với hàng loạt những quy định trên, tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư
nước ngoài đã được nâng lên từ 20% trong gia đoạn đầu lên 49% trong giai đoạn
hiện nay. Hạn chế tỷ lệ sở hữu cho nhà đầu tư nước ngoài hiện nay cũng là một
trong những rào cản trong việc quản lý luồng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài.
2. Quy định giao dịch trên tài khoản vốn
14
Năm 2002, NHNN ban hành quyết định 998/2002/QĐ-NHNN ngày
13/9/2002 về quản lý ngoại hối đối với việc mua, bán chứng khoán trong đó, nhà
ĐTNN chỉ được chuyển phần vốn đầu tư thuộc giao dịch vốn ra nước ngoài sau 1
năm kể từ ngày phần vốn đó được chuyển vào tài khoản giao dịch chứng khoán
bằng VND.
Và năm 2004, với việc ban hành Quyết định 1550/2004/QĐ-NHNN ngày
6/12/2004 về quản lý ngoại hối đối với việc mua, bán chứng khoán của ĐTNN tại
TTGDCK đã tạo thêm nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư nước
ngoài. Cụ thể, quyết định này đã bỏ ràng buộc điều kiện rút vốn của nhà đầu tư
nước ngoài, trong khi Quyết định 998/2002/QĐ-NHNN trước đây quy định đối
tượng này chỉ được chuyển ra nước ngoài phần vốn đầu tư (thuộc giao dịch vốn)
sau 1 năm kể từ ngày phần vốn đó được chuyển vào tài khoản giao dịch chứng
khoán bằng VND. Đối với các khoản thu nhập tư đầu tư chứng khoán (cổ tức, trái
tức, chênh lệch giá ), việc chuyển ra nước ngoài cũng thuận lợi hơn. Cụ thể theo
Quyết định 1550, nhà đầu tư nước ngoài chỉ cần hoàn tất các nghĩa vụ về thuế với
Nhà nước là được quyền mua ngoại tệ để chuyển ra nước ngoài.
Bên cạnh đó, Quyết định 1550 cho phép nhà đầu tư nước ngoài được mở tài
khoản giao dịch chứng khoán tại công ty chứng khoán và các công ty này sẽ đảm
trách việc kiểm soát dòng tiền vào, ra của nhà đầu tư nước ngoài thông qua một

ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ. Trong khi trước đây, QĐ 998 quy định:
nhà đầu tư nước ngoài muốn mua, bán chứng khoán niêm yết phải mở tài khoản
lưu ký và tài khoản giao dịch chứng khoán tại thành viên lưu ký nước ngoài.
Bên cạnh Quyết định 1550/2004 là việc ban hành Thông tư 03/2004/TT-
NHNN ngày 25/5/2004 hướng dẫn về việc quản lý ngoại hối đối với việc góp vốn,
mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam.Theo
Thông tư 03, để thực hiện góp vốn, mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt
Nam, Nhà ĐTNN phải mở 1 tài khoản tại một NHTM hoạt động tại Việt Nam.
Mọi giao dịch chuyển tiền để thực hiện góp vốn, mua, bán cổ phần, chuyển
15
nhượng vốn góp, thu và sử dụng cổ tức, lợi tức được chia, mua ngoại tệ tại các
ngân hàng được phép kinh doanh ngoại hối để chuyển ra nước ngoài và các giao
dịch khác liên quan đến hoạt động góp vốn, mua cổ phần trong các doanh nghiệp
Việt Nam của nhà ĐTNN đều phải thực hiện qua tài khoản này.Theo quy định này
các nhà ĐTNN bắt buộc phải thực hiện giao dịch bằng VND.
Và gần đây nhất là Nghị định 160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 quy định
chi tiết về pháp lệnh ngoại hối đã quy định như sau: nhà đầu tư nước ngoài phải
mở tài khoản vốn đầu tư gián tiếp bằng đồng Việt Nam tại tổ chức tín dụng được
phép để thực hiện đầu tư gián tiếp tại Việt Nam. Vốn đầu tư bằng ngoại tệ phải
bán lấy đồng Việt Nam để đầu tư gián tiếp tại Việt Nam. Mọi giao dịch liên quan
đến hoạt động đầu tư gián tiếp phải thực hiện thông qua tài khoản vốn đầu tư gián
tiếp bằng đồng Việt Nam.
3. Chính sách thuế đối với hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài
thông qua thị trường chứng khoán
Từ khi sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh ra đời, để khuyến
khích sự phát triển của thị trường chứng khoán, ngày 27/2/2000 Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 39/2000/QĐ-TTg quy định tạm thời ưu đãi thuế đối với hoạt
động kinh doanh chứng khoán, trong đó quy định:
Thuế giá trị gia tăng
Tạm thời không thu thuế GTGT đối với các hoạt động kinh doanh chứng

khoán trong thời gian 3 năm kể từ năm 2000 đến hết năm 2002.
Thuế thu nhập doanh nghiệp
Đối với công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ ưu đãi về thuế thu
nhập doanh nghiệp theo quy định hiện hành còn được ưu đãi thêm: miễn thuế một
năm và giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp 2 năm tiếp theo.
16
Đối với các tổ chức phát hành có chứng khoán được niêm yết được giảm
50% thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong hai năm tiếp theo kể từ khi niêm
yết chứng khoán lần đầu tại Trung tâm giao dịch chứng khoán.
Thuế thu nhập các nhân
Các cá nhân đầu tư chứng khoán được miễn thuế thu nhập đối với người có
thu nhập cao cho phần thu nhập từ cổ tức, lãi trái phiếu, chênh lệch mua bán
chứng khoán.
Thực hiện quy định trên, Bộ tài chính đã có Thông tư số 74/2000/TT-BTC
ngày 19/7/2000 hướng dẫn thi hành Quyết định số 39/2000/QĐ-TTg ngày
27/3/2000 của thủ tướng Chính phủ quy định tạm thời ưu đãi về thuế đối với các
hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Sau đó, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 72/2006/TT-BTC sửa đổi, bổ
sung Thông tư số 100/2004/TT-BTC ngày 20-10-2004 hướng dẫn về thuế giá trị
gia tăng (VAT) và thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) đối với lĩnh vực chứng
khoán (CK).
Thuế thu nhập doanh nghiệp
Công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán được áp
dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 20% trong thời hạn 10 năm, kể
từ khi khai trương hoạt động kinh doanh. Hết thời hạn hưởng thuế suất 20%, công
ty phải chuyển sang nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo mức thuế suất 28%.
Trường hợp công ty đã đi vào hoạt động kinh doanh và đã thực hiện kê khai
nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo thuế suất 32% (đối với doanh nghiệp hoạt
động theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước) hoặc theo thuế suất 25% (đối với
doanh nghiệp hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam) thì kể từ năm

tài chính 2004 được chuyển sang áp dụng thuế suất 20% cho khoảng thời gian còn
lại. Khoảng thời gian còn lại bằng (=) thời gian được áp dụng thuế suất 20% trừ đi
(-) thời gian đã hoạt động.
17
Công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán mới
thành lập được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 2 năm, kể từ khi có thu nhập chịu
thuế và giảm 50% số thuế phải nộp trong 3 năm tiếp theo.
Các tổ chức khác bao gồm các quỹ đầu tư nước ngoài, tổ chức nước ngoài
được thành lập theo pháp luật nước ngoài, không có tư cách pháp nhân tại Việt
Nam nhưng có mở tài khoản đầu tư chứng khoán tại Việt Nam, các tổ chức thành
lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam (trừ công ty chứng khoán, công ty quản
lý quỹ và các tổ chức nêu tại tiết 2.1, điểm 2, mục III Thông tư số 100/2004/TT-
BTC) thực hiện nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo phương thức khoán như sau:
Đối với chuyển nhượng chứng khoán (cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, trái
phiếu, trừ trái phiếu thuộc diện miễn thuế), số thuế phải nộp được xác định bằng
0,1% tổng giá trị chứng khoán bán ra tại thời điểm chuyển nhượng.
Đối với lãi trái phiếu (trừ trái phiếu thuộc diện miễn thuế), số thuế phải nộp
được xác định bằng 0,1% tổng giá trị trái phiếu (bao gồm mệnh giá ghi trên trái
phiếu và số lãi được nhận) tại thời điểm nhận lãi.
Phần lợi tức từ đầu tư vào cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư đã chịu thuế thu
nhập doanh nghiệp thì không phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp.
Quỹ đầu tư chứng khoán không thuộc đối tượng nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp
Thuế thu nhập cá nhân
Cá nhân trong nước và nước ngoài đầu tư chứng khoán tại Việt Nam tạm
thời chưa phải nộp thuế thu nhập đối với khoản thu nhập từ cổ tức, lãi trái phiếu,
chênh lệch mua bán chứng khoán và các khoản thu nhập khác từ đầu tư chứng
khoán theo quy định hiện hành.
Và gần đây nhất Từ 1/1/2010, cá nhân có thu nhập từ kinh doanh chứng
khoán sẽ phải đóng thuế TNCN. Như vậy, khoảng 730 nghìn tài khoản của các

nhà đầu tư chứng khoán đăng ký tại các công ty chứng khoán sẽ phải nộp thêm
18
một khoản thuế thu nhập cá nhân với 2 phương án mà Tổng cục thuế đã đưa ra.
Một là, cá nhân chuyển nhượng chứng khoán đăng ký nộp thuế theo biểu thuế toàn
phần với thuế suất là 20%. Việc áp dụng thuế suất 20% phải tính trên tổng các loại
chứng khoán đang giao dịch trong năm Dương lịch. Cá nhân chuyển nhượng
chứng khoán đã đăng ký nộp thuế suất 20% vẫn phải tạm nộp theo thuế suất 0,1%
trên giá chứng khoán chuyển nhượng từng lần. Hai là trường hợp cá nhân chuyển
nhượng chứng khoán không đăng kí nộp thuế theo biểu thuế toàn phần với thuế
suất 20% thì áp dụng thuế suất 0,1% trên giá chuyển nhượng chứng khoán từng
lần.
Đối với thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài thì theo Luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam, các tổ chức cá nhân tham gia đầu tư chứng khoán trên thị
trường chứng khoán Việt Nam phải nộp thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài 5%
trên số thu nhập chuyển ra nước ngoài.
Đến năm 2004, Nhà nước đã ban hành Thông tư số 26/2004/TT-BTC
hướng dẫn thực hiện quy định về thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài và hoàn
thuế TNDN tái đầu tư với các nhà đầu tư nước ngoài. Theo Thông tư này, từ ngày
1/1/2004, các khoản thu nhập hợp pháp mà tổ chức kinh tế hoặc cá nhân nước
ngoài thu được do tham gia đầu tư vốn dưới bất kì hình thức nào theo quy định
của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, kể cả cá nhân là người Việt Nam định
cư ở nước ngoài đầu tư về nước và người nước ngoài thường trú ở Việt Nam theo
Luật khuyến khích đầu tư trong nước, khi chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc
giữ lại ngoài Việt Nam không phải nộp thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.
4. Hướng dẫn hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường
chứng khoán
Ngày 24/12/2008, Bộ Tài chính ký ban hành Quyết định 121/2008/QĐ-
BTC ban hành Quy chế hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường
chứng khoán Việt Nam. Theo đó, Quy chế này lần đầu tiên hướng dẫn hoạt động
đầu tư của tất cả các tổ chức cá nhân nước ngoài; hoạt động cung cấp dịch vụ

19
chứng khoán, hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện của tổ chức nước ngoài
trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Theo Quy ché này các nhà đầu tư trên thị
trường chứng khoán Việt Nam dưới các hình thức trực tiếp mua chứng khoán và
đầu tư thông qua việc ủy thác quản lý vốn đầu tư cho công ty quản lý qũy. Các nhà
đầu tư nước ngoài phải đăng ký mã số giao dịch chứng khoán với UBCKNN hoặc
trung tâm lưu ký chứng khoán thông qua thành viên lưu ký. Theo Quy chế, mỗi
nhà đầu tư nước ngoài chỉ được mở một tài khoản vốn đầu tư gián tiếp bằng đồng
Việt Nam tại một tổ chức tín dụng được phép hoạt động kinh doanh ngoại hối để
thực hiện hoạt động đầu tư gián tiếp tại Việt Nam. Mọi giao dịch chuyển tiền để
thực hiện góp vốn, mua, bán cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, chuyển
nhượng vốn góp trong các hoạt động đầu tư, các thanh toán khác liên quan đến
hoạt động đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư nước ngoài; nhận và sử dụng cổ tức,
lợi tức được chia, mua ngoại tệ tại các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh
ngoại hối tại Việt Nam để chuyển ra nước ngoài và các giao dịch khác có liên
quan đều phải thực hiện thông qua tài khoản này. Mỗi nhà đầu tư nước ngoài cũng
chỉ được phép mở một tài khoản lưu ký chứng khoán và mọi bút toán thanh toán
đều phải được thực hiện thông qua tài khoản này.
Với các văn phòng đại diện của tổ chức tài chính nước ngoài tại Việt nam,
họ chỉ được mở tài khoản chuyên chi bằng ngoại tệ hoặc bằng đồng Việt nam có
gốc ngoại tệ tại tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại hối tại Việt Nam và
chỉ được sử dụng tài khoản này vào hoạt động của văn phòng đại diện.
Các nhân viên làm việc tại văn phòng đại diện không trực tiếp thực hiện,
hay thay mặt cho tô chức nước ngoài tham gia điều hành, quản lý các công ty,
quản lý các dự án hợp tác, thực hiện các hợp đồng thỏa thuận ký kết giữa tổ chức
nước ngoài với đối tác Việt Nam, thực hiện các hợp đồng giao dịch tài sản, không
được thay mặt cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các hoạt động kinh doanh
chứng khoán tại Việt Nam và phải báo cáo hoạt động định kỳ hàng tháng, quý,
năm cho UBCKNN.
20

Nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các hoạt động, giao dịch đầu tư thông qua
hình thức ủy quyền qua các văn phòng đại diện, nhân viên làm việc tại các văn
phòng đại diện phải chấm dứt việc ủy quyền. Văn phòng đại diện được nhận ủy
quyền đặt lệnh của công ty mẹ và phải thực hiện chế độ báo cáo cho UBCKNN.
II. Thực trạng huy động vốn FPI của Việt Nam
1. Thực trạng huy động vốn FPI của Việt Nam từ thị trường trong
nước
1.1. Thực trạng huy động vốn FPI qua các quỹ đầu tư
1.1.1. Phân loại các nhà đầu tư ở Việt Nam
Những công ty quản lý quỹ nước ngoài với định hướng chỉ đầu tư lâu
dài tại Việt Nam thì đều thành lập các Văn phòng tại Việt Nam, từ đó đi huy động
vốn tại các trung tâm tài chính quốc tế dưới hình thức thành lập quỹ đóng, quỹ mở
(hạn chế chức năng). Thuộc thành phần này là các tổ chức như MeKong capital,
Vina capital, Dragon Capital
Dòng vốn từ các định chế này là dài hạn, thông thường một quỹ có thời hạn
hoạt động từ 7 - 10 năm. Phương châm hoạt động của các tổ chức này thường là
đầu tư dài hạn và đầu tư giá trị, ít có các hoạt động đầu cơ lướt sóng, bởi vì họ
phải mất rất nhiều thời gian công sức để xây dựng một danh mục đầu tư. Hơn nữa,
những quyết định đầu tư, mua bán chứng khoán thường thông qua Hội đồng đầu
tư, Hội đồng quản trị và Ban đại diện quỹ nên đầu tư theo kiểu lướt sóng là khó
xảy ra. Tuy nhiên, các tổ chức này cũng sẵn sàng tái cấu trúc danh mục đầu tư khi
cảm thấy rằng nắm giữ loại cổ phiếu nào đó về mặt lâu dài là không chắc chắn
hoặc cẩn phải phân bổ nguồn vốn để phân tán rủi ro và đầu tư vào những cổ phiếu
khác có lợi hơn.
Hoạt động tái cơ cấu danh mục đầu tư của các tổ chức này không phải là
động thái rút vốn về nước, mặc dù họ có thể chuyển tiền thoái vốn sang ngoại tệ
mạnh trong một khoảng thời gian nào đó.
21
Nguồn vốn FPI từ các định chế này thường là dài hạn và ổn định, dĩ nhiên
trừ một số trường hợp quỹ phải giải thể thanh lý trước thời hạn, nguồn vốn này

giúp cho TTCK ổn định nên hầu hết các quốc gia trên thế giới có TTCK phát triển
đều trân trọng và khuyến khích thu hút dòng vốn này. Khuyến khích ở đây là cho
phép các công ty quản lý quỹ nước ngoài và quỹ đầu tư được thành lập theo pháp
luật trong nước và coi những thành phần này là nhà đầu tư trong nước, tuy nhiên
nước ta chưa có chính sách này, VAFI đã từng khuyến nghị Ủy ban Chứng khoán
Nhà nước & Bộ Tài chính chính sách trên nhưng cho đến nay vấn đề này vẫn còn
đang được nghiên cứu.
Các tổ chức tài chính, chứng khoán nước ngoài chưa mở văn phòng
đầu tư tại Việt Nam nhưng đã mở tài khoản giao dịch chứng khoán. Nhìn
chung các tổ chức này đều có chương trình nghiên cứu về Việt Nam. Một số tổ
chức thuộc đối tượng này đã có những chương trình đầu tư vào Việt Nam nhưng
chưa nhiều. Một số tổ chức đã lập văn phòng tại Việt Nam để đầu tư khi có điều
kiện, nguồn vốn đầu tư này thường được chuyển dịch từ công ty mẹ, dòng vốn này
mang tính ngắn hạn hơn so với trên .
Hoạt động uỷ thác đầu tư từ các định chế tài chính toàn cầu. Các tập
đoàn tài chính toàn cầu có bộ phận quản lý danh mục đầu tư tại những chi nhánh
của tập đoàn ở khắp nơi trên thế giới, thông thường tập trung tại các quốc gia giàu
có.
Các nhà đầu tư thông qua các định chế này thì có thể dễ dàng đầu tư vào
một TTCK nào đó vào bất kỳ thời điểm nào mà không phải mất thời gian mở tài
khoản, mất thời gian nghiên cứu doanh nghiệp (khác với hình thức mở trực tiếp
tài khoản). Mọi hoạt động giao dịch, thanh toán, nghiên cứu danh mục đầu tư đều
thông qua các định chế này.
Vai trò của các định chế tài chính lớn là rất quan trọng cho hoạt động uỷ
thác đầu tư: cung cấp kịp thời và đầy đủ các tin tức kinh tế tài chính của nước sở
tại, xây dựng được một danh mục đầu tư tốt cho nhà đầu tư của mình, nếu danh
mục không hoàn thiện thì ảnh hưởng tới kết quả đầu tư, các tổ chức tài chính toàn
22
cầu cũng đóng vai trò rất quan trọng trong việc tư vấn cho các nhà đầu tư quốc tế
đầu tư vào một TTCK nào đó.

Dòng vốn FPI từ các nhà đầu tư chiến lược (cùng ngành nghề với doanh
nghiệp sở tại). Ở nhiều nước, người ta coi đây là dòng vốn trực tiếp. Nhìn chung
các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài thường quan tâm tới những doanh nghiệp
lớn thuộc ngành bưu chính viễn thông, ngân hàng bảo hiểm, thực phẩm
Có một số hạn chế trong thu hút nhà đầu tư chiến lược như tỷ lệ sở hữu, tỷ
lệ cổ phần nhà nước. Để khắc phục những hạn chế trên thì thực tế có nhiều nhà
đầu tư chiến lược nước ngoài thực hiện việc hợp tác với công ty trong nước thông
qua việc thành lập công ty liên doanh
1.1.1. Thực trạng đầu tư của các quỹ đầu tư
Khi Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới và mở cửa ra bên ngoài và nhất là khi
ban hành Luật Đầu tư nước ngoài thì đầu tư gián tiếp nước ngoài đã xuất hiện tại Việt
Nam. Đây được coi là làn sóng FPI thứ nhất vào Việt Nam.
Giai đoạn từ 1988 đến 2000: là thời kỳ mở đầu cho dòng vốn FPI vào Việt Nam,
hoạt động đầu tư gián tiếp của các nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) ở mức độ rất khiêm
tốn, chủ yếu là thông qua các quỹ đầu tư. Giai đoạn này chỉ có khoảng 70 công ty cổ
phần của Việt Nam có vốn đầu tư gián tiếp với tổng số vốn khoảng 200 triệu USD.
Trong giai đoạn này, ở Việt Nam đã có bảy quỹ đầu tư nước ngoài được thành lập với
tổng số vốn được huy động khoảng 400 triệu USD. Các quỹ này đều do công ty quản lý
quỹ nước ngoài quản lý và những lĩnh vực được quan tâm là bất động sản, dịch vụ tài
chính, du lịch, sản xuất xi măng và thép. Cụ thể như sau:
Tháng 10 năm 1991: Vietnam Fund. Tổng số vốn là 75 triệu USD, dạng quỹ
đóng. Theo cơ cấu ngành, phần đầu tư chiếm tỷ trọng lớn nhất là bất động sản 24,8%,
tiếp đó là chế biến nông nghiệp 17,1%, công nghiệp chiếm 15%, dịch vụ tài chính chiếm
14,1% và du lịch 7,9 %. Nhìn chung thì danh mục đầu tư của quỹ là tương đối đa dạng,
dàn trải nhiều lĩnh vực khác nhau. Song tỷ lệ giữa các khoản đầu tư trong cùng một danh
mục lại không cân đối. Ví dụ trong khoản mục đầu tư nông nghiệp thì có tới 16% đầu tư
vào công ty đường Anglo,…
23
Tháng 06 năm 1992: Vietnam Keppel Fund (The Vietnam Investment Fund
Ltd.) Tổng số vốn 12,5 triệu USD, dạng quỹ đóng.

Tháng 08 năm 1993: Beta Vietnam Fund Tổng số vốn 68,3 triệu USD, dạng quỹ
đóng. Quỹ được quản lý bới công ty Indochina Asset Management với ngân hàng giám
sát là ngân hàng Bermuda. Mục tiêu của quỹ tăng trưởng vốn nên đối tượng sẽ là các
công ty mà quỹ có thể mở rộng ảnh hưởng. Cụ thể là các dự án đầu tư có giá trị từ 1-5
triệu USD vào cổ phiếu của các công ty nước ngoài quản lý, không đầu tư vào các công
trình đang hình thành hoặc các công ty trong nước. Khi đầu tư thì người quản lý quỹ chú
trọng đến 50% là đội ngũ quản lý, 35% hiệu quả của kinh doanh của doanh nghiệp và
15% là vào khả năng tài chính. Quỹ có khoảng 18 danh mục đầu tư tại các công ty Việt
Nam, chiếm 57% tổng tài sản của quỹ, 13,4% đầu tư vào các khoản nợ của Việt Nam, số
còn lại đầu tư vào tài khoản vãng lai. Lĩnh vực chủ yếu của quỹ là khách sạn chiếm
19,6%, giải trí 7,7%,…
Tháng 07 năm 1994: Vietnam Frontier Fund Tổng số vốn 27,5 triệu USD, dạng
quỹ đóng. Công ty quản lý quỹ là Frontier Fund Management và ngân hàng giám sát là
City Bank. Mục tiêu của quỹ là tăng trưởng vốn thông qua đầu tư các công ty ty niêm yết
hoặc chưa niêm yết hoạt động ở Việt Nam. Cụ thể cũng như Beta Vietnam Fund, quỹ
cũng tập trung vào các dự án đầu tư từ 1-5 triệu USD vào các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài và các công ty liên doanh có người nước ngoài quản lý, ưu tiên các công
ty có nguồn thu ngoại tệ mạnh. Ngoài ra quỹ cũng đầu tư vào các dự án môi trường và
các dự án đòi hỏi phải có thời gian thu hồi vốn với phương châm là quản lý và phát triển
các dự án đã đầu tư hơn là tìm kiếm các dự án mới. Quỹ dành 50% để đầu tư vào 9 công
ty Việt Nam, 14% đầu tư vào các quỹ cho vay trên thị trường mới nổi, lĩnh vực đầu tư
lớn nhất là xây dựng chiếm 20% tài sản ròng
Tháng 07 năm 1995: Vietnam Enterprise Investment Limited Tổng số vốn 35
triệu USD, dạng quỹ đóng. Đây là quỹ hoạt động hiệu quả nhất trong số các quỹ đầu tư
tại Việt nam do công ty Enterprise Investment Management quản lý, thuộc quản lý của
Dragon capital, mục tiêu là cấp vốn phát triển cho các công ty lớn của Việt Nam chính vì
thế quỹ còn được gọi với cái tên Quỹ tiền phát hành. Đối tượng của quỹ là các công ty
24
Việt nam có thể được niêm yết để tạo độ an toàn cao và đạt được tăng trưởng dài hạn.
Mỗi dự án đầu tư của quỹ từ 0,5-2 triệu USD. Yếu tố quyết định đầu tư của quỹ là tỷ lệ

hoàn vốn nội bộ IRR là từ 25- 30%, chiến lược phát triển trong 3-5 năm và tỷ lệ chia cổ
tức là 10%. Khác với Beta Vietnam fund quỹ không có ý định kiểm soát công ty, trên
50% tài sản quỹ đầu tư vào công ty Việt Nam, tài trợ cho hoạt động quản lý của Việt
Nam. Lĩnh vực trọng tâm của quỹ là tài chính chiếm 37% tiếp đó là các ngành sản xuất
như xi măng 10%, thép 5,9%, Đồng thời quỹ cũng quan tầm đến một số lĩnh vực khác
như bất động sản, du lịch,
Tháng 09 năm 1994: Templeton Vietnam Opportunities Fund. Tổng số vốn 117
triệu USD, dạng quỹ đóng
Tháng 10 năm 1994: Lazard Vietnam Fund. Tổng số vốn 58,5 triệu USD, dạng
quỹ đóng.
Bảng 1: Danh sách quỹ và công ty quản lý quỹ
(trước tháng 7/1995)
Công ty quản lý quỹ Quỹ
Năm
thành
lập
Quy mô
(triệu
USD)
Tình trạng hiện
nay
1. Vietnam Fund
Management Co.Ltd.
Vienam Fund T10/91 75 Chấm dứt hoạt
động năm 2001
2. The Vietnam
Investment Fund Ltd.
Vietnam Keppel
Fund
T6/92 12.5 Thu hẹp quy mô

còn 5 triệu USD
3. Indochina Asset
Management
Beta Vietnam Fund T8/93 68.3 Thu hẹp quy mô
còn 7 triệu USD
4. Frontier Fund
Management
Vietnam Frontier
Fund
T7/94 27.5 Chấm dứt hoạt
động năm 2004
5. Templeton Investment
Management Pte.Ltd.
Templeton Vietnam
Opportunities Fund
T7/94 117 Chấm dứt năm
1997 và trở thành
Asian Fund
6. Vietnam Vest Ltd Lazard Vietnam T10/94 58.5 Chấm dứt hoạt
25

×