Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Lịch sử văn hóa Chăm Pa pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.21 KB, 5 trang )

Home Tôn giáo BLM giáo, Ấn Độ giáo Ảnh hưởng tôn giáo Ấn Độ với văn hóa Champa
Ảnh hưởng tôn giáo Ấn Độ với văn hóa Champa
. Việt nam là một nước đa tôn giáo và đa dân tộc nên có bức tranh văn hoá tôn giáo, dân
tộc đa dạng, phong phú. Góp phần không nhỏ vào bức tranh văn hoá đa dạng ấy có văn
hoá tôn giáo dân tộc Chăm. Những tôn giáo Ấn Độ như Bà la môn, Ấn Độ giáo, Hồi giáo
hầu như chỉ tập trung trong cộng đồng nguời Chăm hiện đang sinh sống ở miền Trung
Việt Nam.
Nếu gọi vùng Đông Nam Á cổ là Ấn -Trung (Indo - China) thì văn hoá tôn giáo Chăm Pa
cổ mang đậm dấu ấn văn hoá tôn giáo Ấn Độ, thậm chí cho đến ngày nay tôn giáo này
còn đậm hơn cả ở quê hương nó là Ấn Độ mà các nhà dân gian học gọi là thuyết “hoá
thạch ngoại vi trên biên”.
Nằm trong cơ tầng văn hoá Đông Nam Á, dân tộc Chăm có nền văn hoá bản lâu đời, vì
vậy, các tôn giáo Ấn Độ khi du nhập vào Chăm pa đều bị bản địa hoá.
2. Các tôn giáo Ấn Độ truyền bá tới Đông Nam Á bằng hai con đường, đường thuỷ và
đường bộ: một đường từ bờ biển Coromandel Ấn Độ thông qua eo biển Malacca tới quần
đảo Mã Lai; một con đường khác là từ Át Xan tiến vào Mianma, rồi từ Mianma truyền vào
lưu vực sông Mê Công, đến Chân Lạp, Phù Nam và Chăm Pa.
Các sử liệu Trung Quốc cho biết, vào năm 192, thừa lúc nhà Hậu Hán suy yếu, một nhân
vật tên là Khu Liên liền chiếm một phần đất của quận Nhật Nam của nhà Hán (vùng đất
nằm giữa đèo Ngang và đèo Hải Vân) xưng vua trong một huyện cực nam là Tượng Lâm
(phía nam Thừa Thiên hiện nay). Đó chính là Lâm Ấp hay Chăm Pa mà Tấn thư năm 280
xác định:” Vương quốc này, về phía nam giáp nước Phù Nam, gồm rất nhiều bộ lạc và
liên kết với nhau, lợi dụng núi non hiểm trở, họ không chịu qui phục Trung Quốc”.1
2.1. Hiện nay, các nhà khoa học chưa tìm thấy một tư liệu nào nói về các nhà sư hay
những tín đồ của các tôn giáo Chăm Pa đến truyền đạo. Nhưng những tư liệu khảo cổ
học, các bia ký Chăm Pa cho thấy các tôn giáo Ấn Độ đã đến các vương triều Chăm Pa
từ rất sớm, thậm chí cùng với việc lập quốc, xây dựng vương quyền kết hợp với thần
quyền. Bằng chứng cho thấy niên đại sớm nhất mà Phật Giáo được truyền đến Chăm Pa
là tấm bia kí Võ Cạnh được tìm thấy gần Kauthara ( Nha Trang). Tấm bia kí này có niên
đại thế kỷ III-IV. Trên bia được ghi bằng chữ Phạn, viết theo kiểu chữ Amravati, có nội
dung mang tư tưởng Phật giáo như: “Lokasaaya gatàgati”( sự chết hoặc sự phục sinh của


thế giới này) hay: “ Prajànà Karuna”( từ bi trắc ẩn đối với chúng sanh). Theo Tiến sĩ Ngô
Văn Doanh, tấm bia Võ Cạnh là bằng chứng vật chất đầu tiên và cũng là cổ nhất ở Đông
Nam Á nói về Phật giáo.
Bằng chứng thứ hai về Phật giáo thời kỳ đầu ở Chăm Pa là pho tượng Phật bằng đồng có
niên đại từ thế kỷ IV đến thế kỷ VI được tìm thấy ở khu di tích Phật giáo ở Đồng Dương.
Đây là pho tượng Phật ”áo ướt” theo phong cách Ganhara nhưng tóc lại xoăn của Natura,
phải chăng nó được nhập trực tiếp từ Ấn Độ hoặc từ Xrilanca.
Năm 1901, các nhà khảo cổ học ngời Pháp đã đào và phát hiện ở tu viện Phật Đồng
Dương 229 pho tượng Phật. Hiện nay, những bức tượng và các mảng điêu khắc liên
quan đến các dấu ấn Phật giáo được trưng bày ở bảo tàng Chăm Đà Nẵng. Các sử liệu
Trung Quốc như “ Lương thư, Tuỳ thư, Nam tề thư…” đều ghi rằng Chăm Pa là một quốc
gia Phật Thích Ca. Vào đời nhà Tuỳ, Lưu Phương đem quân từ Giao Châu đi đánh Lâm
Ấp và chiếm được quốc đô. Lưu Phương vào thành bắt hết người Chăm, thu được 18
thần chủ bằng vàng thờ trong miếu, hơn 1300 bộ kinh Phật và nhiều sách viết bằng chữ
Chiêm Bà1.
Các nhà khảo cổ học còn tìm thấy thân tuợng Phật ở Quảng Khê (Quảng Bình) và hình
Phật trên phù điêu ở Phước Tịnh (Phú Yên), Thân tượng Phật ở Quảng Khê gắn với kiểu
tượng Ấn Độ thế kỷ IV-VI ở Bagh II và Ajanta X. Còn phù điêu ở Phước Tịnh cũng thuộc
thế kỷ IV-VI và gần với nghệ thuật tượng Phật Môn-Đvaravati.
2.2. Sử sách Trung Quốc cho thấy, ngay từ những thế kỷ đầu công nguyên, Bà la môn và
Ấn Độ giáo đã vào Chăm Pa: “…ở Lâm Ba (Lâm ấp)- tức Chăm Pa, có một quốc vương
tên là Bhadravarman đã cho xây một đền thần đầu tiên ở vùng núi Mỹ Sơn, hơn thế ông
đã đem dâng hiến nó cho Siva - Bhadresvara”2.
Bà la môn giáo du nhập vào Chăm Pa rất sớm. Bốn bia ký bằng chữ Phạn có niên đại thế
kỷ VII được tìm thấy ở Quảng Nam và Phú Yên ở triều đại Bhadresvaravamin, ba trong
bốn bia ký đó ghi nhận lãnh địa dành cho vị thần này. Còn bia ký Mỹ sơn thì nói đến sự
thành kính dành cho” Mahesvara, Uma, Brahma, Visnu…”
Những bia ký của ông vua Sambhuvarman thế kỷ VII nói về một lãnh địa thần của thần
( deva devalaya) nghĩa là của Bhadrésvara đã bị đốt phá và đã được vua khôi phục lại.
Một bia ký khác nói về việc xây dựng một bàn thờ, một vedi (bệ thờ) bằng gạch bọc bạc

và trên có đặt một bức tượng của Laksmi. Như vậy, cho đến thế kỷ thứ VII, Ấn Độ giáo mà
chủ yếu là Siva giáo đã trở thành tôn giáo chính thống của các vua chúa Chăm Pa. Từ
đây hình thành Thánh địa tôn giáo Mỹ Sơn (mà đến hôm nay được UNSCO công nhận là
di sản văn hoá thế giới). Khu thánh địa tôn giáo Mỹ Sơn cũng bị đập phá nhiều lần. Theo
“Tống thư”, năm 446, thứ sử Giao châu là Đàn Hoà Chi đã phá các đền đài, nấu các bức
tượng vàng của Lâm Ấp thành thoi được 100 ngàn cân.
Từ thời Lâm Ấp đến Hoàn Vương, tức là từ thế kỷ II đến thế kỷ IX, đạo Bà la môn và Ấn
Độ giáo luôn luôn được coi trọng. Các bia ký giai đoạn này đều chứng minh tầm quan
trọng của Siva giáo: ” Đáng kính trọng hơn cả Brahma, Visnu, Indra. Surya, Asura, hơn
những vị Bàlamôn và hơn những Rsi, các vua chúa”.
Tuy nhiên, trong suốt quá trình đó, Phật giáo luôn luôn tồn tại và có nhiều triều đại vẫn coi
trọng Phật Giáo. Một bia ký có niên đại năm 829 của vị triều thần Bakul nói tới những tặng
phẩm do Samata, vị thượng thư của triều đại Vikrantavarman, cúng cho vị thần ở nước
Mandala và ghi chép về hai tăng viện Phật giáo (vihara) và hai đền thờ (deva kutidve)
dâng cho Jinahay (tức Phật) và nói tới vai trò của những Phật tử mà tác giả bia ký gọi là
Buddhanirvana.
2.3. Cũng như phật giáo và Siva giáo, Visnu giáo cũng đượcnhiều triều đại coi trọng. Ba
bia ký (hai của Indravarman I và một của Vikrantavarman III) tìm thấy ở Phan Rang nói
nhiều tới Visnu giáo. Nhà vua tự so sánh mình với Vikrama: “ Nâng quả đất lên bằng hai
cánh tay” hoặc với Narayana: “ Nằm trên con rắn và nâng thế giới lên bằng bốn cánh tay”.
Bia ký của Senapati Par, tổng đốc tỉnh Pandurangapura (vùng Phan Rang ngày nay) ngợi
ca vị tổng đốc như một Narayana (Visnu) hiện thân, và cánh tay của ông được so với “con
rắn nâng cái đĩa trái đất chìm đắm trong đại dương của thời đại Kali”.
Từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XV, lịch sử Chăm Pa có nhiều biến động lớn. Vào thế kỷ XIII,
từ thời Jaya Harivarman I, bắt đầu cuộc chiến tranh giữa bắc và nam Chăm Pa, rồi tiếp đó
là giữa Chăm Pa và Cămpuchia. Kết quả là Chăm Pa bị tàn phá nặng nề và trở thành một
tỉnh của người Khơme từ năm 1203 đến 1220. Các bia ký thời kỳ này đều nói tới vai trò
của Phật giáo Đại thừa ở Chăm Pa. Tuy nhiên, vua Suryavarmadeva mặc dù tuyên bố
theo phật giáo đại thừa nhưng vẫn dâng hiến tặng vật cho vị thần Siva ở Mỹ Sơn là
Bhadresvara, tặng vật của ông là 1 chiếc kosa có sáu mặt (Satmukha) nặng 510 thoi. Đây

là một trong những kosa quan trọng và có giá trị nhất mà chúng ta được biết về văn minh
cổ Chăm Pa.
2.4. Tóm lại, suốt hơn 12 thế kỷ tồn tại, Chăm Pa liên tục lấy những tôn giáo Ấn Độ làm
tôn giáo của mình. Chăm Pa không kỳ thị tôn giáo mà tiếp thu rất nhiều giáo phái của Ấn
Độ. Bao trùm lên suôt quá trình lịch sử tồn tại của mình là sự hỗn dung của các giáo phái
Ấn Độ. Văn hoá và con người ChămPa tiếp nhận tất cả: Đức hiếu sinh, từ bi của phật
giáo, tình thương của Visnu giáo và cả tính hung bạo quyền lực của Siva giáo.
Những tôn giáo Ấn Độ đã chi phối rất lớn đến đời sống văn hóa Chămpa. Những ảnh
hưởng đó có thể tìm thấy ở trong đời sống tâm linh, phong tục tập quán, văn học nghệ
thuật, kiến trúc, điêu khắc v.v… của người Chăm.
3. Cùng với sự tiếp thu tôn giáo, ngay từ khi ra đời nhà nước Lâm Ấp năm 192, Người
Chăm đã tiếp thu những ảnh hưởng kèm theo tôn giáo là văn hoá, văn học, văn tự, phong
tục và đặc biệt là nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc. Ảnh hưởng của nghệ thuật kiến trúc,
điêu khắc của Ấn Độ có thể là trực tiếp từ Ấn Độ, hoặc thông qua các nước trong khu vực
Đông Nam Á.
Nhưng khi tiếp thu những thành tựu văn minh Ấn Độ, người Chăm đã gắn với nghệ thuật
bản địa, làm cho nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc Chăm Pa cổ trở nên độc đáo, có tính
chất điển hình ở Đông Nam Á. Những đền tháp và các tác phẩm điêu khắc của người
Chăm xưa đều tiếp thu của Ấn Độ, vừa có sự tiếp thu của Khơ me, của Giava và cả của
Đại Việt.
Qua nghiên cứu những tư liệu tương đối phong phú về nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc
của Chăm Pa của các học giả người Pháp như P. Stéc ; J. Boátsơlie và đặc biệt là H.
Păcmăngchiê, các ông đã chia bảng niên đại và phong cách nghệ thuật ra thành nhiều
thời kỳ, kèm theo đó là các phong cách nghệ thuật. Một số nhà nghiên cứu Việt Nam đã
đưa ra những khung niên đại và phong cách khác nhau. PGS Cao Xuân Phổ chia ra thành
6 mốc lớn. TS Ngô Văn Doanh trong cuốn Văn hoá Chăm Pa lại thống nhất theo cách chia
của các học giả người Pháp đầu thế kỷ. H. Pácmăngchie chia lịch sử nghệ thuật cổ Chăm
pa làm hai thời kỳ:
Thời kỳ thứ nhất: từ thế kỷ VII đến thế kỷ X
Thời kỳ thứ hai: Bắt đầu từ thế kỷ XI đến kết thúc nghệ thuật cổ Chăm Pa

P.Stéc chia nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc cổ Chăm Pa ra các phong cách:
1- Phong cách Mỹ Sơn E1 (thế kỷ VIII đến đầu thế kỷ IX)
2- Phong cách Hoà Lai (nửa đầu thế kỷ IX)
3- Phong cách Đồng Dương (nửa hai thế kỷ IX - đầu thế kỷ X)
4- Phong cách Mỹ Sơn A1 (đầu thế kỷ X - đầu thế kỷ XI)
5- Phong cách chuyển tiếp từ Mỹ Sơn A1 sang phong cách Bình Định (nửa đầu thế kỷ XI
đến đầu thế kỷ XII
6- Phong cách Bình Định (giữa thế kỷ XII đến đầu thế kỷ XIV)
7- Phong cách muộn (đầu thế kỷ XIV đến thế kỷ XVI)
Nhờ cách chia này, P.Stéc vừa gộp được quá trình phát triển của nghệ thuật kiến trúc lẫn
điêu khắc, đồng thời xâu chuỗi được niên đại và phong cách tương ứng với lịch trình phát
triển nghệ thuật Chăm Pa cổ.
3.1. Kiến trúc Chăm Pa cổ còn lại chủ yếu là đền Tháp. Nếu tính cả hai khu kiến trúc lớn
là khu di tích Mỹ Sơn và khu Đồng Dương thì suốt dải đất miền Trung từ Quảng Nam vào
đến Bình Thuận có tất cả 19 khu Tháp với 40 kiến trúc lớn nhỏ hiện còn và có niên đại từ
thế kỷ IX đến XVI. Nếu so sánh với những gì đã mất, số lượng Tháp Chăm còn lại quá ít
ỏi, nhưng chúng là những bằng chứng đầy thuyết phục về một nền kiến trúc cổ độc đáo
của ĐNA
Tháp cổ Chăm Pa ảnh hưởng từ Ấn Độ bởi nó mang hình núi Mê ru thu nhỏ. Các vị thần
của Ấn Độ giáo ngự ở trung tâm thế giới trên núi Mêru nên đền thờ ngài ở hạ giới phải thể
hiện như núi Vũ Trụ Mê ru thu nhỏ và phải tuân theo bố cục: hướng tâm, các trục quay ra
bốn hướng, mặt tiền quay về hướng đông (hướng mặt trời mọc, nguồn gốc của sự sống).
Hiện nay cụm tháp còn tương đối hoàn chỉnh là Tháp Chàm Pôklongrai ở Ninh Thuận.
Tháp này được xây dựng trên đỉnh của đồi Trầu, chia làm ba phần, tháp cổng quay mặt về
hướng đông, kế đến là một chiếc sân gạch hình chữ nhật rộng chừng 20 m2, cao chừng
hơn 1 m, là sân để múa hát và làm lễ. ở trung tâm là tháp chính, đó là một toà tháp hình
khối chân vuông được xây bằng gạch có tường rất dày, ở giữa rỗng, hành lang dẫn vào
lòng tháp rất hẹp và có tượng bò thần Nađin bằng đá ngự một bên lối đi. Trong lòng tháp
là một gian điện thờ hình vuông, vách đứng thẳng, không trang trí và phẳng trơn. Một mái
vút cao ở phía trên gian điện thờ được xây theo kiểu so le giật cấp kéo thẳng một mạch

lên tận đỉnh. Trên các đường trục, có những ô khám nhỏ khoét trong vách tường, dùng
làm nơi để đèn dầu. Ở chính giữa là bệ thờ bộ mukhalinga-yoni có gắn mặt vua - thần
Pôklongrai. Do chỉ có một hành lang dẫn vào rất hẹp, lại không có cửa sổ nên hầu như lúc
nào trong gian thờ cũng mờ tối, tạo ra cảm giác linh thiêng pha chút bí hiểm cho gian thờ.
Gian thờ hẹp cũng có thể có mục đích là không thể vào nhiều người một lúc được. Các vị
cả sư cho biết, ngày xưa, chỉ có những tu sĩ Balamôn và những người thuộc đẳng cấp
cao mới được vào trong gian điện thờ.
Phía nam của tháp chính là tháp lửa, là nơi ngày xưa dùng làm nơi chuẩn bị đồ tế thần.
Nhìn từ bên ngoài, tháp Chăm là một là một cấu trúc nhiều tầng. Tầng dưới cùng làm cái
vỏ cho gian điện, bên ngoài có những hình ốp có trang trí nằm giữa hai bộ gờ trên và
dưới. Các tầng tháp nối nhau nhỏ dần lên tận đỉnh, mỗi tầng lại có các hoa văn và các lá
nhĩ mang nhiều phong cách khác nhau, ở tháp Pôklongrai, mỗi tầng lại có tượng Siva làm
bằng đá, và ở trên đỉnh tháp là một hòn đá hình bầu dục (giống như hòn đá trên các “kut”)
đầu nhọn hướng lên trời. Có ý kiến cho rằng đây là biểu tượng Linga, nhưng theo tôi thì
có lẽ đây là biểu tượng bia đá cho kalăn (lăng mộ) cho chiếc mộ khổng lồ là tháp.
Những khu đền tháp lớn của Chăm Pa tập trung ở các trung tâm lớn như Thánh địa Mỹ
Sơn, vùng Vijaya, vùng Kauthara và Pandurangara thờ các thần của Ấn Độ giáo như
Brhma, Visnu, Siva. Người Chăm gọi cácTháp Chăm là Kalăn, có nghĩa là đền lăng, và
những cụm tháp đền thờ thần được kết hợp với lăng mộ và thờ vua chúa: Tháp Pô Tầm ở
Phan Rí (Bình Thuận) thờ vua PôTầm, tháp Pôrômê và tháp Pôklongrai ở Ninh Thụân thờ
vua Pôrômê và vua Pôklongrai.
Như vậy, các Tháp đền khi đến với Chăm Pa không chỉ để thờ thần nữa mà kèm theo thờ
phụng vua chúa, hay nói rộng ra là thờ cúng tổ tiên. Các bia ký Chăm Pa đều nói tới việc
họ dựng các đền thờ các bậc tiền bối của mình dưới dạng các thần linh. Một số tượng
mặt vua như Poklongirai, Porome được gắn vào cây linga (gọi là Mukhalinga) và đặt thờ
trong lòng các Tháp
Về kiến trúc và điêu khắc Chăm cho đến nay vẫn còn nhiều điều bí ẩn mà các nhà nghiên
cứu chưa kết luận được. Thứ nhất là vật liệu làm vữa để liên kết các viên gạch xây nên
Tháp là bằng chất gì? người Chăm xưa đã xây dựng những ngôi Tháp đồ sộ đó như thế
nào? Điều bí ẩn thứ hai là tài nghệ chạm khắc trên gạch, những tường Tháp dầy đặc

những hình chạm khắc tinh tế như những bàn tay có phép màu của những nghệ sỹ Chăm
xưa. Không biết người Chăm xưa xây tháp xong mới khắc chạm hay chạm trổ trước từ
gạch non mới ghép lại xây nên?
TS Ngô Văn Doanh chia nghệ thuật kiến trúc Chăm thành 3 nhóm, nhóm 1 là những Tháp
được xây dựng từ thế kỷ IX với hai phong cách Hoà Lai và Đồng Dương. Nhóm 2 là nhóm
xây dựng thế kỷ X với phong cách Mỹ Sơn A1 và nhóm 3 là nhóm Tháp thế kỷ XI - XIII với
phong cách Bình Định. Ba phong cách mang ba ngôn ngữ tạo hình chủ đạo : Nhóm 1
khoẻ khoắn trong trang trí và trong hình dáng cục mịch vuông vức, nhóm 2 thanh tú, trang
nhã trong đường nét và hài hoà trong tỷ lệ, nhóm 3 thì đường bệ trong mảng khối.1
Ngoài các khu kiến trúc phục vụ cho Bà la môn giáo và Ấn Độ giáo, Chăm pa còn một khu
kiến trúc và điêu khắc rất quan trọng là khu Phật giáo Đồng Dương, (Quảng Nam). Đồng
Dương theo tiếng Chăm là Indrapura, được xây dựng vào năm 875 dưới triều vua
Indravarman II mà bia ký mô tả là một “thành phố được trang hoàng lộng lẫy đẹp như
thành phố của Indra”. Đây là một tổng thể kiến trúc nằm trên một ngọn đồi cao 500m, có
chiều dài từ tây sang đông là 1330 m. Trong thung lũng còn lại rất nhiều dấu vết của
những ngôi chùa hay những tu viện Phật giáo. Theo bia ký tìm thấy ở Đồng Dương, tu
viện Phật giáo này xây dựng để thờ Lasmindra Lokesvara. Rất tiếc là khu di tích tu viện
Phật giáo này đã không được tồn tại cùng với thời gian.
Trong vòng 8 thế kỷ, người Chăm đã xây đựng rất nhiều đền Tháp với những phong cách
khác nhau, tháp và những phế tích tháp còn lại hôm nay là rất ít ỏi so với những gì đã có
nhưng vẫn là những viên ngọc quí của nền kiến trúc cổ Việt Nam và Đông Nam Á. Cùng
với tôn giáo là sự giao lưu văn hoá giữa các nước trong khu vực Đông Nam Á. Chúng ta
có thể thấy phong cách Chăm trên nhóm kiến trúc Prasat Damay Krap ở Xiêm riệp, có thể
thấy kiến trúc nửa Chăm - nửa Khơ me trên cụm tháp Hoà Lai ở Ninh Thụân. Tháp Đôi ở
Bình Định có chân tháp mang dáng dấp của Đại Việt, thân tháp là Chăm, nhưng phần trên
lại là Khơ me…
3.2. Ở Đông Nam Á có 3 nền điêu khắc mang tầm cỡ thế giới là Giava, Khơme và Chăm.
Hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau khi đánh giá những bức tượng cổ ChămPa. Nhiều
nhà nghiên cứu Mỹ thuật đều công nhận vẻ đẹp lạ kỳ và độc đáo của phong cách nghệ
thuật Đồng Dương, một phong cách được đánh giá là rất Chăm. Nhưng cũng nhiều nhà

nghiên cứu cũng cho rằng từng nhân vật hay từng nhóm nhân vật trên các mảng điêu
khắc hay bị tách rời, thiếu sinh động, thiếu nhịp điệu và thường vi phạm những qui tắc về
giải phẫu học và không gian mà nghệ thuật điêu khắc qui định. Ví dụ như bàn tay quá to,
cánh tay quá cong ở vũ nữ Trà Kiện, eo hông tượng Siva uốn quá cong v.v Cũng có lẽ vì
vậy mà nghệ thuật điêu khắc Chăm Pa được đánh giá là nghệ thuật ấn tượng nhiều hơn
là tả thực. Đây là một đặc điểm tạo nên vẻ đẹp độc đáo và riêng có ở nghệ thuật điêu
khắc cổ Chăm Pa và có đóng góp lớn cho nghệ thuật điêu khắc ở khu vực Đông Nam Á.
Lần cập nhật cuối ( Thứ năm, 02 Tháng 10 2008 18:15 )

×