Tải bản đầy đủ (.ppt) (8 trang)

Argentina: Khủng hoảng nợ chính phủ, ngân hàng và tiền tệ potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.3 KB, 8 trang )


Argentina: Khủng hoảng nợ chính phủ,
ngân hàng và tiền tệ
Tài chính Phát triển
Học kỳ Xuân
2002

Kinh tế Argentina
Vào đầu thế kỷ 20, Argentina là một trong những quốc gia
giàu nhất thế giới. Với tài nguyên giàu có, Argentina xuất
khẩu mạnh thực phẩm và nguyên vật liệu.
Trong 4 thập kỷ từ sau thế chiến thứ hai đến cuối 80,
Argentina áp dụng:

Chính sách phát triển hướng nội

Chính sách ngân sách mở rộng; thâm hụt ngân sách được
tài trợ bằng in tiền.

Từ 1976 đến 1989, hai cuộc siêu lạm phát và hai cuộc
khủng hoảng ngân hàng xảy ra.

Thập niên 90
Năm 1991, hội đồng
tiền tệ được thiết lập

1 Peso = 1 USD

Mức cung tiền = dự
trữ ngoại tệ


Đồng peso hoàn toàn
có thể chuyển đổi.
Kết quả

Không còn lạm phát

Dòng vốn nước ngoài
chảy vào

Tăng trưởng GDP đạt
bình quân 6,1%/năm
giai đoạn 91-97.
Tăng trưởng GDP 91-02 (%/năm)
Nguồn
: IMF
*
Ước tính;
+
Dự báo

Khủng hoảng 2001-02
Khoản nợ chính phủ 155 tỷ USD không có khả năng chi
trả.
Người dân đồng loạt rút tiền khỏi ngân hàng; chính phủ ra
lệnh đóng băng tài khoản tiền gửi và đặt mức tối đa tiền
được rút là 1000$/tháng.
Nhiều ngân hàng và doanh nghiệp đứng trên bờ vực phá
sản.
Cơ chế hội đồng tiền tệ được xóa bỏ; đồng peso bị phá giá
từ 1 peso/USD lên 4 peso/USD.

Nguyên nhân???

Tỷ giá hối đoái cố định
và các cú sốc từ bên ngoài
Cơ chế hội đồng tiền tệ

Tỷ giá hối đoái cố định một cách cứng nhắc

Không còn khả năng điều hành chính sách tiền tệ

Lãi suất được quyết định bởi Ngân hàng Trung ương Mỹ.
Các cú sốc từ bên ngoài

Mêhicô phá giá đồng peso vào cuối năm 1994; Argentina
đứng vững, nhưng GDP giảm 4%.

Đồng đô la lên giá làm đồng peso Argentina lên giá theo.

Brazil, đối tác kinh tế chính yếu của Argentina, phá giá
đồng real vào năm 1999.
Tác động

Tính cạnh tranh của xuất khẩu suy giảm

Lãi suất ở mức cao

Giảm phát xuất hiện và nền kinh tế rơi vào suy thoái.

Chi tiêu quá mức - Thâm hụt giá tăng và được
tài trợ bằng vay nợ

Tỷ lệ chi ngân sách/GDP tăng
từ 27% năm 1997 lên 30%
vào năm 2000. Nguyên nhân:

Tỷ lệ thất nghiệp (ở mức
12%) không giảm do thành
quả của tăng trưởng kinh tế
không được chuyển đến các
tỉnh nghèo ở sâu trong nội
địa. Chính quyền địa phương
tăng chi trợ cấp thất nghiệp.

Cải cách lương hưu sang hệ
thống tự tài trợ buộc chính
phủ phải chịu chi phí lớn trong
quá trình chuyển đổi (3%
GDP trong năm 2000).
Thâm hụt ngân sách được tài trợ bằng vay nợ thông qua việc phát
hành trái phiếu chính phủ. Nợ chính phủ tăng mạnh.
Khủng hoảng xảy ra
Tăng trưởng kinh tế suy giảm làm các nhà đầu tư nước ngoài lo
ngại về khả năng trả nợ của chính phủ Argentina

Việc bán trái phiếu cho các nhà đầu tư nước ngoài trở nên khó khăn, đồng
thời hàng loạt các khoản nợ đền kỳ đáo hạn.

Khủng hoảng nợ chính phủ
Chính phủ tìm nguồn tài trợ khác:

Buộc các ngân hàng và quỹ lương hữu nội địa mua trái phiếu CP.


Đám phán để vay của IMF.
Những sự kiện này làm người dân đổ đi rút tiền từ ngân hàng.

15 tỷ USD được rút ra khỏi ngân hàng từ T7 đến T11/2001.

Từ T12/2001, trần 1000 USD/tháng tiền gửi có thể rút ra được áp dụng.

Khủng hoảng ngân hàng
Tòa án phủ quyết lệnh đóng băng tài khoản của chính phủ

Tiền tiếp tục được rút ra buộc ngân hàng trung ương phải in tiền để tạo
tính thanh khoản cho các ngân hàng thương mại.

Cơ chế hội đồng tiền tệ được huy bỏ và đồng peso được phá giá.

Khủng hoảng tiền tệ

Khủng hoảng Argentina 2001-02 so với khủng
hoảng Đông Á 1997-98
Khủng hoảng Đông Á

Yếu kém trong hệ thống ngân hàng tạo sức ép lên tỷ giá hối
đoái và kỳ vọng chính phủ phải chi ngân sách lớn để cứu giúp.
Khủng hoảng Argentina

Khó khăn ngân sách làm suy yếu ngân hàng khi chính phủ
dùng dự trữ trong hệ thống ngân hàng để bù đắp cho thâm
hụt ngân sách, đồng thời tạo sức ép lên tỷ giá hối đoái.
Trong khi khủng hoảng Đông Á lây lan nhanh chóng, thì

khủng hoảng Argentina được kiềm chế trong phạm vi của
quốc gia này. Nguyên nhân:

Khủng hoảng được thị trường dự đoán từ trước nên tác động
đến các nước khác được giảm nhẹ.

Sau khủng hoảng 97-99, các nước đã thực hiện chính sách tài
chính thân trọng hơn, giảm lạm phát, duy trì tỷ giá hối đoái
linh hoạt, tăng dự trữ ngoại tệ và giảm nợ ngắn hạn.

×