THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
LỜI MỞ ĐẦU
Từ nhiều năm nay hoạt động Đầu Tư Tín Dụng đã đóng vai trị quan trọng
trong việc tái tạo duy trì năng lực sản xuất, phát triển cơ sở hạ tầng của xã hội nói
chung và của doanh nghiệp nói riêng. Thực tế cho thấy có nhiều phương pháp để
huy động vốn cho đầu tư phát triển cũng như cho hoạt động sản xuất kinh doanh
như: vốn cấp phát từ ngân sách, vốn cổ phần bán công trái, và một số công cụ nợ
khác. Tuy nhiên với ưu thế là nguồn vốn lớn, thời gian giải ngân chắc chắn, có sự
quản lý giám sát chặt chẽ ... thì vốn Đầu Tư Tín Dụng đã đóng góp tới hơn 10%
trong tổng nguồn vốn đấu tư toàn xã hội (giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2000).
Hiện nay, các ngân hàng rất quan tâm tới tín dụng trung dài hạn mà biểu hiện
cụ thể là đầu tư tín dụng theo dự án bởi hai lý do: một là đầu tư tín dụng theo dự án
góp phần quan trọng trong thực hiện các mục tiêu chiến lược kinh tế của quốc gia,
thực hiện các chương trình kinh tế trọng điểm; hai là đầu tư tín dụng theo dự án góp
phần hạn chế rủi ro cho bản thân ngân hàng cũng như cho chủ đầu tư. Nhưng để
quản lý hoạt động đầu tư tín dụng hiệu quả thì khơng phải đơn giản , bởi cho đến
nay vấn đề xác định hiệu quả, đánh giá hiệu, quản lý việc sử dụng vốn đang còn rất
nhiều vướng mắc. Như Richard Hely trong cuốn “Farming agribusiness thì :
“Phương pháp đánh giá các dự án dường như chưa được áp dụng đúng ở tất cả các
cấp của hệ thống quản lý kinh tế của Việt Nam. Cũng như nhiều nước đang phát
triển khác, những số tiền lớn của xã hội chi cho việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
và đầu tư trực tiếp sản xuất nhưng bị lãng phí do chưa điều tra kỹ lưỡng về tính khả
thi của các phương án , nhu cầu thị trường và hiệu quả kinh tế. Mặc dù sự lầm lẫn
trong một số quyết định đầu tư là không tránh khỏi những nhưng cần có một kỹ
thuật tốt để thẩm định các dự án một cách hệ thống. Những kỹ thuật này có thể làm
tăng vọt tỷ lệ các dự án thành công và các quan chức cũng như các nhà quản lý
kinh tế nên học tập và áp dụng chúng.”
1
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Hơn thế, qua thực tế ta cũng thấy rằng trong số rất nhiều các nhân tố ảnh
hưởng đến hiệu quả của đầu tư nói chung và đầu tư tín dụng theo dự án nói riêng
thì thẩm định dự án có vai trị quan trọng nhất. Để góp phần một lần nữa làm sáng
tỏ điều này em lựa chọn đề tài: “Thẩm định – nhân tố quyết định đến hiệu quả
đầu tư tín dụng theo dự án”. Đề tài sẽ đi phân tích vai trị của thẩm định đối với
ĐTTD có nghiên cứu thực trạng thẩm định dự án trong hệ thống ngân hàng hiện
nay.
Em xin chân thành cảm ơn sự giáo đỡ của cô giáo trong quá trình em thực
hiện dự án. Em rất mong có sự đóng góp ý kiến của các thầy cơ.
2
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG
I. Thẩm định dự án
1. Khái niệm và sự cần thiết thẩm định dự án
- Thẩm định theo từ điển tiếng việt là sự xem xét và quyết định thực hiện.
Theo giáo trình Kinh tế đầu tư thì Thẩm định dự án là việc tổ chức xem xét một
cách khách quan, có khoa học và tồn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp
tới tính khả thi của một dự án, từ đó ra quyết định và cho phép đầu tư.
Có thể hiểu một cách cụ thể hơn: Thẩm định dự án là các bước công việc
thực hiện xen kẽ của cấp có thẩm quyền trong tiến trình đầu tư, trên cơ sở tài liệu
có tính chất pháp lý, các giải trình kinh tế kỹ thuật đã được thiết lập,”thẩm tra lại”,
“đánh giá lại” về các mặt như: tính pháp lý, tính phù hợp, tính thống nhất, tính hiệu
quả, tính hiện thực... đứng trên giác độ một doanh nghiệp, một tổ chức và trên giác
độ toàn bộ nền kinh tế nhằm hợp pháp hoá dự án và điều chỉnh tiến trình triển khai
thực hiện dự đầu tư .
Như vậy Thẩm định dự án là một quá trình xem xét, đánh giá từ nhiều góc độ,
dựa trên nhiều quan điểm khác nhau, vậy thì tại sao phải thực hiện Thẩm định dự
án? Có một số lý do như sau: xuất phát từ bản chất, mục tiêu, đặc điểm của hoạt
động đầu tư; xuất phát từ vai trò quản lý của nhà nước về kinh tế và xuất phát từ
mục tiêu của các nhà đầu tư và các tổ chức tài chính tiền tệ
Đầu tư thực chất là sự hy sinh các nguồn lực (tài chính, con người, tài nguyên,
các loại của cải khác) ở hiện tại để kỳ vọng thu được lợi ích lớn hơn trong tương
lai. Dự án là một tập tài liệu ghi cụ thể các công việc cần làm, các chi phí phải bỏ
ra,các lợi ích có thể thu được hay nói một cách khác dự án là một bức tranh phối
cảnh với các mảng mầu sáng tối hoàn toàn theo ý tưởng và điều kiện cũng như khả
năng của hoạ sĩ. Để có thể thu được nhiều lợi ích nhất hạn chế được rủi ro nhiều
nhất thì cần phải có biện pháp giám sát được sự chuẩn bị và thực hiện đầu tư một
cách tốt nhất mà thơng thường thì phịng tránh và ngăn ngừa rủi ro thì tốt hơn rất
3
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
nhiều việc phải khắc phục hiệu quả rủi ro - do đó thực hiện Thẩm định dự án một
cách khoa học, khách quan là phương pháp tốt nhất. Hoạt động đầu tư có đặc điểm
vốn lớn, diễn ra trong thời dài, vốn nằm khê đọng lâu chịu rất nhiều tác động của
các yếu tố bất định vì thế mà rất cần xem xét đánh giá kỹ lưỡng về các mặt như:
khả năng huy động vốn, khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào( máy móc ,thiết bị),
nguồn nguyên vật liệu, năng lượng, thị trường đầu ra , các loại rủi ro có thể xảy ra
và các biện pháp phòng ngừa cũng như khắc phục hậu quả nếu nó xảy ra..Trong dự
án đã trình bày rất rõ các vấn đề trên tuy nhiên để kiểm tra độ chính xác và nhìn
nhận trên nhiều góc độ thì Thẩm định dự án mới làm được.
Nhà nước quản lý hoạt động kinh tế nói chung qua các qui định luật pháp, các
chính sách và nhà nước quản lý hoạt động đầu tư thông qua việc thẩm định để cấp
phép đầu tư, các chế độ ưu đãi, khuyến khích đầu tư. Mọi cơng cuộc đầu tư đều có
những lợi ích cũng như những thiệt hại xã hội, nhiệm vụ của nhà nước là làm sao
để tối đa hoá lợi ích, tối thiểu hoá thiệt hại cho xã hội. Nhiều khi lợi ích của chủ
đầu tư và xã hội mâu thuẫn nhau, nhà nước phải xem xét để dung hoà, xử lý mâu
thuẫn này. Nước nào cũng có chính sách kinh tế, có luật pháp, có mục tiêu và chiến
lược kinh tế khác nhau và để hướng các hoạt động kinh tế nói chung, hoạt động đầu
tư nói riêng theo đúng đường lối chiến lược thì phải giám sát, quản lý - rõ ràng
Thẩm định dự án là một biện pháp rất hiệu quả.
Thơng thường có rất nhiều cách để sử dụng vốn, một sự đầu tư bao giờ cũng
phải chịu mất một khoản chi phí cơ hội nhiều khi giá trị của nó khá lớn do đó phải
cân nhắc kỹ trước khi quyết định đầu tư. Để có thể thấy được tính khả thi của dự
án, để khẳng định rằng các chi phí mà dự án yêu cầu là phù hợp với khả năng thực
tế, các chi phí thực hiện là hợp lý và tương xứng với những lợi ích sẽ thu được, các
yếu tố khác như: công nghệ, kỹ thuật, trình độ khả năng của lao động, các tác động
mơi trường là phù hợp với thực tế địi hỏi, khơng vi phạm pháp luật thì chủ đầu tư
thực hiện Thẩm định dự án. Ngoài ra, để kiểm tra độ chính xác của các cơng thức
4
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
tính tốn và các thơng tin có trong dự án là đúng sự thật, đánh giá sự khách quan
của dự án về các mặt khác tất nhiên chủ đầu tư sẽ tiến hành Thẩm định dự án.
Cũng với mục đích kiểm tra mức độ sinh lời, tính khả thi và các rủi ro có thể
có, các tổ chức tài chính cụ thể là các ngân hàng cũng thực hiện Thẩm định dự án.
Với tư cách là tổ chức tài trợ vốn cho các dự án, ngân hàng sẽ thu được lợi nếu các
dự án thực hiện đạt hiệu quả - ít ra là như dự tính. Do bản chất của hoạt động ngân
hàng là kinh doanh qua tay người khác cho nên rủi ro của ngân hàng sẽ nhiều gấp
đơi chủ đầu tư bởi ngồi rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ chuyên môn ngân hàng
còn phải gánh chịu một phần rủi ro trong hoạt động kinh doanh của chủ đầu tư. Vì
vậy mà Thẩm định dự án là một việc làm hết sức cần thiết đối với sự an toàn của
ngân hàng.
Như vậy Thẩm định dự án là cần thiết đối với các cơ quan quản lý nhà nước,
các ngân hàng, chủ đầu tư nhưng Thẩm định dự án chỉ thực sự góp phần nâng cao
hiệu quả đầu tư nếu chúng ta áp dụng một phương pháp khoa học, phù hợp và các
chủ thể thực hiện thẩm định thực sự khách quan.
2. Nội dung Thẩm định dự án
Theo qui chế quản lý đầu tư và xây dựng, Qui chế đấu thầu, luật khuyến khích
đầu tư trong nước, Luật đầu tư nước ngồi, Thơng tư số 06/1999/TT_BKH &ĐT,
Thông tư số 07/2000/T T_BKH&ĐT của bộ Kế hoạch và đầu tư hướng dẫn chung
về nội dung tổng mức đầu tư, hồ sơ Thẩm định dự án &báo cáo đầu tư, thẩm định
kết quả đầu tư, thẩm định và đánh giá chất lượng xây dựng... thì tuỳ theo mục đích,
qui mơ, tính chất của dự án, hình thức và nguồn vốn đầu tư mà chủ đầu tư sẽ tiến
hành thẩm định các nội dung khác nhau. Tuy nhiên với các dự án sản xuất kinh
doanh dịch vụ mà chủ thể thực hiện thẩm định là cơ quan quản lý nhà nước hoặc
ngân hàng thì nội dung thẩm định gồm các vấn đề sau
2.1. Điều kiện pháp lý của dự án : là việc xem xét những vấn đề chịu sự quản
lý, chi phối của pháp luật hiện hành. Chủ thể thẩm định sẽ xem xét tính đầy đủ hợp
5
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
lệ hồ sơ trình duyệt, tư cách pháp nhân và năng lực của chủ đầu tư, mục tiêu và sự
cần thiết thực hiện đầu tư, hình thức đầu tư và thời hạn đầu tư .
Tính đầy đủ của hồ sơ trình duyệt thể hiện ở Giấy phép đăng ký kinh doanh
(nếu chủ đầu tư là doanh nghiệp), giấy phép đầu tư, giấy phép nhập khẩu nguyên
liệu, máy móc thiết bị (nếu phải nhập khẩu), các loại giấy tờ liên quan đến vấn đề
sử dụng đất, giấy phép xây dựng( nếu dự án có xây dựng )...
Năng lực của chủ đầu tư thể hiện ở năng lực kinh doanh (sở trường, uy tín trên
thương trường, kinh nghiệm, các tầng lớp cán bộ kế cận...) và năng lực tài chính
(khả năng nguồn vốn tự có, tài sản thế chấp khi vay vốn, dòng thu, dòng chi, ở thời
điểm hiện tại và kỳ vọng trong thời gian tới ). Để đánh giá được năng lực của chủ
đầu tư có thể sử dụng các tài liệu như: báo cáo tài chính thời điểm gần nhất gồm có
bảng cân đối kế toán, báo cáo hoạt động sản xuất kinh doanh, báo cáo chi tiết bổ
sung nếu có; báo cáo tồn kho, báo cáo kiểm tốn... và có thể thu thập thêm các
thơng tin khác về thị phần, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.
Có thể nói việc xem xét điều kiện pháp lý của dự án là bước khởi đầu quan
trọng để tiến tới thẩm định các yếu tố khác.
2.2. Sản phẩm thị trường của dự án : Đây là yếu tố quyết định đến mục tiêu
cũng như qui mơ của dự án và nó cịn tác động đến dự án trong suốt qua trình hoạt
động sau này. Cần phải xem xét đặc điểm của sản phẩm mà dự án sẽ cung cấp: đó
là sản phẩm mới hay sản phẩm đã có trên thị trường, sản phẩm này có ln chuyển
được hay khơng, các tính năng của nó là gì (đối với các dự án sản xuất phải cạnh
tranh với sản phẩm đã có trên thị trường thì phải đặc biệt quan tâm tới các tính
năng mới hoặc mẫu mã chất lượng).Thị trường của sản phẩm là vấn đề hết sức
quan trọng, để có thể kết luận được về thị trường mà sản phẩm sẽ được tiêu thụ cần
phải xem xét các vấn đề sau: nhu cầu về sản phẩm ở hiện tại, nhu cầu về sản phẩm
trong tương lai, các nguồn cung cấp ở hiện tại và trong tương lai, khả năng nhập
khẩu... Đồng thời với việc xem xét cung cầu cần quan tâm tới các yếu tố tác động
đến chúng như giá, thu nhập, thị hiếu. Chủ thể đầu tư cũng quan tâm tới các vấn đề
6
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
tiếp thị khuyến thị, khả năng cạnh tranh của sản phẩm từ đó có thể thấy được mức
độ tham gia của dự án vào thị trường - nếu dự án có khả năng thâm nhập và mở
rộng thị trường thì việc đầu tư cho các dự án là nên làm nếu thấy khó khăn thì phải
hết sức thận trọng trước các quyết định đầu tư .
Khi xem xét khía cạnh sản phẩm, thị trường quan trọng nhất là độ trung thực,
chính xác của thơng tin được cung cấp. Để kiểm tra điều này người thẩm định dự
án cần có các thơng tin khác để so sánh, kiểm tra.
2.3. Kỹ thuật công nghệ: đây là yếu tố rất quan trọng quyết định đến hiệu quả
và kết quả đầu tư nhưng để phân tích đánh giá được nó thì khơng phải ai cũng làm
được. Nếu là dự án phức tạp về cơng nghệ, khó đánh giá về mặt kỹ thuật thì nên
th chun gia có trình độ về lĩnh vực này tư vấn thẩm định. Nội dung xem xét
trên ba khía cạnh:
Một là địa điểm thực hiện dự án: Các yếu tố như mơi trường văn hố xã hội,
địa hình địa chất, mặt bằng qui hoạch, hệ thống giao thông, thông tin liên lạc,
khoảng cách đến nơi cung cấp nguyên liệu, đến thị trường mục tiêu, các cơ sở hạ
tầng như điện nước... ở đây rất cần quan tâm đến chi phí giải phóng mặt bằng, chi
phí đền bù thiệt hại do dự án tác động đến môi trường xung quanh.
Hai là công nghệ thiết bị của dự án: cần xem xét các yếu tố như mức độ hiện
đại của cơng nghệ máy móc thiết bị thơng qua các thông số: xuất xứ thời gian sản
xuất, mức độ tự động hố, mức độ chun mơn hố, gắn liền với nó cũng phải xét
đến các nguồn cung cấp thiết bị thay thế. Tuy nhiên máy móc thiết bị chỉ thực sự
phát huy năng lực nếu nó có được người đủ trình độ, kinh nghiệm sử dụng và bản
thân máy cịn phải phù hợp với cơng suất và mục tiêu của dự án.Thực tế cho thấy
vấn đề lựa chọn công nghệ phù hợp là vấn đề không dễ, tuy nhiên người thẩm định
thường quan tâm đến mức độ an toàn, và sự tiện lợi trong sử dụng và bảo quản. Có
thể cơng nghệ máy móc thiết bị khơng cần mới nhưng cần hợp lý đồng bộ - với các
loại máy này cần xem xét thật cẩn thận mức độ hiện đại tránh tình trạng mua phải
rác thải cơng nghiệp. Nếu là công nghệ nhận chuyển giao hoặc mua licien cần xét
7
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
thật kỹ xem đó là licien “động” hay licien ”tĩnh“ bởi giá và tác dụng của hai loại
này chênh lệch rất lớn.
Ba là ảnh hưởng của dự án đến môi trường: Về môi trường cần xem xét các
chất gây ơ nhiễm trong khí thải, nước thải, chất thải rắn của dự án và những giải
pháp kỹ thuật sẽ áp dụng để khống chế sự phát huy tác dụng của các chất gây ô
nhiễm, các biện pháp giám sát dung lượng các chất đó để khống chế trong mức cho
phép. Trong trường hợp bình thường hoặc xảy ra sự cố cần có các giải pháp kịp
thời, do đó cần tính đến cả các chi phí cho máy móc thiết bị xử lý cũng như các chi
phí liên quan khác. Nếu là dự án có ảnh hưởng đến một số khu vực đặc biệt như:
khu bảo tồn thiên nhiên, di tích lịch sử văn hố hoặc ảnh hưởng đến sự cân bằng
mơi trường sinh thái thì ngồi các giải pháp khắc phục, tính tốn các chi phí để giải
quyết cần có các văn bản qui định trách nhiệm của các chủ thể hữu quan, các cam
kết cần thiết và các chế tài phải gánh chịu nếu để xảy ra hậu quả xấu.
Bốn là ảnh hưởng của dự án đến xã hội: một dự án đầu tư thường tác động đến
nhiều mặt của xã hội nên việc xem xét vấn đề này là điều đương nhiên. Cần xác
định rõ các ảnh hưởng (tích cực, tiêu cực) của dự án đến an ninh quốc phòng, đến
yêu cầu văn minh hoá lành mạnh hoá các hoạt động và các mối quan hệ trong sản
xuất kinh doanh, thương mại, ngoại thương...(đặc lưu ý các dự án thuộc loại yểm
trợ sản xuất kinh doanh như: dự án cung ứng dịch vụ tin học, điện toán, tư vấn, hỗ
trợ kỹ thuật và các dịch vụ tương ứng, xử lý thông tin. Đặc biệt cần quan tâm
những ảnh hưởng của dự án đến nhóm dân cư có vị thế yếu, cần giúp đỡ .
2.4. Thẩm định về tổ chức thực hiện : có thể nói một dự án dù được chuẩn bị
tốt đến đâu mà người thực hiện khơng có năng lực hoặc quản lý không tốt dẫn đến
mất mát, chất lượng không đảm bảo thực hiện thì cuối cùng hiệu quả của dự án
cũng là thua lỗ hoặc lãi không đáng với công bỏ ra. Do đó phải xem xét tư cách
pháp nhân, năng lực tài chính, năng lực kỹ thuật của các cá nhân và đơn vị tham gia
dự án, phải xem xét tiến độ thi cơng cũng như chương trình sản xuất của dự án -tiến
hành so sánh với yêu cầu của yêu cầu về thời gian khi dự án đạt được hiệu quả cao
8
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
nhất. Đối với các đơn vị xây dựng cần có giấy phép hành nghề do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cấp - nhưng khơng nên chỉ căn cứ vào giấy tờ mà cần đánh giá
năng lực thực tế qua các cơng trình họ đã thực hiện; đối với các đơn vị cung ứng
công nghệ máy móc thiết bị cần đánh giá tư cách pháp nhân thẩm quyền và nguồn
gốc máy móc thiết bị mà họ ung ứng. Ngoài ra nên để ý tới bộ máy quản trị điều
hành, đội ngũ lao động cũng như các nguyên tắc hoặc hợp đồng ký kết giữa các bên
sao cho hợp lý và hữu hiệu nhất.
2.5. Thẩm định về mặt tài chính : việc làm này nhằm chuẩn xác hoá các số
liệu về thu và chi trong dự án, lượng định được tính vững chắc về tài chính của dự
án, sức sống về tài chính( financial viability) của dự án trong thời gian thực hiện
cũng như vận hành kết quả đầu tư, đồng thời đánh giá được khả năng sinh lợi của
dự án. Để có thể đưa ra các kết luận về vấn đề trên cần thực hiện các cơng việc sau:
Rà sốt lại các bảng tính tốn vốn đầu tư ( khơng thiếu, khơng trùng, khơng có
những khoản quá cao hay quá thấp...), chi phí hay giá thành sản phẩm dịch vụ mà
dự án sử dụng hoặc tạo ra, doanh thu mà dự án dự định thu được trong từng thời
kỳ. Xem lại tính khả dụng, tính hiện thực của các nguồn thu chi. Xác định mức độ
chắc chắn của các phương thức huy động vốn từ các nguồn khác nhau và tính tốn
thật kỹ cái giá phải trả cho việc sử dụng vốn đó.
Tính tốn hoặc tính tốn lại các tỷ lệ tài chính: Doanh thu / Vốn đầu tư, Doanh
thu / Vốn lưu động, Lợi nhuận / Vốn đầu tư, Lợi nhuận sau thuế và sau khi trả lãi /
Vốn riêng... Sau đó so sánh các tỷ lệ trên với các tiêu chuẩn định mức hoặc với các
dự án khác có đặc điểm tương tự .
Đối chiếu tiến độ rót vốn, góp vốn với tiến độ sử dụng vốn mà dự án đòi hỏi
theo kế hoạch đã định. Tính tốn và rà sốt lại bảng dự trù lỗ lãi, bảng tổng kết tài
sản, bảng dự trù cân đối thu chi, đối chiếu tỷ lệ vốn tự có / vốn vay để đảm bảo
rằng tỷ lệ đó là hợp lý theo yêu cầu của các tổ chức tín dụng.
Đánh giá tỷ lệ vãng lai trong từng năm, khả năng trả nợ từng năm cũng như cả
đời dự án, rà sốt lại ‘hành lang” an tồn của dự án bằng cách tính tốn và so sánh
9
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
lại các chỉ tiêu sau: điểm hoà vốn, độ nhạy của dự án, thu nhập thuần, lợi nhuận
thuần, tỷ suất hoàn vốn nội bộ, thời gian hoàn vốn... của dự án .
2.6. Thẩm định một số khía cạnh khác xã hội của dự án : trong một số trường
hợp chủ thể thực hiện thẩm định quan tâm đến những đóng góp của dự án vào lợi
ích chung thì họ tiến hành xem xét các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế xã hội như: đóng
góp của dự án vào làm tăng việc làm, đóng góp của dự án làm tăng thu hoặc tiết
kiệm ngoại tệ, đóng góp của dự án vào phát triển trình độ cơng nghệ, đóng góp của
dự án nâng cao mức sống của dân cư...Thông thường người thẩm định tiến hành
xem xét mức độ phù hợp của dự án đối với chiến lược phát triển kinh tế xã hội, qui
hoạch và kế hoạch phát triển của ngành,của vùng... từ đó thấy được các lợi thế của
dự án so với các dự án khác, các mức độ ưu tiên ưu đãi mà dự án có thể được
hưởng.
3.Mục đích thẩm định dự án
Q trình xem xét đánh giá dự án theo các nội dung trên là để người thẩm
định có thể đưa ra các kết luận sau:
+ Dự án phù hợp như thế nào với mục tiêu, chiến lược, qui hoạch phát triển
của đất nước, của vùng, của ngành. Các kế hoạch, qui hoạch ảnh hưởng như thế
nào tới dự án và dự án sẽ nhận được những ưu đãi gì trong từng điều kiện cụ thể,
thời gian xác định.
+ Dự án có tính hệ thống và hợp lý khơng, nếu có thì ở mức độ nào.
+ Các tài sản tài chính hình thành nên vốn đầu tư có hợp pháp hay khơng, các
biện pháp xử lý trong trường hợp xảy ra rủi ro có tuân theo các qui định của nhà
nước hay không và lợi ích của các đối tượng liên quan sẽ ảnh hưởng như thế nào.
+ Hiệu quả tài chính và kinh tế xã hội có đáng để bỏ ra các chi phí hay khơng,
các lợi ích của chủ đầu tư, xã hội và các đơn vị tài trợ có đáng để họ tham gia vào
dự án hay không .
10
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
+ Dự án có tính khả thi, tính hiện thực khơng, dự án đã tính đến các rủi ro
chưa và các biện pháp phòng ngừa cũng như khắc phục hậu quả có thể thực hiện
được không.
Tuy nhiên, đối với một dự án đầu tư phát triển thì mục đích thẩm định khác
nhau đối với các chủ thể thực hiện thẩm định .
Đối với các cơ quan quản lý nhà nước - cơ quan cấp phép đầu tư, cấp phép
xây dựng cho dự án như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ xây dựng và các bộ chuyên
ngành có liên quan, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban nhân dân cấp huyện, xã nơi
dự án thực hiện thì sẽ quan tâm nhiều đến tính phù hợp với luật pháp, với qui
hoạch, chiến lược phát triển và các ảnh hưởng của dự án đối với các vùng, ngành
đó. Vì vậy các chủ thể này thường tập trung vào đánh giá điều kiện pháp lý, các chỉ
tiêu kinh tế xã hội của dự án .
Các cấp tài trợ dự án - các tổ chức tài chính mà cụ thể là các ngân hàng thì
mục đích của họ là làm sao đảm bảo an toàn và sinh lời cho lượng vốn mà họ bỏ ra.
Nếu xét ở góc độ tài trợ thì ngân hàng chỉ có trách nhiệm giải ngân đúng và đủ theo
tiến độ và khối lượng đã ghi trong hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên để có thể thu hồi
đủ vốn và lãi - tức là đạt được hiệu quả kinh doanh như mong muốn thì ngân hàng
không thể chỉ dựa vào kết quả thẩm định của các cơ quan quản lý nhà nước mà phải
tự đánh giá bằng phương pháp và theo quan điểm của mình.Do vậy ngân hàng tiến
hành thẩm định dự án chủ yếu tập trung vào tính phù hợp về mặt pháp lý, hiệu quả
tài chính đặc biệt là khả năng thu hồi vốn đầu tư. Việc thẩm định của ngân hàng
được diễn ra trong suốt thời gian diễn ra hoạt động đầu tư từ lúc hình thành dự án
đến lúc dự án đi vào hoạt động và thu hồi đủ vốn mà ngân hàng mong muốn.
Giai đoạn tiền đầu tư gồm các bước:
Nghiên
cứu cơ hội
đầu tư
Nghiên
cứu khả thi
Nghiêncứu
tiền khả thi
11
Trình
thẩm
định và
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Thẩm định ở giai đoạn này thực chất là xem xét các dự án tiền khả thi và dự
án khả thi, vấn đề ngân hàng quan tâm trước hết đó là độ chính xác của các thông
tin trong dự án bởi nếu thông tin mà sai thì có nghĩa là tính khả thi của
dự án là không chắc chắn và ngân hàng không thể đánh giá đúng được dự án do đó
mà quyết định đầu tư là rất mạo hiểm.
Giai đoạn đầu tư gồm các bước:
Hồn
tất thủ
tục để
Thi cơng
xây lắp
cơng trình
Thiết kế và
lập dự tốn
thi công
Chạy thử
và thi
công
Khi thực hiện thẩm định ở giai đoạn này ngân hàng phải tăng cường kiểm tra
giám sát tiến độ thực hiện dự án, quá trình nhận vốn và sử dụng vốn cho các hoạt
động có đúng như kế hoạch và các khoản chi có đúng mục đích hay không và nếu
trong giai đoạn này mà phát sinh các vi phạm hợp đồng, vi phạm luật pháp thì ngân
hàng sẽ yêu cầu chủ đầu tư sửa chữa thậm chí có thể ngừng cấp vốn.
Giai đoạn đưa cơng trình vào hoạt động thì nhiệm vụ chủ yếu của ngân hàng
là đôn đốc khách hàng thực hiện nghĩa vụ trả nợ, thu hồi vốn đầu tư .
Tuy nhiên trong thực tế ngân hàng thường chỉ tập trung vào thẩm định ở giai
đoạn chuẩn bị đầu tư để tránh những quyết định sai lầm ngay từ đầu.
Với cấp thực hiện dự án (chủ đầu tư ) - do mục đích cao nhất của nhà đầu tư là
lợi nhuận nên chủ đầu tư cũng quan tâm hơn cả đến các lợi ích kinh tế và sự an
toàn của vốn đầu tư. Tuy nhiên do dự án phải xin cấp phép đầu tư, xây dựng, xin tài
trợ vốn nên các chủ đầu tư cũng chú ý làm sao cho các chỉ tiêu kinh tế xã hội cũng
hấp dẫn và khả năng thu hồi vốn cũng như khả năng trả nợ của dự án là rất cao.
12
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
II. Đầu tư tín dụng theo dự án
1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư tín dụng theo dự án
1.1.Đầu tư tín dụng theo dự án
Đầu tư (đầu tư phát triển) là sự hy sinh nguồn lực(tài lực,vật lực, nhân lực) ở
hiện tại để kỳ vọng thu được lợi ích lớn hơn trong tương lai. Vì đầu tư là tính tốn
cho tương lai nên nó ln gắn liền với rủi ro .
Tín dụng về bản chất là quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người đi vay và
người cho vay trên cơ sở lòng tin và theo ngun tắc có hồn trả cả vốn lẫn lãi.
Từ hai khái niệm trên ta thấy rằng đầu tư là một sự cho vay dài hạn nhưng đầu
tư và tín dụng cũng có điểm giống và khác nhau. Đầu tư và tín dụng đều là sự ứng
ra một số vốn ban đầu, cho vay - sử dụng để tiến hành sản xuất kinh doanh và số
vốn đó phải được hoàn trả sau một thời hạn hoặc trả dần theo lịch định. Còn chúng
khác nhau ở chỗ vốn đầu tư thường lớn hơn vốn tín dụng nhiều lần; thời hạn cho
vay tín dụng có nhiều loại: ngắn hạn, trung hạn, dài hạn còn đầu tư (đầu tư phát
triển) thực chất là dài hạn; vay tín dụng thì người vay nợ đồng thời là người trả nợ
nhưng đầu tư thì hai đối tượng này nhiều khi không trùng nhau.
Vậy đầu tư tín dụng theo dự án (ĐTTD) là hoạt động tài trợ vốn trung dài hạn
của ngân hàng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ chức hoặc cá nhân
trên cơ sở các dự án khả thi. Trong đó dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình
bày một cách chi tiết và hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch nhằm
đạt được những kết quả và thực hiện những mục tiêu nhất định trong tương lai bản thân dự án đầu tư cũng là một hoạt động kinh tế riêng biệt và nhỏ nhất trong
cơng tác kế hoạch hố nền kinh tế nói chung. Hiện nay, các ngân hàng thường coi
đầu tư tín dụng theo dự án là đầu tư tín dụng trung dài hạn do đó mà các thuật ngữ
“đầu tư tín dụng theo dự án“ và “đầu tư tín dụng trung dài hạn“ được dùng thay thế
nhau và nói tắt là đầu tư tín dụng.
1.2. Đặc điểm của đầu tư tín dụng theo dự án
13
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Ta đã biết rằng hoạt động tín dụng là hoạt động kinh tế gắn liền với sự thăng
trầm của nền kinh tế, hoạt động đầu tư tín dụng nói chung hoạt động đầu tư tín
dụng theo dự án nói riêng ln gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp khác. Do đó hiệu quả của việc sử dụng vốn vay khơng phụ thuộc
hồn tồn vào ngân hàng mà nó chịu một phần tác động của người sử dụng vốn vay
.
Đối với hầu hết các quốc gia, vai trò chủ yếu của đầu tư tín dụng trung dài hạn
là góp phần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế, thúc đẩy và đảm
bảo sự tăng trưởng lâu dài vững chắc, độc lập tự chủ của quốc gia. Đầu tư tín dụng
theo dự án là trợ thủ đắc lực của các doanh nghiệp trong việc thoả mãn các nhu cầu
mua sắm máy móc thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và một phần vốn lưu
động tối thiểu để thực hiện các cơ hội kinh doanh. Ngân hàng là một tổ chức có
kinh nghiệm trong việc nắm bắt thị trường, có khả năng thẩm định các dự án, các
chương trình đầu tư nhờ đó mà rủi ro được hạn chế đáng kể đối ngân hàng cũng
như chủ đầu tư. Do vậy, việc ngân hàng tài trợ vốn trung dài hạn cho các doanh
nghiệp, cá nhân vừa đảm bảo tính chất hiệu quả về mặt tốc độ cơ cấu sản xuất vừa
đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp và ngân hàng .
Sự cung cấp tín dụng trung dài hạn luôn kéo theo sự huy động tài nguyên rất
lớn vào một mục tiêu nào đó. Chính sự huy động đó nếu đạt hiệu quả sẽ đem lại
cho nền kinh tế, xã hội và ngân hàng cũng như chủ đầu tư những lợi ích to lớn, và
ngược lại nếu khơng đạt hiệu quả sẽ gây tổn hại to lớn cho xã hội, chủ đầu tư
và
cả ngân hàng ... Do đó đầu tư tín dụng theo dự án phải đảm bảo phương châm lấy
hiệu quả chung của nền kinh tế và hiệu quả riêng của khách hàng là mục đích đồng
thời phải đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong nền kinh tế thị
trường.
Trong các hoạt động đầu tư hiện nay ở Việt Nam, đầu tư tín dụng nói chung
và đầu tư tín dụng theo dự án nói riêng là hoạt động phức tạp chứa đựng nhiều rủi
ro và cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng. Đầu tư tín dụng trung dài hạn là hoạt
14
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
động gắn liền với những rủi ro rất lớn bởi rủi ro trong kinh doanh là điều khơng thể
tránh khỏi - đó là đối với doanh nghiệp - còn đối với kinh doanh của ngân hàng là
kinh doanh qua tay người khác, rủi ro của ngân hàng không chỉ phụ thuộc vào hoạt
động của bản thân ngân hàng, mà còn phụ thuộc vào các dự án hoặc tình hình sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vay vốn. Sự cạnh tranh trong hệ thống ngân
hàng hiện nay rất gay gắt bởi các ngân hàng thường xuyên bị ứ đọng vốn, rất các
dự án tốt để tài trợ vì thế các ngân hàng cũng phải tự tìm các dự án mà đầu tư .
Hiện nay một ngân hàng có thể có nhiều cách để tham gia vào các dự án như:
ngân hàng đơn phương cấp tín dụng cho một hoặc một tập hợp các dự án, hoặc
ngân hàng tham gia cùng với các ngân hàng khác tài trợ một hoặc một phần của dự
án theo hình thức cho vay hợp vốn.
2. Hiệu quả đầu tư tín dụng
2.1.Nguyên tắc xác định hiệu quả kinh tế của hoạt động đầu tư tín dụng
Bất kỳ một hoạt động nào cũng địi hỏi những chi phí và thường đạt được một
số kết quả nhất định, và hiệu quả là mối quan hệ giữa lợi ích thu được và chi phí bỏ
ra. Mỗi hoạt động đều có những đặc thù riêng, từ đó mà việc xác định hiệu quả của
các hoạt động khác nhau thì khơng giống nhau. Khi đánh giá hiệu quả đầu tư tín
dụng ta cũng nên tuân theo mọt số nguyên tắc sau :
Một là nguyên tắc về mối quan hệ giữa mục tiêu và tiêu chuẩn hiệu quả. Theo
nguyên tắc này, mục tiêu là tiêu chuẩn để xác định hiệu quả kinh tế, khi mục tiêu
thay đổi thì tiêu chuẩn xác định đó cũng thay đổi theo. Các chủ thể có những mục
tiêu khác nhau đối với các dự án khác nhau, thậm chí trong cùng một dự án thì mục
tiêu của họ cũng có thể khơng giống nhau, và trong những thời kỳ khác nhau thì
mục tiêu cũng sẽ thay đổi. Nếu một ngân hàng coi việc nâng cao lợi nhuận là cái
đích quan trọng nhất thì cũng có nghĩa là tiêu chuẩn cơ bản để xác định hiệu quả
hoạt động kinh doanh là lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận thu được từ dự án. Còn khi
mục tiêu trước mắt của ngân hàng là phải thu hút khách hàng mở rộng tín dụng thì
15
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả kinh tế là số lượng dự án mà ngân hàng tham gia
và số lượng khách hàng được tài trợ vốn.
Hai là nguyên tắc về sự thống nhất lợi ích. Theo nguyên tắc này hoạt động đầu
tư tín dụng theo dự án được xem là có hiệu quả khi lợi ích của các chủ thể tham gia
dự án được kết hợp một cách hài hoà. Nguyên tắc này xuất phát từ mối quan hệ
giữa ngân hàng và doanh nghiệp - mối quan hệ tạo tiền đề và hỗ trợ nhau phát triển,
từ đặc điểm của hoạt động đầu tư tín dụng (kết quả của nó tác động đến rất nhiều
chủ thể khác nhau).
Ba là nguyên tắc về tính chính xác và khoa học. Để đánh giá hiệu quả kinh tế
của các dự án đầu tư phải dựa trên một hệ thống chỉ tiêu có thể lượng hố được, kết
hợp phân tích định tính và phân tích định lượng. Theo nguyên tắc này cần phải đảm
bảo tính trung thực của thơng tin, tính đúng đắn của các cơng thức và mức độ chính
xác của các tính tốn. Ngồi ra, trong số rất nhiều phương pháp khác nhau cần lựa
chọn một phương pháp khoa học, phù hợp với điều kiện thực tế.
Dưới đây sẽ đề cập đến hiệu quả đầu tư tín dụng trên hai góc độ: hiệu quả đầu
tư tín dụng của ngân hàng và hiệu quả đầu tư tín dụng theo dự án .
2.2.Hiệu quả đầu tư tín dụng của ngân hàng
Hoạt động tín dụng ngân hàng góp phần quan trọng thúc đẩy điều kiện kinh tế
xã hội tiến bộ, tăng việc làm, tăng thu nhập của người lao động, thúc đẩy dân giàu
nước mạnh. Hiệu quả tín dụng thể hiện bằng lợi ích của nguồn thu nhập lợi nhuận
bao gồm cả lợi ích hữu hình và lợi ích vơ hình, lợi ích kinh tế xã hội được xác định
qua công thức sau
Pi = Cu –( Rc + Lic +Bd + Pr ) * Ir *T
Trong đó :
Pi : Thu nhập lợi nhuận (Profit income)
Cu: Nguồn vốn tiền tệ khả dụng ( Usable Capital) bao gồm vốn tự có,
vốn chủ sở hữu, vốn huy động
Rc: Dự trữ bắt buộc(Compulsory reserve) - do ngân hàng nhà nước qui
16
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
định một tỷ lệ / tổng số vốn huy động, và phải gửi tại ngân hàng
nhà nước.
Lic: Vốn thanh khoản hiện hành (current liquidity) : là số vốn để đáp
ứng nhu cầu thanh toán trước mắt cho người gửi tiền trích từ vốn
tiền tệ khả dụng.
Bd : Nợ khó địi khơng có khả năng thu hồi (Bad debt)
Pr : Quĩ dự phòng rủi ro (Provision rate)
Ir : Lãi suất cho vay( Interest rate)
T : Thời gian vay(Term of loan)
2.3.Một số chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả đầu tư tín dụng theo dự án
- Chỉ tiêu tỷ lệ giữa lợi ích và chi phí: Chỉ tiêu này cho biết lợi ích thu được
trên một đồng vốn bỏ ra( B/C ). Vì vậy nếu B/C > 1 thì dự án có thể chấp nhận
được. Nếu sử dụng chỉ tiêu này sẽ không biết được qui mô tiền lời của dự án .
-Thu nhập thuần( NPV ): được tính bằng tổng thu trừ đi tổng chi (cả hai đều
đã được tính chuyển về cùng mặt bằng). Chỉ tiêu này phản ánh qui mô lãi ở thời
điểm hiện tại. Dự án được chấp thuận khi các khoản thu của dự án lớn hơn các
khoản chi của dự án tức là NPV lớn hơn 0.
- Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư ( RR ): Hệ số này nói lên mức độ thu hồi vốn
đầu tư ban đầu từ lợi nhuận thuần thu được hàng năm. Trong thực tế để tính RR
người ta có thể lấy lợi nhuận thuần của một năm hoạt động ở mức trung bình trong
đời dự án để tính cho đơn giản.Dự án được chấp thuận khi RR tối thiểu phải lớn
hơn lãi vay ngân hàng .
- Tỷ suất lợi nhuận ròng của doanh số bán hàng: được tính bằng lợi nhuận
rịng chia doanh số bán hàng. Tỷ lệ này được sử dụng để so sánh hiệu quả đầu tư
vốn đối với mỗi loại sản phẩm hoặc so sánh các sản phẩm cùng loại để thấy rõ
được khả năng cạnh tranh của sản phẩm dự án .
17
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
- Tỷ suất lợi nhuận của vốn chủ sở hữu: cho biết một đồng vốn của chủ sở hữu
tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận và được tính bằng lợi nhuận chia cho vốn chủ sở
hữu. Dựa vào chỉ tiêu này ngân hàng có thể xác định được khả năng thu nợ bằng
cách huy động lợi nhuận của khách hàng khi cần thiết.
- Chỉ tiêu tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR): cho biết khả năng sinh lời riêng của
dự án, có thể sử dụng để so sánh với lãi suất thị trường để quyết định đầu tư vì nó
biểu hiện lãi suất tối đa mà dự án có thể chấp nhận được.
- Chỉ tiêu thời gian hồn vốn: nó phản ánh mức độ thu hồi vốn nhanh hay
chậm. Tuy nhiên, nó khơng xem xét đến phần thu nhập sau hồ vốn, khơng tính đến
qui mơ dự án, khơng tính đến thời điểm phát sinh chi phí và thu nhập. Vì vậy chỉ
tiêu này phải sử dụng kết hợp với các chỉ tiêu khác trong đánh giá dự án
- Chỉ tiêu phân tích đánh giá khả năng thanh toán: gồm tỷ lệ lưu hoạt và tỷ lệ
cấp thời .
Giá trị tài sản có lưu động
Tỷ lệ lưu hoạt =
Giá trị tài sản ngắn hạn và nợ đến hạn
Giá trị tài sản có lưu động -Giá trị tồn kho
Tỷ lệ cấp thời =
Giá trị tài sản nợ đến hạn
Dự án được đánh giá là có khả năng thanh toán nếu tỷ lệ lưu hoạt thuộc
khoảng từ 2 đến 4, tỷ lệ cấp thời xấp xỉ 1.
- Chỉ tiêu phản ánh khả năng trả nợ của dự án: được xác định bằng tỷ lệ giữa
khả năng tạo vốn bằng tiền của dự án và nghĩa vụ hoàn trả (bao gồm nợ gốc và lãi
phải trả hàng năm). Dự án có khả năng trả nợ tốt nếu tỷ lệ này lớn hơn hoặc bằng 2.
III. Vai trò của thẩm định đối với hoạt động đầu tư tín dụng theo dự án
18
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Ngân hàng với tư cách là “bà đỡ“ về mặt tài chính cho các dự án sản xuất kinh
doanh, thường xuyên làm công tác thẩm định.Có thể thấy thẩm định đã trở thành
một bước khơng thể thiếu trong q trình đầu tư tín dụng
Tà
i
Sả
n
Vốn
vay
Vốn tự
có
Giải
Ngâ
n
Ký
kết
hợp
đồng
Thẩm
định
cho
vay
Vốn
của
ngân
hàn
(doanh nghiệp )
(quá trình thực hiện tài trợ vốn)
Nhìn vào sơ đồ trên có thể thấy rằng ngân hàng tiến hành thẩm định ngay từ
đầu đối với tất cả các dự án, và đúng như bản chất của hoạt động thẩm định ngân
hàng chỉ đưa ra quyết định khi đã có được một sự xem xét cẩn thận.
Chính vì thẩm định sẽ giúp ngân hàng có được sự đánh giá đúng đắn về dự án
nên từ đó có thể khẳng định thẩm định là nhân tố quyết định đến hiệu quả đầu tư tín
dụng theo dự án. Vai trị của thẩm định thể hiện cụ thể :
1. Thẩm định giúp lựa chọn dự án tốt nhất để đầu tư
Thẩm định ở đây là xem xét, đánh giá dự án sản xuất kinh doanh mà khách
hàng đề nghị được tài trợ vốn. Do sự gắn kết đặc biệt giữa hiệu quả đầu tư tín dụng
với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay hoạt động của dự án nên
nếu chủ đầu tư có một dự án tốt xin cấp vốn thì nó đồng nghĩa với việc ngân hàng
đảm bảo an tồn cho đồng vốn mình bỏ ra .
Thẩm định ngồi việc xem xét các nội dung, các yếu tố để khẳng định tính
sinh lời của dự án cịn là so sánh lựa chọn dự án. Trong cùng một thời điểm có thể
có nhiều phương án sử dụng vốn khác nhau, cùng một khối lượng vốn có thể có
hơn một dự án xin tài trợ, khi đó ngân hàng phải thực hiện phép so sánh vừa định
19
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
lượng vừa định tính: về độ tin cậy giữa các chủ đầu tư, các nguồn thơng tin trong
dự án, về lợi nhuận, khả năng hồn vốn... Tóm lại là phải đặt các dự án lên bàn cân
để lựa chọn được dự án đem lại nhiều lợi ích nhất, phù hợp với mục tiêu của ngân
hàng nhất và có mức độ rủi ro an tồn nhất để đầu tư. Quá trình thẩm định dự án
của ngân hàng được thực hiện tuần tự theo các khoản mục từ tư cách pháp lý, chỉ
tiêu tài chính, kinh tế xã hội đến công nghệ môi trường. Nên thẩm định cũng là
cách ngân hàng giám sát quá trình sử dụng vốn cho các mục đích khác nhau trong
dự án. Ngân hàng thực hiện chức năng quản lý các khoản vốn vay của mình khi
thực hiện thẩm định trước, trong và sau đầu tư .
Đối với chủ đầu tư thẩm định để kiểm tra tính đúng đắn trong quyết định đầu
tư công sức của cải vào dự án. Lập dự án nhiều khi không phải chủ đầu tư tự lập
mà họ thuê các chuyên gia làm do đó để đánh giá được mức độ chính xác của các
con số và thơng tin trong dự án thì phương pháp tốt nhất là thẩm định dự án.
2. Thẩm định giúp ngân hàng đánh giá mức độ phù hợp của dự án với qui
hoạch chung của cả vùng của ngành của đất nước.
Ngân hàng nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng là cơ quan kinh
tế của nhà nước do đó một trong các chức năng của ngân hàng là giúp nhà nước
thực hiện được các chương trình, các mục tiêu kinh tế nhất định theo từng thời kỳ
nhất định. Do đó phát triển kinh tế xã hội cũng là một trong những mục tiêu lớn của
ngân hàng. Ngân hàng với tư cách là cơ quan kinh tế của nhà nước chắc chắn nắm
rõ chiến lược phát triển kinh tế, qui hoạch kế hoạch của vùng, ngành nên thẩm định
tức là ngân hàng đã xem xét tính phù hợp của dự án với qui hoạch từ đó tạo điều
kiện thuận lợi cho dự án được thực hiện nếu dự án nằm trong khu vực qui hoạch,
ngược lại thì thận trọng hơn đối việc đầu tư cho dự án. Đặc biệt khi mục tiêu của
ngân hàng không phải là lợi nhuận mà là lợi ích kinh tế xã hội hoặc tăng lượng tín
dụng thì ngân hàng sẽ đặc biệt ưu tiên đối với các dự án thuộc vào khu vực ưu tiên
khi đúng với qui hoạch, kế hoạch bởi các dự án này sẽ đóng vai trị quan trọng
20
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
trong việc hồn thành kế hoạch, qui hoạch của ngân hàng cũng như của vùng hay
ngành.
3. Thẩm định giúp ngân hàng hạn chế rủi ro tín dụng
Rủi ro trong kinh doanh là điều khơng tránh khỏi, đặc biệt là đối với ngân
hàng: kinh doanh qua tay người khác, vì thế mà hạn chế rủi ro là điều cực kỳ quan
trọng. Một trong những biện pháp tốt nhất là cẩn thận trước khi quyết định, hạn chế
tối đa việc tài trợ cho các dự án không khả thi - để làm được điều này thì ngân hàng
tiến hành thẩm định dự án. Rủi ro tín dụng không chỉ liên quan đến dự án, mà nhiều
khi chủ đầu tư cịn cố tình khơng thực hiện nghĩa vụ trả nợ mặc dù dự án xin tài trợ
vốn đem lại hiệu quả cao - điều này liên quan đến năng lực trả nợ của người vay.
Do đó thẩm định của ngân hàng là còn phải thẩm định chủ đầu tư: xem xét tư cách
đạo đức của người vay, khả năng sẵn sàng trả nợ của người vay, nên ngân hàng sử
dụng nhiều các thơng tin phi tài chính. Thường thì khi đến tay ngân hàng dự án đã
được các cơ quan có thẩm quyền xem xét trước khi quyết định cho phép đầu tư do
đó ngân hàng cũng tăng thêm niềm tin với dự án .
Thẩm định dự án cịn có vấn đề phân tích độ nhạy- đánh giá mức độ ảnh
hưởng của các yếu tố như giá cả, chi phí, thu nhập, cung cầu của sản phẩm, nguyên
liệu... đối với dự án. Đây là phương pháp đánh giá rủi ro rất khoa học - đặc biệt
trong điều kiện nền kinh tế thị trường có rất nhiều biến động, từ đó lựa chọn được
phương án tối ưu để đối phó với các biến động bên ngồi thị trường. Nhờ thế mà
dự án sẽ ít gặp rủi ro hơn và rủi ro tín dụng của ngân hàng cũng sẽ được hạn chế.
Thẩm định dự án tức là ngân hàng tiến hành xem xét mọi mặt từ tài chính,
kinh tế xã hội, điều kiện pháp lý đến công nghệ kỹ thuật, môi trường - nhiều yếu tố
ngân hàng không đủ khả năng đánh giá thì đã có các chun gia giúp đỡ. Như vậy
là ngân hàng đã phân tích dự án trên mọi góc độ, đánh giá rủi ro từ nhiều phía
đương nhiên sẽ hạn chế được những mất mát trong hoạt động đầu tư của mình.
21
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
4.Thẩm định giúp xác định rõ trách nhiệm với các khoản nợ
Thẩm định là việc xem xét đánh giá trên cơ sở pháp lý và khoa học, có quan
tâm đến trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia dự án. Bản thân ngân hàng
cũng có phân định rõ ai là người có nhiệm vụ thẩm định trực tiếp và ai là người có
quyền quyết định tài trợ - nên hạn chế được sự lấn át quyền lực, hối lộ và khi rủi ro
xảy ra rất dễ ràng qui trách nhiệm và xử lý. Do thẩm định dự án đã trở thành một
hoạt động khoa học nên các cán bộ cũng phải thận trọng hơn trước các đánh giá của
mình, bởi nó sẽ gắn liền trách nhiệm của họ với rủi ro mà dự án gặp phải. Nếu đánh
giá của cán bộ sai dẫn đến quyết định cấp tín dụng cho dự án khơng khả thi thì
đương nhiên một phần trách nhiệm khơng nhỏ thuộc về người thẩm định.Thẩm
định dự án cũng gồm cả việc xác định rõ ràng tư cách pháp nhân, tư cách thể nhân
của các bên tham gia dự án - năng lực hành vi và năng lực pháp lý của họ đã được
kiểm tra nên sẽ hạn chế được sự trốn nợ. Thẩm định dự án tức là ngân hàng sử
dụng công cụ pháp luật để bảo vệ cho sự an toàn của các khoản vay.
5. Thẩm định giúp ngân hàng đánh giá đúng tính hợp pháp và giá trị của
các tài sản thế chấp
Trong quá trình hoạt động của mình ngân hàng hay gặp phải trường hợp các
tài sản thế chấp có giá trị thực tế nhỏ hơn nhiều lần giá trị đánh giá trong hồ sơ vay,
và điều kiện pháp lý của chủ sở hữu là giả tạo hoặc thế chấp nhiều lần tại cùng một
thời điểm dẫn đến giải quyết các tài sản thế chấp khi ngân hàng thu về là điều rất
khó khăn. Thẩm định dự án giúp hạn chế tình trạng này - vì một trong những nội
dung thẩm định chính là xem xét tài sản thế chấp .
Tuy trò vai trên lý thuyết là rất nhiều nhưng trong thực tế muốn thẩm định thể
hiện được đầy đủ các ưu thế trên thì rất cần có phương pháp thẩm định khoa học và
chính xác.
22
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG THẨM ĐỊNH Ở NGÂN HÀNG VIỆT NAM
I. Hoạt động thẩm định của các ngân hàng
1. Cơ chế thẩm định
Ngân hàng nhà nước Việt Nam nói chung và các ngân hàng thương mại
nói riêng đều có các văn bản pháp lý qui định rõ chức năng nhiệm vụ thẩm quyền
của cán bộ đối với việc xem xét quyết định đầu tư cho một dự án hay một doanh
nghiệp. Cụ thể như sau:
-Cán bộ tín dụng trực tiếp cho vay là người có vai trị quan trọng trong đánh
giá một dự án hay một phương án sản xuất kinh doanh bởi họ là người trực tiếp
phân tích đánh giá hồ sơ vay của khách hàng. Chất lượng một món vay bị giảm sút
có thể do nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết cán bộ tín dụng vẫn phải chịu trách
nhiệm về khoản nợ tồi mà anh ta đã tiếp nhận hồ sơ phân tích, trình xin chấp thuận
và tiếp tục giám sát trong suốt quá trình dự án hoạt động. Hiện nay theo qui định
của hầu hết các ngân hàng thì hoạt động của cán bộ tín dụng là tiếp nhận hồ sơ vay
vốn của khách hàng, tiến hành thẩm định đối với hồ sơ đó. Để có thể làm tốt cơng
tác của mình, cán bộ thẩm định rất cần những kiến thức về ngành nghề, lĩnh vực
mà dự án xin đầu tư, về các qui định của nhà nước đối với đầu tư và các phương
pháp tính tốn các chỉ tiêu hiệu quả ... Tuy nhiên thực tế năng lực của cán bộ làm
cơng tác thẩm định của các ngân hàng cịn hạn chế và nhiều khi vẫn có thói quen
thẩm định cũ, còn dựa dẫm quá nhiều vào sự phê duyệt đánh giá của các cơ quan
nhà nước đối với các dự án dẫn đến chủ quan không xem xét đánh giá lại một cách
cẩn thận nên rủi ro mất mát tín dụng là điều khơng thể tránh khỏi trong hệ thống
các ngân hàng Việt Nam hiện nay.
23
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Trong những năm gần đây, cán bộ ngân hàng đã bắt đầu tiếp cận với thẩm
định như là một “ khoa học” đồng thời là một “nghệ thuật”. ”Khoa học“ vì thẩm
định sẽ phân tích các dữ kiện hữu hình, những mặt định lượng như: các chỉ tiêu
hiệu quả tài chính, kinh tế xã hội, các yếu tố công nghệ kỹ thuật môi trường. “
Nghệ thuật“ vì thẩm định cũng gắn liền với việc phân tích các dữ kiện vơ hình,
những mặt định tính như: tư cách, năng lực của chủ đầu tư, khả năng quản lý của
các bên tham gia dự án... Nhưng do thói quen và kinh nghiệm mà hiện nay
“nghệ thuật” cho vay, “nghệ thuật” thẩm định đang bị coi nhẹ và ít thực hiện nhất.
-Trưởng phòng tín dụng : là người có nhiệm vụ đưa ra sự phân cơng quản lý
việc thẩm định đầu tư cho các cán bộ tín dụng, đồng thời là người tiến hành thẩm
định lại dự án trước khi trình giám đốc quyết định. Thực tế trưởng phịng tín dụng
đã phân cấp thẩm định cho cán bộ dưới quyền nên cơng việc của họ có vẻ đơn giản
hơn, nhưng trách nhiệm thì vẫn lớn và cũng gắn liền với mức độ chính xác của các
đánh giá nên họ cũng phải thẩm định mọi mặt, mọi con số, mọi thơng tin. Rất nhiều
khi trưởng phịng tín dụng có đánh giá khác đối với cán bộ tín dụng về dự án bởi
kinh nghiệm, khả năng, tính khách quan của họ khác nhau.
- Người trực tiếp quyết định có tài trợ vốn hay không là giám đốc ngân hàng
nơi dự án xin cấp vốn. Dựa vào báo cáo của phòng tín dụng, qua xem xét hồ sơ vay
giám đốc sẽ đưa ra quyết định cho vay hay không và giao cho phịng tín dụng thực
hiện cho vay, giám sát q trình sử dụng, thu hồi vốn. Trong nhiều trường hợp
giám đốc khơng chỉ xem xét qua dự án mà cịn tiến hành tái thẩm định, các quyết
định của giám đốc nhiều khi khơng trùng với phịng tín dụng nhưng dù sao đó vẫn
là người có thẩm quyền cao nhất bắt buộc mọi người phải tuân theo.
Thực tế ở Việt Nam hiện nay, ngân hàng vẫn chịu những sự can thiệp từ bên
ngồi vào các hoạt động đầu tư tín dụng của mình. Điển hình là tình trạng các cá
nhân hoặc cơ quan chính quyền các cấp đề nghị thậm chí yêu cầu ngân hàng phải
đáp ứng nhu cầu vốn của một doanh nghiệp hay một dự án nào đó vì quyền lợi của
thiểu số người hơn là của xã hội và của ngân hàng. Nhưng đến khi không thu hồi
24
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
được vốn thì sự can thiệp đó lại khơng bị đưa ra xem xét và cùng chịu trách nhiệm khi đó các qui định của ngân hàng về thẩm định gần như mất hết tác dụng.
2. Qui trình thẩm định đối với đầu tư tín dụng của ngân hàng
Theo qui chế cho vay đối với khách hàng của ngân hàng nhà nước Việt Nam,
của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, ngân hàng đầu tư và
phát triển Việt Nam... thì hồ sơ xin cấp tín dụng trung dài hạn hay nói cách khác là
các dự án sẽ được xem xét đánh giá về các mặt sau.
2.1. Tư cách pháp lý
Ngân hàng sẽ tiến hành xem xét năng lực pháp luật và năng lực hành vi của
khách hàng - chủ dự án, người thực hiện dự án, hay chủ doanh nghiệp. Mục đích và
nội dung thẩm định nhằm khẳng định họ có đủ điều kiện vay vốn. Ngân hàng tiến
hành điều tra tính đúng đắn của các loại giấy tờ như: giấy phép kinh doanh, giấy
phép đầu tư, giấy phép xây dựng, giấy phép sử dụng lao động...
Để đánh giá được năng lực hành vi của khách hàng ngân hàng phải sử dụng
nhiều cách khác nhau bởi các thông tin trên giấy tờ nhiều khi không phản ánh hết
được những điều cần thiết. Hiện nay ngân hàng thẩm định năng lực và tư cách của
người vay qua các bước sau:
25