Tải bản đầy đủ (.pdf) (144 trang)

Sự phân hóa kinh tế xã hội ở Nam Bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (653.6 KB, 144 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
WX





TRƯƠNG VĂN TUẤN






SỰ PHÂN HOÁ KINH TẾ – XÃ HỘI
Ở NAM BỘ





CHUYÊN NGÀNH : ĐỊA LÝ KINH TẾ - XÃ HỘI
MÃ SỐ : 01.07.02




LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ






NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGUYỄN KIM HỒNG



TP. HCM - 2004

MỞ ĐẦU

Phân hóa lãnh thổ về kinh tế-xã hội của một vùng, một quốc gia luôn là
vấn đề rất quan trọng trong công tác quy hoạch và quản lý kinh tế-xã hội. Do đó
từ lâu trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã có nhiều tác giả và nhiều công trình
nghiên cứu cả về lý luận và thực tiển. Nhiều nhà khoa học đã cố gắng đi tìm bản
chất của các khái niệm và các nguyên nhân của sự phân hóa nói trên. Nghiên
cứu sự phân hóa về kinh tế-xã hội nhằm đưa ra những biện pháp phù hợp thúc
đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa các ngành kinh tế ở nước ta là
nhiệm vụ cần thiết, thường xuyên, lâu dài của các nhà khoa học, các nhà quản lý.
Nam Bộ là vùng nông nghiệp trọng điểm của cả nước, là vùng động lực
tăng trưởng kinh tế lớn nhất của nước ta, là vùng có tiềm năng to lớn cả về công
và nông nghiệp. Trong những năm qua Nam Bộ đã có bước phát triển vược bậc
về nhiều ngành có lợi thế và đã đóng góp rất to lớn cho đất nước (ĐNB đóng góp
52% sản lượng công nghiệp, TNB đóng góp hơn 50% sản lượng lương thực và
phần lớn lương thực xuất khẩu của cả nước). Mặc dù vậy, các ngành kinh tế trong
vùng vẫn chưa phát triển theo quy hoạch chung dẫn đến các ngành, các trung tâm
kinh tế có chức năng giống nhau phát triển chồng chéo trong vùng, hậu quả là
chua phát huy hết tiềm năng của vùng và giữa các khu vực trong vùng chưa hỗ

trợ cho nhau cùng nhau phát triển..
Sự phát triển các ngành kinh tế không đồng đều về lãnh thổ là một tất yếu
khách quan phù hợp với năng lực của từng vùng,
Dựa vào việc đánh giá các nguồn lực của tự nhiên, kinh tế-xã hội, dựa vào
qui hoạch phát triển kinh tế-xã hội của các tỉnh trong vùng đề tài “Sự phân hóa
kinh tế-xã hội ở Nam Bộ” hy vọng bước đầu đặt nền móng cho công tác quy
hoạch chung của vùng sinh thái Nam Bộ để góp phần phát triển kinh tế-xã hội
một cách cân bằng bền vững trong toàn vùng.

Để hoàn thành đề tài này tác giả đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của
nhiều cơ quan đơn vò có liên quan vì vậy tôi xin chân thành cảm ơn khoa Đòa lý
trường Đại học sư phạm T.P. Hồ Chí Minh,Trung tâm nghiên cứu kinh tế Miền
Nam, UBNN các tỉnh trong vùng, Khoa Đòa lý trường Đại học khoa học-xã hội và
nhân văn, PGS. TS. Nghuyễn Kim Hồng, TS. Phạm Xuân Hậu, PGS. TS. Đặng
Văn Phan, TS. Trần Sinh, ThS. Lê Minh Vónh… cùng tất cả các đồng nghiệp.

ĐẶC ĐIỂM CỦA LUẬN VĂN

1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài”Sự phân hoá về kinh tế - xã hội ở Nam Bộ”được thực hiện nhằm:
(1) đánh giá hiện trạng các nguồn lực phát triển kinh tế-xã hội ở Nam Bộ và sự
phân hoá lãnh thổ của chúng,(2) tìm hiểu hiện trạng phát triển và sự phân hoá
một số ngành đặc trưng của vùng, qua đó tìm ra thế mạnh của các khu vực trong
vùng.(3) Tìm hiểu đònh hướng phát triển một số ngành kinh tế và hướng tổ chức
sản xuất lãnh thổ đến năm 2010. (4) đưa ra một số kiến nghò về biện pháp thực
hiện mục tiêu của đònh hướng.
2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài ứng dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống của đòa lý kinh tế-
xã hội, đồng thời sử dụng lợi thế của phương pháp cho điểm, sử dụng công cụ
máy tính vào nghiên cứu đòa lý kinh tế-xã hội.

3. Những đóng góp của luận văn
- Qua phân tích tỉm ra sự phân hoá các nguồn lực, xác đònh lợi thế của các khu
vực và các tiểu vùng của Nam Bộ.
- Tìm ra hiện trạng phân hoá về kinh tế-xã hội đến tiểu vùng, xác đònh vai trò
của các cực phát triển, cực tăng trưởng và vò trí trung tâm đối với các tiểu vùng
và của toàn vùng làm cơ sở cho công tác quy hoạch của Nam Bộ.
- Đưa ra một số kiến nghò về biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu của đònh
hướng.
- Sử dụng phương pháp cho điểm các ngành kinh tế để đưa ra chỉ số tổng hợp
nhằm đánh giá sự phân hoá kinh tê-xã hội của vùng bằng công cụ máy tính.
4. Ý nghóa thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của đề tài đã và đang được sử dụng trong quy hoạch
phát triển kinh tế-xã hội của các tỉnh của Nam Bộ.

- Khẳng đònh vai trò của các cực phát triển, vùng tăng trưởng, các vò trí
trung tâm đối với tổ chức sản xuất theo lãnh thổ.
- Làm cơ sở cho công tác quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội theo lãnh thổ
cùa Nam Bộ đến năm 2010.
- Đưa ra phương pháp đánh giá tổng hợp sự phân hóa kinh tế-xã hội bằng
cách cho điểm, sử dụng công cụ máy tính vào công tác nghiên cứu.
5. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm 148 trang không kể các bản đồ, biểu đồ và các phụ lục; đã
tham khảo 27 tài liệu trong và ngoài nước. Nội dung bao gồm 3 phần và 5
chương, không kể phần mở đầu. PhầnI: Tổng quan, đối tượng, nội dung, phương
pháp nghiên cứu và cơ sở lý luận (2 chương). PhầnII: Kết quả nghiên cứu (3
chương). PhầnIII: Kết luận và kiến nghò.

PHẦN THỨ NHẤT

TỔNG QUAN, ĐỐI TƯNG, NỘI DUNG,

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ
LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
CHƯƠNG I

ĐỐI TƯƠNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

I . LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quy luật tất yếu, khách quan đối với sự
phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Để đạt được thành công và hiệu quả
cao trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi mỗi quốc gia
phải xây dựng cho mình một cơ cấu kinh tế hợp lý, bố trí sắp xếp lại các ngành,
các vùng sao cho phù hợp với yêu cầu phát triển, điều kiện hoàn cảnh thực tế
của từng vùng, của cả nước và của quốc tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, từ năm 1986, Đảng và Nhà
nước đã tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đổi mới nền kinh tế
nước ta từ một nền kinh tế tự cấp, tự túc, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần dưới sự quản lí của nhà nước. Để thực hiện đường lối
chủ trương trên, các ngành, các viện nghiên cứu, các đòa phương tiến hành nghiên
cứu để qui hoặch các ngành, các khu vực tìm ra thế mạnh của từng vùng từ đó
xác đinh ngành nghề chuyên môn hoá nhằm khai thác một cách có hiệu quả nhất
tiềm năng của từng vùng phục vụ cho mục tiêu “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng và văn minh”. Tìm ra sự phân hoá lãnh thổ về kinh tế - xã hội là việc
làm cần thiết đầu tiên nhằm thực hiện mục tiêu trên; tìm ra sự phân hoá lãnh thổ
là để tìm ra được một cấu trúc lãnh thổ về kinh tế - xã hội hợp lý; tìm ra sự phân
hóa lãnh thổ về kinh tế – xãï hội là để phối hợp phát triển kinh tế - xã hội giữa

các vùng sao cho các ngành kinh tế, các trung tâm kinh tế không chồng chéo
nhau về chức năng nhằm phát huy tối đa các tiềm lực của từng khu vực, của từng
vùng và là của cả nước .
Trong quá trình tìm hiểu các vấn đề về đòa lý kinh tế - xã hội, chúng tôi

nhận thấy vấn đề sự phân hoá lãnh thổ kinh tế - xã hội của Nam Bộ chưa được
nhiều nhà khoa học quan tâm đúng mức, hầu hết các công trình nghiên cứu
thường tập trung vào từng khu vực riêng lẻ. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội
của các khu vực trong vùng chưa nhòp nhàng, chưa đồng bộ tạo ra các trung tâm
kinh tế, các khu công nghiệp, các nhà máy, các xí nghiệp có chức năng giống
nhau, chồng chéo nhau hạn chế khả năng phát triển của vùng. Vì những lý do đó,
tìm hiểu sự phân hóa về kinh tế - xã hội vùng Nam Bộ là việc làm rất cần thiết vì
đây là vùng được coi là có tiềm năng lớn nhất của nước ta, vùng đã và đang
đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế của đất nước, vì thế tôi đã mạnh dạn
chọn đề tài này làm luận án thạc só .
II . MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI.
II.1. Mục tiêu :
- Thấy được ý nghóa của việc tìm hiểu sự phân hoá về kinh tế – xã hội của
vùng sinh thái Nam Bộ đối với quá trình phát triển kinh tế của vùng,
- Đánh giá hiện trạng các nguồn lực và tìm hiểu sự phát triển kinh tế – xã
hội của Nam Bộ, tìm ra sự phân hoá lãnh thổ một số ngành kinh tế đặc trưng chủ
yếu, thấy được nguyên nhân của sự phân hóa đó. Qua sự phân hoá một số ngành
đặc trưng để thấy được thế mạnh của từng khu vực và của toàn vùng.
- Phân tích hướng phát triển và sự phân hóa của một số ngành kinh tế
trong những năm tới.
- Bước đầu đưa ra một số khuyến nghò về các giải pháp nhằm khai thác sự
phân dò về mặt lãnh thổ và phát huy tác dụng lan tỏa của các cực, các vùng tăng
trưởng, vùng phát triển.

II . 2 . Nhiệm vụ:
- Làm rõ khái niệm về không gian trong đòa lý, nghiên cứu những lý luận
cơ bản về không gian kinh tế, về lý thuyết vùng, về tổ chức lãnh thổ nói chung và
ở Việt Nam.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới sự phân hoá lãnh thổ về kinh tế - xã
hội của vùng Nam Bộ.

- Tìm hiểu hiện trạng và sự phân hoá lãnh thổ về kinh tế - xã hội của vùng
thông qua phân tích sự phân hoá lãnh thổ của một số ngành cơ bản
- Đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần vào việc qui hoạch và khai thác
các nguồn lực của các khu vực trong vùng.
II . 3 . Phạm vi nghiên cứu :
Xuất phát từ các hạn chế khách quan (nguồn tư liệu, thời gian nghiên cứu)
và chủ quan (năng lực của bản thân) nên đề tài chỉ giới hạn ở một số nội dung
sau :
Về nội dung:
- Nghiên cứu một số lý thuyết, đưa ra một số khái niệm có liên quan đến
sự phân hóa lãnh thổ về kinh tế - xã hội.
- Đề tài tập trung nghiên cứu các nguồn lực của Nam Bộ, tìm ra những dò
biệt và tính đồng nhất trong nguồn lực, coi đó là nguyên nhân đầu tiên của sự
phân hóa về kinh tế - xã hội.
- Tìm hiểu hiện trạng một số ngành sản xuất chính mang tính đặc trưng
cho vùng, so sánh rút ra những khác biệt giữa các khu vực - Đông Nam Bộ và
Tây Nam Bộ.
- Qua nguồn lực và hiện trạng tìm ra đònh hướng phát triển một số ngành
sản xuất chính và sự phân hóa của chúng trong tương lai, từ đó đưa ra những giải
pháp nhằm thực hiện đònh hướng phát triển của vùng.


Về thời gian và không gian.
- Các số liệu, tư liệu sử dụng chủ yếu trong những năm gấn đây (từ năm
1995 đến nay, trong đó chủ yếu là các năm 1998 đến năm 2002).
- Phạm vi lãnh thổ nghiên cứu là Nam Bộ (dựa theo số liệu của niên giám
thống kê). Sự phân hóa lãnh thổ chỉ được xem xét chủ yếu ở bậc thứ nhất - giữa
hai vùng sinh thái, Đông và Tây Nam Bộ, sơ bộ đưa ra đề xuất ở bậc thứ hai.
III . LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI :
III . 1 . Trong nước.

Vùng kinh tế là một vấn đề chiến lược liên quan đến nhiều mặt trong nền
kinh tế- xã hội. Vì vậy trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu cả về lý luận và thực tiển về vấn đề này.
Ở nước ta từ sau đại hội Đảng V, đặc biệt từ sau Đại hội Đảng VII hàng
loạt các công trình nghiên cứu về vùng kinh tế, cơ cấu kinh tế và sự chuyển dòch
cơ cấu kinh tế đã ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển của đất
nước. Cụ thể sơ lược ta có thể kể đến các công trình như :“ Một số vấn đề về lý
luận về chênh lệch vùng và giải pháp hạn chế chênh lệch vùng ở Việt Nam. viện
chiến lược và phát triển. Bộ kế hoạch và đầu tư, 1998 “,“ Qui hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010, Bộ kế hoạch và đầu tư, 1997
““ Qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
đến năm 2010. Bộ kế hoach và đầu tư, 1995. “,”Qui hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Boa5kế hoạch và đầu tư,
1996 “. “Qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Đông Bắc đến năm
2010 . Bộ kế hoạch và đầu tư, 1996 ““ Qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã
hội vùng Tây Bắc đến năm 2010. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, 1996
““ Qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế -xã hội vùng Đồng Bằng Sông Hồng đến
năm 2010. Bộ khoa học công nghệ và môi trường,1996.“ Qui hoạch tổng thể phát
triển kinh tế -xã hội vùng Bắc Trung Bộ đến năm 22010. Bộ xây dựng. “Qui

hoạch tổng thể phát triển kinh tế -xã hội vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ đến
năm 2010. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, 1996“ “Qui hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên đến năm 2010. Bộ nông nghiệp và
phát triển nông thôn, 1996“. “Qui hoạch tổng thể phát triển kinh tề - xã hội vùng
Đông Nam Bộ đến năm 2010. Bộ kế hoạch và đầu tư, 1996 “. “Qui hoạch tổng
thể phát triển kinh tế -xã hội vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long đến năm 2010 .
Bộ kế hoạch và đầu tư, 1996 “. “Việt Nam - Lãnh thổ và các vùng đòa lý” của Lê
Bá Thảo . “Cơ sở khoa học của tổ chức lãnh thổ Việt Nam“ của Lê Bá Thảo chủ
nhiệm đề tài.”Tổ chức lãnh thổ Đồng Bằng Sông Hồng và các tuyến trọng điểm“
của Lê Bá Thảo và nnk. “Tổ chức lãnh thổ đòa bàn trọng điểm Miền Trung“ của

Lưu Bích Hồ và nnk. “Tổ chức lãnh thổ đòa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam“
của Đặng Hữu Ngọc và nnk “Một số vấn đề về vùng, phân vùng. Tổ chức lãnh
thổ và các lý thuyết có liên quan” của Nguyễn Văn Phú, 1997… “Đổi mới Kinh
tế Việt Nam và chính sách kinh tế đối ngoại” (T.S Võ Đại Lược và tập thể các
nhà khoa học tại học viện kinh tế thế giới), “Vấn đề công nghiệp hóa trong tiến
trình chuyển dòch cơ cấu kinh tế ở nước ta” (Nguyễn Quang Thái, Hồ Phương),
“Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội
Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020” (Viện chiến lược phát triển – Bộ kế
hoạch và đầu tư). Các nghiên cứu trên đều mang tính chất lý luận ở tầm vó mô
trên bình diện toàn quốc. Ngoài ra, còn có các công trình nghiên cứu ở tầm vi mô
như các công trình nghiên cứu về một vùng, một tỉnh, một đòa phương như :
“Nông nghiệp nông thôn Nam Bộ” của Lân Quang Huyên,”cơ cấu kinh tế
TPHCM trong mối quan hệ với vùng Nam Bộ và của cả nước” của viện kinh tế
TPHCM, v.v...Đặc biệt tất cả các tỉnh trong vùng và của cả nước đều có qui
hoạch tổng thể phát triển kinh tế -xã hội đến năm 2005 và 2010. Riêng đối với
Nam Bộ, mặc dù có nền kinh tế phát triển mạnh mẽ với cơ cấu kinh tế khá hợp
lý và đã đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế của đất nước nhưng chưa có
một đề tài nghiên cứu chính thức về vấn đề này. Hầu hết các công trình nghiên

cứu về Nam Bộ đều tập trung vào một khía cạnh, một bộ phận của nền kinh tế
vùng như : “Qui hoạch tổng thể kinh tế - xã hội” của UBND các tỉnh trong vùng,
“qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng Bằng sông Cữu Long,
qui họach tổng thể phát triển kinh tế- xã hội vùng kinh tế trọng điểm Phía
Nam“của Bộ Kế hoạch và Đầu tư,“cơ sở khoa học của việc hình thành và phát
triển của kinh tế trang trại ở Nam Bộ”hội thảo của Trương Đại học Kinh tế
TPHCM (3/1999)v.v... mà chưa có một công trình nghiên cứu tổng quát, toàn
diện về sự phát triển và sự phân hóa kinh tế -xã hội của vùng để thấy rõ bản chất
thống nhất của Nam Bộ từ đó hoạch đònh hướng phát triển của vùng trong tương
lai.
III . 2 . Trên thế giới.

Nhiều công trình nghiên cứu về vùng ở các nước phát triển (Anh, Pháp,
Mỹ, Nga, Nhật Bản vv.. đã và đang được các nhà khoa học quan tâm đúng mức,
thể hiện trong công trình”Lý thuyết phát triển vùng và ứng dụng” của Benjamin
Higgins và Donald J. Savoie-1997 (ấn phẩm trao đổi của NEW BRUSLAK và
LUÂN ĐÔN). Trong đó đáng chú ý là lý thuyết phát triển không cân đối; lý
thuyết về chuyển giao công nghệ.
III . 3 . Hướng nghiên cứu của đề tài.
Đây là vấn đề rất sâu và rộng, vì thế trong phạm vi một luận văn thạc só,
với thời gian và tư liệu hạn chế chúng tôi chưa có điều kiện để nghiên cứu nhiều
vấn đề có liên quan như: Các cực phát triển của vùng và phạm vi tác động lan
tỏa của chúng; sự phát triển không cân đối về mặt lãnh thổ ở Nam Bộ và tác
dụng của nó đối với việc hình thành chỉnh thể kinh tế - xã hội ở Nam Bộ.
IV . CÁC QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
IV .1. Các quan điểm nghiên cứu.
IV .1 .1 . Quan điểm lãnh thổ.

Mọi sự vật và hiện tượng đòa lý đều tồn tại và phát triển trong một không
gian nhất đònh, khoa học đòa lí có nhiệm vụ tìm ra sự phân hóa và phân bố của
chúng, dự kiến sự phân bố của chúng trong không gian.
Trên quan điểm coi Nam Bộ là một thể tổng hợp tương đối hoàn chỉnh,
trong đó các yếu tố tự nhiên, kinh tế – xã hội có mối quan hệ chặt chẽ, tác động
ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau. Do vậy, cần phân tích các khía cạnh, lựa chọn các
nhân tố có ảnh hưởng đến lãnh thổ trên đòa bàn nghiên cứu, từ đó rút ra những
đònh hướng phát triển có tính tổng hợp nhằm khai thác tốt nhất những tiềm năng
của vùng.
IV .1 .2 . Quan điểm hệ thống.
Nghiên cứu đề tài phải đảm bảo được tính hệ thống. Tính hệ thống làm
cho quá trình nghiên cứu đề tài trở nên logic, thông suốt và sâu sắc. Nam Bộ
được coi là một tập hợp bao gồm các hệ thống con (các vùng, các tỉnh, huyện, thò
xã, thò trấn …). Các hệ thống có mối quan hệ qua lại, có tác động ảnh hưởng giữa

các yếu tố trong hệ thống và giữa các hệ thống. Do đó, để đánh giá chính xác
vấn đề nghiên cứu cần xem xét vấn đề trong hệ thống của nó.
IV .1 .3 . Quan điểm lòch sử viễn cảnh.
Mọi sự vật, hiện tượng đòa lý dù lớn, nhỏ đều có nguồn gốc phát sinh, phát
triển riêng của nó. Vận dụng quan điểm lòch sử vào việc nghiên cứu đề tài để
thấy được những biến đổi của các yếu tố kinh tế - xã hội qua từng giai đoạn phát
triển, từ đó đánh giá chính xác các triển vọng phát triển của chúng trong tương
lai. Vận dụng quan điểm này cho ta thấy được quá trình hình thành và phát triển
của các ngành kinh tế và sự phân hoá lãnh thổ trong quá khứ, hiện tại và tương
lai.
IV .1 .4 . Quan điểm phát triển bền vững.
Quy luật sự vật là luôn vận động và phát triển không ngừng trong một thể
thống nhất. Để duy trì được sự phát sinh, phát triển đó mọi sinh vật, hiện tượng

phải tác động vào môi trường xung quanh. Sự tác động này là tác động tương hổ
trong một thế cân bằng, nếu không phù hợp với quy luật phát triển trên (qui luật
phát triển khách quan của tự nhiên) sẽ gây hậu quả khôn lường cho mọi sinh vật
ở hiện tại cũng như tương lai sau này. Vì vậy trong quá trình nghiên cứu qui luật
phát sinh, phát triển phải quán triệt quan điểm phát triển bền vững.
IV .2. Các phương pháp nghiên cứu.
Đề tài tiến hành nghiên cứu dựa trên phương pháp luận khoa học (phép
duy vật biện chứng và duy vật lòch sử) và bám sát đường lối đổi mới của Đảng,
Nhà nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài còn sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau:
IV .2 .1 . Phương pháp thu thập tài liệu.
Sự phân hoá lãnh thổ về kinh tế - xã hội Nam Bộ là một khái niệm khá
phức tạp, đa dạng và trong một không gian rất rộng, các chỉ tiêu đánh giá có liên
quan đến nhiều ngành nhiều lónh vực. Vì vậy trong quá trình thực hiện đề tài này
tôi đã tiến hành thu thập rất nhiều các số liệu, tư liệu từ nhiều nguồn khác nhau -
các chi cục và tổng cục thống kê, các ngành và các đòa phương trong vùng.

IV .2 .2.. Phương pháp phân tích hệ thống.
Thực trạng về sự phân hoá lãnh thổ của Nam Bộ chỉ được nhận biết thông
qua phân tích các mối quan hệ về không gian, thời gian của các ngành và các khu
vực kinh tế vì thế trong quá trình phân tích, chúng tôi đã đặc biệt chú ý các mối
quan hệ tự nhiên và nhân văn, các mối quan hệ hình thức và bản chất. Về việc
xây dựng mô hình phân hóa lãnh thổ kinh tế- xã hội, đề tài vận dụng phân tích
các phản ứng tích cực và tiêu cực khi có các tác động của các yếu tố tự nhiên các
yếu tố kinh tế – xã hội, từ đó lựa chọn ra phương pháp tối ưu. Quá trình phân tích
đánh giá, đề xuất được tiến hành trên cơ sở so sánh tổng hợp để rút ra các bản
chất của các hiện tượng kinh tế, hiện tượng đòa lý phục vụ đề tài.


IV .2 .3 . Phương pháp thống kê toán học .
Trên cơ sở các số liệu đã thu thập được từ tổng cục thống kê, các cục
thống kê của các tỉnh, các ủy ban nhân dân tỉnh thuộc vùng Nam Bộ, sử dụng
phương pháp thống kê toán học như một công cụ để nhận biết những giá trò gần
đúng, xác thật cần thiết phục vụ cho nội dung đề tài.
IV .2 .4 . Phương pháp bản đồ, biểu đồ.
* Bản đồ dùng để mô tả hiện trạng kinh tế, sự phân bố các hiện tượng đòa
lí kinh tế, các mối liên hệ lãnh thổ trong không gian, mối quan hệ giữa chúng và
các dự kiến phát triển kinh tế.
* Biểu đồ : Được sử dụng để phản ánh quy mô các hiện tượng kinh tế (quy
mô ngành, lónh vực...)
Như vậy, những kết quả nghiên cứu trong đề tài một phần được biểu diễn
qua hệ thống bản đồ, biểu đồ.
IV .2 .5 . Phương pháp so sánh.
Ở mọi thời kỳ, sự phát triển kinh tế của riêng một đòa phương luôn có mối
quan hệ chặt chẽ với sự phát triển của các ngành kinh tế, các thành phần kinh tế
trong đòa phương đó, trong vùng kinh tế và trong cả nước. Đặc biệt ở thời kỳ nền
kinh tế nước ta đang có sự chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thò

trường có sự điều tiết, quản lý của Nhà nước thì mối quan hệ ấy càng chặt chẽ
hơn. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu sự phân hoá lãnh thổ về kinh tế -xã hội
của vùng, việc vận dụng phương pháp so sánh là cần thiết nhưng chỉ mang tính
tương đối qua từng thời kỳ cụ thể.
IV .2 .6 . Phương pháp khảo sát thực đòa.
Đây là phương pháp thường xuyên sử dụng khi nghiên cứu đòa lý kinh tế –
xã hội đòa phương nhằm thu thập được những nguồn thông tin đáng tin cậy để xây
dựng ngân hàng tư liệu cho các phương pháp khác. Mặt khác, phương pháp thực

đòa giúp kiểm nghiệm thực trạng nền kinh tế – xã hội của đòa phương và rút ra
những kết luận chính xác về hiện trạng một số ngành kinh tế của các đòa phương.
V . CÁCH THỨC TIẾN HÀNH.
Bước 1 : Lập đề cương.
Bước 2 : Sưu tập tài liệu.
Bước 3 : Đọc và xử lý tài liệu.
Bước 4 : Viết nháp.
Bước 5 : Trình bày hoà





















CHƯƠNG II:
CƠ SỞ LÝ LUẬN
I
.
KHÁI NIỆM KHÔNG GIAN.

Theo từ điển đòa lý (Oxford University Press, 1997): Không gian (Space) là
phạm vi của một vùng hay một khu vực thường được thể hiện dưới dạng bề mặt
trái đất. Mối quan hệ không gian giữ vò trí trung tâm trong đòa lý học. Ở đây cần
phân biệt hai khái niệm không gian tuyệt đối
và không gian tương đối: không
gian tuyệt đối đó là một không gian thực tế khách quan, còn không gian tương
đối là không gian được nhận thức bởi con người hay xã hội và có liên quan tới
những mối liên hệ giữa những sự kiện và khuynh hướng của những sự kiện đó.
F.Derroux và trường phái của ông, gồm các nhà khoa học Anh và Châu
Âu, nêu ba khái niệm về không gian: không gian toán học, không gian đòa lý,
không gian kinh tế.
I .1 . Không gian toán học.
Không gian toán học là không gian trừu tượng, là một bộ khung trừu tượng
dùng để biểu hiện, mô tả và phân tích lôgic các mối liên hệ giữa các hiện tượng,
hoàn toàn không tính đến bất kỳ sự phân bố đòa lý cụ thể nào.
“Toán học hiện đại quen quan sát những liên hệ trừu tượng đònh nghóa bản
thân một “vật thể” nào đó, và gọi những tổng thể liên hệ trừu tượng là những

“không gian”. Vậy, có bao nhiêu hệ thống liên hệ trừu tượng đònh nghóa một vật
thể, thì có bấy nhiêu không gian.
Những không gian trừu tượng
này là những tổng thể các liên hệ, nhằm
giải đáp những câu hỏi không có quan hệ trức tiếp với sự phân bố một điểm hay
một vật thể bằng hai hay ba tọa độ”
(1)
.
-------------------------
(1) F.Perroux, kinh tế thế kỷ 20, Paris, P.U.F 1964, trang 123 - 141
Ví dụ về không gian toán học là những liên hệ kỹ thuật nông nghiệp hay
công nghiệp, là “không gian kỹ thuật” của ma trận Leontief, là tổng thể những

điều kiện kỹ thuật để sử dụng các trang bò sản xuất cùng với những thông số, hệ
số kỹ thuật tương ứng, là những đường đẳng trò về giá thành, lợi nhuận... quy đònh
bề mặt không gian sản xuất của một nhà máy, v.v....
Không gian, trong đó con người sống và hoạt động là những không gian cụ
thể. Đó là không gian đòa lý và không gian lãnh thổ.
I. 2. Không gian đòa lý - khái niệm không gian trong đòa lý học
Thuật ngữ không gian và những thuật ngữ phát sinh của nó đang được sử
dụng hết sức rộng rãi trong ngôn ngữ đòa lý học, song cho tới nay vẫn chưa có
được một đònh nghóa rõ ràng về khái niệm này.
Trước hết cần phải xuất phát từ chỗ sự lý giải khái niệm không gian
dưới
góc độ khoa học chung - hay nói chính xác hơn sự lý giải khái niệm “không gian
và thời gian”, bởi vì đây là hai hình thức tồn tại của vật chất không tách rời lẫn
nhau - không phải được hình thành trong đòa lý học hay trong vật lý học, mà được
hình thành trong lónh vực triết học. Đòa lý học chỉ có thể lý giải khái niệm khoa
học chung này dưới góc độ tính đặc thù của một lónh vực thế giới vật chất do nó
nghiên cứu. Theo nghóa này, dưới dạng chung nhất, cần hiểu không gian đòa lý


như là một phạm trù quan niệm triết học, một hình thức khách quan, một hình
thức chung nhất, nhận thức được của sự tồn tại các thành tạo và các đối tượng vật
chất đòa lý trong phạm vi tổng thể các hệ đòa lý.
“Không gian đòa lý cần phải đồng thời cùng một lúc có hai tư chất: liên tục

và không liên tục
. Mỗi một đối tượng đòa lý có không gian vật chất của chính
mình, cũng như bất cứ một thành tạo vật chất nào khác. Như đã đònh nghóa, đối
tượng đòa lý cần phải tham gia vào việc hình thành cảnh quan đòa lý, phải gây tác
động vào lãnh thổ bao quanh nó, gây tác động vào các đối tượng đòa lý khác. Và
nếu không có sự tác động vật chất này, thì đối tượng đó không còn là đối tượng
đòa lý nữa. Một phạm vi, mà trong giới hạn của nó thể hiện sự tác động của đối
tượng đòa lý nào đó và không tách rời ra khỏi nó (đối tượng) được gọi là trường
đòa lý, hay trường của đối tượng đó. Chính bản thân không gian vật lý của đối

tượng cùng với trường đòa lý của đối tượng đó trong một tập hợp tạo thành không
gian đòa lý của đối tượng. Theo cách trình bày quan điểm như vậy thì không gian
vật lý của từng đối tượng đòa lý riêng biệt ứng với tính không liên tục,còn trường
thì ứng với tính liên tục của không gian đòa lý.
Các đối tượng đòa lý phức tạp tương ứng với không gian đòa lý phức tạp,
không gian đòa lý phức tạp này được hình thành bằng cách giao nhau, xâm nhập
lẫn nhau giữa các trường của các đối tượng riêng biệt. Rõ ràng rằng, các trường
tác động lẫn nhau cần phải mang lại cho không gian phức tạp này một chất lượng
thống nhất, mặc cho tính chất của sự tác động lẫn nhau hay có mâu thuẫn đến
mấy đi chăng nữa. Những đối tượng không tác động lẫn nhau, hoặc thực tế không
tác động lẫn nhau không thể tạo nên không gian đòa lý thống nhất được.
Ở đây cần phải nhấn mạnh rằng, bản thân không gian tự nó không tạo ra
sự thống nhất, mà sự thống nhất này là kết quả của sự tác động qua lại giữa các
đối tượng đòa lý cụ thể. Đây chính là sự khác biệt giữa không gian đòa lý với lãnh

thổ. Lãnh thổ, như trước đây đã nói, là một trong những tiền đề của sự thống nhất
giữa các đối tượng nằm trên lãnh thổ đó.
Về mặt phương pháp, tính không liên tục và tính liên tục của không gian
đòa lý được thể hiện ở chỗ có thể biểu diễn lãnh thổ đã được phân vò hoặc dưới
dạng ma trận “đối tượng trên đơn vò phân vò (mxn) hoặc dưới dạng ma trận “đơn
vò phân vò trên đơn vò phân vò” (nxn).
Quan điểm triết học về sự thống nhất giữa không gian và thời gian đòi hỏi
phải đưa dấu hiệu về tính năng động
như sự biểu hiện của quá trình phát triển
liên tục các đối tượng đòa lý vào đònh nghóa về không gian đòa lý. Việc đưa
“thành phần thời gian” vào nội dung của khái niệm làm cho tính năng động của
chính bản thân thuật ngữ này tăng lên. Ví dụ, để đặc trưng một đối tượng đòa lý
mà chỉ cần tới độ dài của nó không thôi, còn thành phần thời gian có thể bỏ qua
thì nên dùng thuật ngữ lãnh thổ. Nhưng nếu yếu tố thời gian là một yếu tố quan
trọng, thì tốt hơn hết là nên dùng thuật ngữ không gian.

Nếu bỏ qua thành phần thời gian thì về cơ bản không gian đòa lý cần được
hiểu như là một không gian ba chiều (đo đếm nhiều hơn ba chiều chỉ sử dụng để
giải bài toán nhất đònh). Chúng ta lưu ý, số đo của không gian và độ cong của nó
là những khái niệm khác nhau. Có thể đònh nghóa độ cong như là mức độ khác
nhau giữa không gian đòa lý hiện thực với không gian ơclít.
Không phá mối liên hệ qua lại mang tính hệ thống giữa các khái niệm, có
thể hiểu lãnh thổ như là “không gian hai chiều quy ước nào đó, được cấu thành từ
không gian đòa lý ba chiều khi sắp xếp chất chỉnh các thông tin đòa lý”. “Gạt bỏ
chiều thẳng đứng đi - B.B.Rôđô Man viết - chúng ta sẽ giải phóng được một
chiều đo và có thể chuyển đến mô hình ba chiều lần nữa, trong mô hình ba chiều
này thành phần thẳng đứng không còn phản ánh đòa hình thực của bề mặt trái đất
nữa, mà nó phản ánh lãnh thổ một cách đònh lượng trong mối quan hệ nào đó”
(40 trang 30). Chiều đo thứ ba này có thể được sử dụng để phản ánh cường độ
của hiện tượng, phản ánh tính năng động, tính trực thuộc của hiện tượng đó vào

các hệ thống phân vò khác nhau v.v.... Hiểu theo nghóa này, thì chiều đo thứ ba
cùng với việc sử dụng nó là trường hoạt động chính của ngành bàn đồ học hiện
đại.

Cuối cùng, khi quay lại với các điều kiện sơ bộ của đònh nghóa không gian
đòa lý, rõ ràng, cần phải nhấn mạnh tới tính chất phức tạp của nó, ở đây chúng tôi
muốn nói rằng, bất kỳ một không gian đòa lý nào cũng có thể được phân chia ra
thành hàng loạt những bộ phận không gian đòa lý cấu thành của các đối tượng
riêng biệt. Không gian đòa lý có thể được coi như là sự kết hợp giữa trường với
bản thân không gian vật lý. Đến lượt nó, trường đòa lý cũng có thể được chia ra
thành một loạt các bộ phận cấu thành (ứng với các phạm vi tác động của đối
tượng vào kinh tế, dân số và tự nhiên).
Đó là những điều kiện sơ bộ yêu cầu phải được thỏa mãn trong khi đònh
nghóa mở rộng không gian đòa lý. Có thể nêu đònh nghóa đó như sau: không gian
đòa lý - là tập hợp các mối quan hệ giữa các đối tượng đòa lý được phân bố trên

một lãnh thổ nhất đònh và phát triển theo thời gian. Khái niệm này có các tính
chất về số đo, độ cong, về tính phức tạp, đồng thời nó mang cả tính entropi, hay
tính phân chia thành “các trường” v.v.....
Tính đặc thù của không gian đòa lý chính là ở chỗ nó có thể được hình
thành do bất kỳ những đối tượng, hiện tượng, bất kỳ những mối quan hệ nào
(miễn sao những đối tượng, hiện tượng và những mối quan hệ ấy mang tính đòa
lý), nhưng sự có mặt trong số những đối tượng lãnh phận này phải là điều kiện
bắt buộc. Nếu trong không gian mà không có lãnh phần, thì không gian đó có thể
hiểu như thế nào cũng được. Nhưng nó không phải là không gian đòa lý.
Cần phải nhớ rằng, đối với nhà đòa lý thì không gian đòa lý - khác với sự
nhận thức của nhà triết học về không gian - luôn luôn là một hình thức được gắn
liền không tách rời với nội dung, tức là lãnh thổ (hay lãnh phận). Hay nói ngược
lại, không gian đòa lý không phải là “cái hộp không thành, không đáy” mà là một
“cái hộp” nhất thiết phải có một “đáy” đó là bề mặt trái đất. Mối liên hệ gắn bó

chặt chẽ giữa khái niệm không gian đòa lý với khái niệm lãnh thổ buộc chúng ta
phải luôn luôn đưa vào khái niệm này một thành phần quan trọng, đó là các
nguồn (nằm trong lãnh phận) và cơ sở hoạt động (nằm trong lãnh thổ). Ngoài ra,
không gian đòa lý của trái đất còn có một loạt các tính chất đặc trưng quan trọng
đối với việc nghiên cứu tới mức làm cho việc tính đến chúng trở thành cơ sở của
cái gọi là hệ biến hóa không gian đòa lý.
Như đã trình bày ở trên về không gian, người ta thấy không gian nằm ở
trung tâm các hoạt động của con người, tức là của đòa lý, thû xưa cũng như bây
giờ. Không gian là một hằng số (constan) chính. Đòa lý quan tâm đến các hình
thái không gian của đời sống xã hội: đòa lý gắn bó với việc tìm hiểu không gian
và các hoạt động không gian: khái niệm của không gian từ đó là trung tâm của
đòa lý: nó là nền tàng của đòa lý.
Có nhiều dạng không gian trong đòa lý, song đáng chú ý là các khái niệm
không gian sau:
(*)


Không gian tuyệt đối
Quan niệm về một không gian tuyệt đối đã được xem trọng từ ngọn nguồn
của khoa học đòa lý. Không gian này trên bản đồ, trên bản đồ vũ trụ được sắp
xếp như một các khung trong đó nhà đòa lý đònh vò các đối tượng của mình. Một
hệ thống tọa độ ngang dọc trên mặt đất, nào là kinh độ, nào là vó độ, tất cả những
cái đó giúp xác đònh bất cứ một vò trí của bất cứ điểm nào của quả đất. Một
“lieu” (place) - một đòa điểm được xem là một chấm của mặt đất xác đònh bằng
kinh độ và vó độ của nó: Có thể thêm độ cao so với mặt biển nếu thấy cần đến
một không gian 3 chiều. Còn một chiều thứ tư là thời gian cái đó là cho người
nào muốn “đònh vò” trong không gian - thời gian.
Cách nhìn này dễ dàng phù hợp với một khái niệm kỷ hà học về không
gian. Không gian gồm những đòa điểm đònh vò bằng kinh độ và vó độ của chúng.
Người ta dễ dàng xác đònh khoảng cách giữa các điểm, những đường tượng trưng

cho các khoảng cách ấy; diện tích lãnh thổ do các đường bao bọc, các nút là sự
gặp gỡ của các đường. Người làm bản đồ sử dụng rộng rãi những đặc điểm này
của không gian tuyệt đối.
Kant đã chấp nhận khái niệm không gian tuyệt đối vì nó có thể nghiên cứu
tách khỏi vật chất. Không gian nằm trong một loại hình phi vật chất, nó là cái vỏ
và vật chất là ruột. Về đòa lý, điều này có nghóa là phải phân biệt việc xác đònh
vò trí (theo nghóa không gian là do vó độ và kinh độ ấn đònh) với những tính chất
của “cái ruột” do ngôn ngữ về vật chất quy đònh; như vậy Hà Nội là một điểm
xác đònh được trong không gian bởi vó độ và kinh độ, ngoài ra tỷ lệ người chết là
một đặc điểm của thành phố không có tính không gian. Không gian tuyệt đối là
một cái khung trong đó sẽ ghi các đối tượng và sự kiện.
Không gian “vỏ” gồm các điểm, khoảng cách và cung cấp các diện tích có
khả năng trả lời các câu hỏi muôn thû của đòa lý: “ở đâu”. Có thể vì đó mà từ
lâu nó được xem như là một khái niệm ưu tiên.


Không gian tương đối:
Khái niệm không gian tương đối vẫn không đủ - các nhà đòa lý thấy có yêu
cầu nên không bỏ nó thì phải bổ sung thêm cho nó. Vì một cái “vỏ”, một khung
trơn là một vật rỗng. Những hiện tượng mà các nhà đòa lý phân tích đã được xem
như là những bộ phận của không gian và thêm nữa còn cần thiết cho việc đònh
chất của không gian. Theo cách nhìn này thì khoa học (và đòa điểm, phần tử của
nó) không phải chỉ được đònh nghóa bằng các yếu tố đònh vò (coordonnées - lat -
long) mà còn phải gắn với các thuộc tính của các vật chất (theo nghóa triết học).
Không gian trở thành vừa là “vỏ” vừa là “ruột”, đó là không gian tương đối. Hà
Nội ngoài vó độ và kinh độ, còn được đònh vò bằng các điểm phụ thuộc, dân số
của thành phố này, hoạt động của nó, khí hậu, đòa hình.... Một đòa điểm không
chỉ là một điểm gặp của vó độ và kinh độ nào đó mà là phong phú hơn. Để cho
khái niệm không gian trở nên có ích trong đòa lý, danh từ này phải có một chỗ
dựa vật chất, bằng không thì nó chỉ là kỷ hà học đơn thuần, “một danh từ không

gian không dựa vào một vật chất nhất
đònh là một từ không được đònh nghóa đầy
đủ để trở thành một khái niệm có ý nghóa”. Một giả thuyết về không gian không
có chỗ dựa vật chất thì không thể kiểm tra được vì kiểm tra một giả thuyết là
phải đối chiếu với thực tế được quan sát, luôn luôn là vật chất.
Ngoài ra còn có một số đònh nghóa khác về không gian đòa lý. Chúng tôi
xin được giới thiệu dưới đây:
 Khái niệm
: “Phạm vi không gian đòa lý là bề mặt trái đất và sinh
quyền” (O.Dollfus 1970). Đó là “không gian con người có thể tới được, sử dụng
được” (J.Gottmann. Bức ảnh chụp từ trên không, bản đồ phẳng hay bản đồ nổi
với những đường nét, màu sắc, ký hiệu... mô tả đất đai, đòa hình, khí hậu, cảnh
quan thiên nhiên là những thể hiện cụ thể - thu nhỏ của không gian đòa lý. Nói
ngắn gọn, đó là môi trường tự nhiên, môi trường đòa lý.
 Đặc điểm không gian đòa lý
: Không gian đòa lý phân dò về mặt đònh tính
dưới các góc độ vật lý, hóa học, sinh vật học. Không gian đòa lý ổn đònh
theo

nghóa là: các quá trình tự nhiên diễn ra rất chậm chạp theo những độ lớn thời gian
hoàn toàn khác với các quá trình xã hội (trăm, nghìn, vạn năm). Dù phân dò mạnh
đến đâu và dù có biến đổi, toàn bộ không gian đòa lý vẫn bò chi phối bởi cùng
những quy luật của tự nhiên, thể hiện ở các quá trình vật lý, hóa học, sinh vật
học.
Mỗi không gian đòa lý cụ thể được xác đònh bởi những đường ranh giới quy
ước rõ ràng. Đây là những đường thẳng (kinh tuyến - vó tuyến, hoặc những đường
thẳng quy ước khác), hay quanh co: những đường đi theo các yếu tố đòa hình
(sông, ngòi, sông núi, bờ biển...), hoặc những đường quy ước quốc tế và quốc gia
(ranh giới chính trò, ranh giới hành chính).
Mỗi không gian đòa lý như vậy có một vò trí cụ thể trên bề mặt trái đất,

một quy mô (đo bằng km
2
hay bằng tỷ lệ so với một không gian đòa lý lớn hơn mà
nó là một bộ phận), và có những đặc điểm tự nhiên (năng lượng mặt trới, khí hậu,
nước, đất, thực vật, động vật, đòa chất...), và một cơ cấu đặc thù các thành phần
tự nhiên. Mỗi thành phần ấy và tổng thể không gian đòa lý đều gây ảnh hưởng
nhất đònh đến đời sống và các hoạt động kinh tế, xã hội. Đồng thời, bằng hoạt
động của mình, con người làm biến đổi không gian đòa lý. Để tổ chức một cách tự
giác đời sống xã hội và kinh tế về mặt không gian, phải hiểu biết tường tận
không gian đòa lý, tương tác giữa thiên nhiên và con người, trong những quy luật
chung cũng như trong những biểu hiện cụ thể của chúng trên từng đòa bàn cụ thể.
I . 3 . Không gian kinh te.á
I .3 .1. Các quan điểm về không gian kinh tế.

Theo quan điểm đòa lý, thì “không gian kinh tế chỉ là một phần của không
gian đòa lý. Không gian kinh tế bao gồm những khu vực ở đó có những điểm quần
cư ổn đònh hay tạm thời, những khu vực có kết cấu hạ tầng kỹ thuật, nhờ đó có
thể thực hiện sự hợp tác, trao đổi và tiếp xúc giữa các khu vực hay điểm quần cư.
Không gian kinh tế gồm cả đất nông nghiệp, rừng đang khai thác, các nguồn
nước, các khu vực nghỉ ngơi, giải trí, du lòch” (S.Lezixki, 1974). Như vậy, khi xác

đònh không gian kinh tế, theo đònh nghóa trên, người ta tập trung nghiên cứu
những phần nào của không gian đòa lý có các công trình nhân tác và các hoạt
động (kinh tế, văn hóa, khoa học, chính trò, giao tiếp...) diễn ra trong không gian
đó.
Theo quan điểm kinh tế, thì các không gian kinh tế được xác đònh bởi
những liên hệ kinh tế, tồn tại giữa các yếu tố kinh tế (F.Perroux, 1964) [36],
J.Boudeville còn nói cụ thể hơn: “không gian kinh tế vừa là không gian đòa lý,
vừa là không gian toán học..., là sự ứng dụng không gian toán học vào không
gian đòa lý. Không gian kinh tế là nơi phân bố các liên hệ kinh tế và các quan hệ

ứng xử giữa người sản xuất và người tiêu dùng” [1]. Không gian kinh tế là nơi
diễn ra những liên hệ giữa hai tổng thể: các hoạt động kinh tế; các vò trí đòa lý.
Đònh nghóa của các nhà kinh tế đã được tóm tắt như sau:
“Không gian kinh tế là nơi diễn ra mối quan hệ tương hỗ giữa hai tổng thể,
đó là các hoạt động kinh tế và các vò trí đòa lý (nơi phân bố chúng), không gian
kinh tế còn bao hàm cả không gian sản xuất (sản xuất nguyên liệu, nhiên liệu,
năng lượng, thành phẩm), và không gian tiêu thụ (phân phối, lưu thông, tiêu
dùng)” [1].
Như vậy các nhà kinh tế chú ý phân tích các mối quan liên hệ kinh tế, mà
các mối liên hệ kinh tế có thể diễn ra bằng ngôn ngữ toán học: các ma trận, đồ
thò, các phương trình, mạng.... Các mối liên hệ kinh tế này lại được thực hiện giữa
các yếu tố kinh tế (các lãnh vực hoạt động, các ngành kinh tế, các đối tượng kinh
tế...) phân bố trong những không gian cụ thể
Không gian kinh tế được mô tả như một bể chứa (nằm trong một bể chứa
lớn hơn là không gian đòa lý), với những vật thể chứa đựng ở trong. Nhưng kinh tế
là năng động, những ảnh hưởng của nó không đóng khung trong những ranh giới
cố đònh của lãnh thổ quốc gia hay lãnh tổ vùng. Xét về khía cạnh những vật thể
đònh vò về mặt không gian thì không gian kinh tế nhỏ hơn không gian đòa lý,
nhưng nếu xét về tổng thể những liên hệ kinh tế thì không gian kinh tế lại vượt ra

K
ngoài không gian đòa lý của một nước, một vùng. Sự khác nhau giữa hai hình thái
không gian, chủ yếu không phải về lượng, mà là về chất, mặc dù chúng gắn liền
không tách rời nhau. Cần có một khung tư duy mới, rộng hơn, mềm dẻo, sinh
động hơn và đi sâu vào bản chất hơn.
Ví dụ sau đây minh họa cụ thể không gian kinh tế
(*)
. Có ba ngành hoạt
động 1, 2, 3 (tổng thể thứ nhất x) và bốn vùng (tổng thể thứ hai y). Mỗi sự phân
bố là một sự kết hợp, một liên hệ giữa một hoạt động và một vò trí đòa lý. Không

gian kinh tế là tổng thể tất cả các cặp đôi: hoạt động - vò trí có thể có. Nếu dùng
ngôn ngữ toán học hiện đại, ta nói: không gian kinh tế gồm có: lónh vực
là các
hoạt động (x) và trường
là các vò trí phân bố (y).

Hình 1
: Không gian kinh tế
Các ngành kinh tế: x
Các vò trí: y
(y nằm trong không gian đòa lý)









Lónh vực (Không gian Trường
(các hoạt động) kinh tế)
Trong thực tế thì đương nhiên các mối liên hệ quan sát được trong không
gian kinh tế không bao gồm được tất cả mọi hoạt đồng (x) có thể có, cũng như tất
x
1
x
2
x
3


y
1
y
2
y
3

y
4

×