Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

tieu luan phap luat ve cty co phan docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.03 KB, 14 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài:
hủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác- Lê Nin đã khẳng định:”Bất cứ 1 sự vật, hiện
tượng nào cũng ra đời và biến đổi theo hướng phát triển của nền kinh tế thị trường
kéo theo sự cạnh tranh khốc liệt trong việc trao đổi hàng hoá mang lại lợi nhuận dịch
vụ,điều này gây khó khăn lớn cho các nhà đầu tư ít vốn, đẩy họ vào vị trí bất lợi trên cuộc
đua thương trường.nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn trong kinh doanh,các nhà đầu tư phải lien
kết với nhau trong kinh doanh để thành lập các công ty đối vốn,một trong các loại hình tiêu
biểu, phổ biến và mang lại lợi nhuận cao là hình thưc công ty cổ phần.Công ty cổ phần ra
đời dã kéo theo sự xuất hiện và tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển như
hiên nay.Với những đóng góp to lớn cho nền kinh tế quốc dân,công ty cổ phần ngày càng
khẳng định vị trí của mình và trở thành loại hình doanh nghiệp được ưa chuộng trong thời
kì hội nhập và phát triển ở nước ta hiện nay.Điều nà lí giải vì sao công ty cổ phần lại thu
hút các bạn trẻ muốn kinh doanh.hoà cung dòng chảy cuốn hút đó, nhóm chúng tôi quyết
định chọn đề tài:”Pháp luật về công ty cổ phần”.
C
Nhóm 2 1 Bài tiểu luận Luật kinh tế
Công ty cổ phần bê tông Miền Nam
Công ty cổ phần Vincom
PHẦN NỘI DUNG
I/ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN:
1.1 Lịch sử hình thành:
CTCP có nguồn gốc khá mơ hồ ở Ý hoặc một trong những ngân hàng đầu tiên ở Genua,
hoặc Mailand trong thế kỷ XV, hoặc trong công ty Đông Ấn của Hà Lan, hoặc thậm chí
đã có nguồn gốc xa xưa trong các societas của người La Mã.
Ở thời La Mã, tầng lớp quý tộc lập ra những hội xã để phụ các hiệp sĩ thu thuế nông
nghiệp, sau đó là đi chinh phục các lãnh thổ và đúc khí giới, áo giáp cung cấp cho các
đoàn quân viễn chinh; còn ở tầng lớp thứ dân, những người thợ thủ công và thương gia
mở các công ty tự bầu người quản lý và được cấp phép hoạt động. Sau đế quốc La Mã
sụp đổ, hình thức này cũng lụi tàn dần cho mãi đến thời kỳ Trung cổ, hai trong số các tổ
chức do người La Mã để lại đã được phục hồi là đế quốc của các thương gia tại Ý và


công ty cùng các phường hội được chính quyền cấp phép tại miền Bắc Châu Âu.
Bắt đầu từ đó, hình thức lập hội, lập các tổ chức dạng như công ty phát triển liên tục dưới
nhiều hình thái khác nhau qua các thời kỳ tại các vùng lãnh thổ khác nhau. Trong các thời
kỳ này, nền kinh tế thị trường phát triển cùng với sự phát triển mạnh mẽ của CNTB, nhu
cầu hùn hợp vốn và liên kết của các nhà buôn nhỏ lẻ trước sự chèn ép của các nhà tư bản
là tất yếu và ngày càng trở nên phổ biến dưới nhiều phương thức. Mầm mống hình thành
CTCP đúng như C.Mac nhận định: “Ngay trong buổi đầu của nền sản xuất TBCN một số
ngành sản xuất cũng đòi hỏi một số tư bản tối thiểu mà lúc bấy giờ từng cá nhân riêng lẻ
chưa thể có được, tình hình đó mặc nhiên dẫn đến Nhà nước phải trợ cấp cho những tư
nhân như ở Pháp dưới thời Côn-Be, như là một số công quốc cho tới nay. Mặt khác, nó
dẫn đến việc thành lập một số hội nắm giữ độc quyền do pháp luật thừa nhận để kinh
doanh trong những ngành công nghiệp và thương nghiệp nhất định. Đó là tiền thân của
Công ty cổ phần hiện đại”
Ở Việt Nam, nhu cầu hội người, hội vốn, hội các làng nghề giữa các gia đình nhà buôn
truyền thống với những kẻ thực dân, giữa các tầng lớp nhỏ bé, yếu thế với nhau đã xuất
hiện từ lâu và là nhu cầu tất yếu để tạo nên sức mạnh tập thể. CTCP cũng vì lẽ ấy đã có
một truyền thống âm thầm từ hơn một thế kỷ nay ở nước ta. Thế nhưng do những biến
động chính trị, do phụ thuộc vào kinh tế kế hoạch nên “cái mầm mống ấy sớm héo hon”.
Mãi đến cuối thập niên 1980, nền kinh tế kế hoạch mới đến hồi kết và nhường đường cho
một sắc luật của nền kinh tế thị trường ra đời. Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu về Luật
Kinh tế chế độ cũ (như Luật thương mại Trung phần ban hành thời Pháp, áp dụng cho
miền Trung; Luật thương mại của chế độ cộng hòa ), một số tài liệu tiếng Anh, tiếng
Pháp nghiên cứu về luật công ty của một số quốc gia tư bản Luật Công ty năm 1990 đã
mở màn tái khám phá ra CTCP. Lần đầu tiên trong lịch sử chế độ xã hội chủ nghĩa ở VN,
kinh tế tư nhân được thừa nhận về mặt pháp lý. Mười năm sau, đạo luật đơn sơ ấy đã
được thay đối bởi LDN năm 1999, và ngày nay, LDN năm 2005 dành hẳn một chương
với các quy định khá cụ thể để nói về CTCP – một hình thức kinh doanh đem lại nhiều
thành công cho nền kinh tế và đóng vai trò vô cùng quan trọng như C.Mac đã từng nhận
định: “Nếu phải chờ đợi Tư bản tư nhân tích tụ cho đến lúc đủ sức làm một con đường sắt
Nhóm 2 2 Bài tiểu luận Luật kinh tế

thì có lẽ đến ngày nay Châu Âu vẫn chưa có đường sắt, nhưng nhờ việc thành lập công ty
cổ phần nên việc ấy làm được dễ dàng như trở bàn tay”.
1.2 Khái niệm:
Căn cứ vào điều 77 Luật Doanh nghiệp 2005, công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó:
+ Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần
+ Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số
lượng tối đa
+ Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp
trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
+ Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường
hợp do pháp luật quy định khác.
+ Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh
doanh
+ Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn
1.3 Đăc điểm:
- Thứ nhất, vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau và
được gọi là cổ phần (điểm a khoản 1 điều 77 - Luật DN 2005). Một trong những điểm khác
biệt có tính chất cơ bản giữa công ty cổ phần với các loại hình doanh nghiệp khác chính là
ở đặc trưng này. Ở công ty cổ phần, vốn điều lệ được chia nhỏ thành các phần bằng nhau,
các nhà đầu tư khi tham gia góp vốn vào công ty cổ phần sẽ được xác định là nắm giữ bao
nhiêu cổ phần của công ty chứ không xác định là nắm giữ số vốn bao nhiêu, chiếm bao
nhiêu phần trăm vốn điều lệ như ở các loại hình doanh nghiệp khác
- Thứ hai, công ty cổ phần là doanh nghiệp có số lượng thành viên tối thiểu là ba và
không giới hạn số lượng thành viên tối đa ( điểm b khoản 1 điều 77_ Luật 2005). Như vậy,
công ty cổ phần là loại doanh nghiệp mà pháp luật đòi hỏi số lượng thành viên tối thiểu lớn
nhất trong số các loại hình doanh nghiệp đang tồn tại theo qui định của pháp luật Việt Nam.
Trước đây, Luật công ty năm 1990 đòi hỏi số lượng thành viên tối thiểu của công ty cổ
phần là 7 còn Luật Doanh nghiệp 2005 chỉ yêu cầu là 3. Điểm mới này đã tạo điều kiện hết
sức thuận lợi cho các nhà đầu tư khi muốn kinh doanh dưới hình thức pháp lý này. Thành
viên của công ty cổ phần có thể là cá nhân hoặc tổ chức và chỉ phải chịu trách nhiệm về nợ

và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp (điểm c khoản 1 điều
77 _ Luật DN 2005). Đặc trưng này của công ty cổ phần xác định sự tách bạch về mặt tài
sản của nhà đầu tư – thành viên với tài sản công ty.
- Thứ ba, công ty cổ phần là một pháp nhân kể từ ngày đựơc cấp giấy chứng nhận đăng
kí kinh doanh ( khoản 2 điều 77_Luật DN 2005).
- Thứ tư, công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo qui định
của pháp luật về chứng khoán ( cổ phiếu, trái phiếu chuyển đổi và các loại trái phiếu khác
theo qui định của pháp luật và Điều lệ công ty) (theo khoản 1 điều 88 Luật Doanh nghiệp
2005). Trong khi, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân bị cấm phát hành tất cả các
loại chứng khoán còn công ty TNHH ( cả một thành viên và từ hai thành viên trở lên) chỉ
được quyền phát hành các loại chứng khoán không phải là cổ phiếu thì công ty cổ phần có
thể phát hành tất cả các loại chứng khoán mà pháp luật có thừa nhận. Điều này thể hiện tính
đại chúng của công ty cổ phần.
* Ngoài ra:
- Công ty cổ phần là tổ chức có tư cách pháp nhân độc lập:
Pháp luật về công ty của các nước đều xác lập một cách cụ thể về các quyền và nghĩa vụ
pháp lý của CTCP với tư cách là một pháp nhân độc lập, có năng lực và tư cách chủ thể
riêng, tồn tại độc lập và tách biệt với các cổ đông trong công ty. CTCP chịu trách nhiệm về
các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản bằng tài sản của chính công ty, là nguyên đơn hoặc bị đơn
dân sự trong các quan hệ tranh tụng tại Tòa án thông qua người đại diện của mình. Cổ đông
Nhóm 2 3 Bài tiểu luận Luật kinh tế
là chủ sở hữu CTCP và có một số quyền lợi như: quyền tham gia quản lý điều hành, quyền
được chia cổ tức, quyền được chia tài sản theo tỷ lệ cổ phần sở hữu khi công ty giải thể …
nhưng cổ đông chỉ được sở hữu cổ phần trong công ty mà không có bất kỳ quyền sở hữu
nào đối với tài sản của công ty. Trong khi đó, CTCP với tư cách là một pháp nhân có quyền
sở hữu toàn bộ tài sản riêng của công ty.
- Cổ đông trong CTCP chịu trách nhiệm hữu hạn:
Khi một cá nhân hay tổ chức chuyển dịch vốn của mình vào CTCP trở thành tài sản thuộc
sở hữu CTCP, cổ đông vẫn được hưởng các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc góp vốn
nhưng cũng có thể mất chúng khi công ty giải thể hoặc phá sản. Vốn thuộc sở hữu công ty

chính là giới hạn sự rủi ro tài chính của các cổ đông trên toàn bộ số vốn đã đầu tư vào công
ty, nên trách nhiệm của những cổ đông đối với các nghĩa vụ của công ty được hạn chế
trong phạm vi mà họ đã đầu tư vào cổ phiếu của mình. Đặc điểm này cho phép người ta
mạnh dạn đầu tư vào công ty mà không phải chịu rủi ro đối với tài sản cá nhân trong trường
hợp công ty phá sản vì cổ đông không bao giờ bị mất nhiều hơn so với số vốn đã bỏ ra đầu
tư vào CTCP. Cũng chính lợi thế này mà các CTCP có khả năng huy động rất lớn các
nguồn vốn đầu tư của xã hội vào hoạt động sản xuất – kinh doanh của mình.
- Cổ phần được tự do chuyển nhượng:
Đây là đặc điểm quan trọng tạo nên sự hấp dẫn của CTCP. Chính đặc điểm này đã thu hút
các NĐT vì với cổ phần được tự do chuyển nhượng cổ đông có thể chuyển nhượng cổ phần
cho NĐT khác bất cứ lúc nào, họ được quyền rời bỏ công ty khi họ muốn
1
. Hơn nữa, với
việc tự do chuyển nhượng cổ phần, cơ cấu cổ đông của công ty có thể thay đổi linh hoạt mà
không làm ảnh hưởng đến sự tồn tại cũng như bản chất của công ty.
- CTCP có cấu trúc vốn và tài chính linh hoạt:
Công ty cổ phần không thể được thành lập và hoạt động nếu không có vốn. Vốn là yếu tố
quyết định và chi phối toàn bộ hoạt động, quan hệ nội bộ cũng như quan hệ với các đối tác
bên ngoài. Trong quan hệ nội bộ, vốn của công ty được xem là cội nguồn của quyền lực.
Trong quan hệ với bên ngoài, vốn của công ty cổ phần là một dấu hiệu chỉ rõ thực lực tài
chính của công ty. Sự phát triển của công ty cổ phần tỷ lệ thuận với sự luân chuyển các
nguồn vốn trong nền kinh tế. Sự vận động của vốn trong công ty cổ phần vừa chịu sự chi
phối khách quan của các qui luật kinh tế, vừa bị ảnh hưởng bởi ý chí chủ quan của con
người. Do vậy, cách thức góp vốn, cách tổ chức và quản lý vốn trong CTCP sẽ đa dạng và
cụ thể để có thể đáp ứng được sự vận động linh hoạt của đồng vốn trong CTCP.
- Quy mô CTCP dễ dàng mở rộng:
Cổ đông CTCP có thể là cá nhân hay tổ chức, số lượng tối thiểu là ba, không hạn chế số
lượng tối đa. Do vậy, bất cứ ai cũng có thể trở thành cổ đông của CTCP nếu họ không
thuộc dạng bị cấm góp vốn vào CTCP và chỉ cần nắm giữ ít nhất một cổ phần của CTCP.
Mặt khác, CTCP có thời gian tồn tại vô hạn nên việc phát hành chứng khoán để huy động

vốn và mở rộng quy mô công ty là điều hết sức dễ dàng.
- Cơ chế quản lý tập trung cao:
CTCP không phải là sự tập hợp đơn thuần của cổ đông mà là một thực thể thống nhất có tổ
chức chặt chẽ. Bản thân công ty là một pháp nhân độc lập với đầy đủ quyền và nghĩa vụ
của mình nhưng không thể quyết định được ý chí của mình hay tự mình hành động như một
thể nhân. Vì vậy, mọi hành động của CTCP phải được thực hiện thông qua một cơ quan
quản lý riêng biệt. Điều đó dẫn đến sự tách biệt giữa những người sở hữu cổ phần và những
người điều hành. Sự tách biệt này giúp tiết kiệm chi phí của việc ra quyết định và để đảm
bảo rằng các nhà quản lý không đi ngược lại lợi ích của mình. Các cổ đông thành lập ra bộ
máy, cơ chế để quản lý, kiểm soát những hành vi cơ hội chủ nghĩa của các cổ đông nắm
quyền kiểm soát hoặc là đối với các cổ đông khác, hoặc là đối với các đối tác khác liên
quan đến công ty như chủ nợ hay người lao động. Nó mang đến cho cổ đông thiểu số hay
các thành phần khác như người lao động và chủ nợ một phương tiện tiếp cận thông tin đáng
1
Nhóm 2 4 Bài tiểu luận Luật kinh tế
tin cậy hay tham gia trực tiếp vào việc ra quyết định của công ty. Rõ ràng, việc tách bạch
giữa sở hữu và quản lý như vậy vừa thu hút được những người quản lý chuyên nghiệp được
công ty thuê làm công tác quản lý, vừa tạo ra được sự quản lý tập trung cao thông qua cơ
chế quản lý hiện đại nhằm phát huy tính hiệu quả, công khai, minh bạch, góp phần bảo vệ
nhà đầu tư tốt hơn và cải thiện sức cạnh tranh cho chính bản thân doanh nghiệp.
Với những đặc điểm nổi bật, CTCP đã trở thành hình thức tổ chức doanh nghiệp mang
tính thống trị nhằm giải quyết nhu cầu về vốn cho tăng trưởng. Dù vẫn còn có những hạn
chế nhất định nhưng trong thời buổi cạnh tranh toàn cầu hiện nay những hạn chế của CTCP
là hoàn toàn có thể được khắc phục. Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa hiện nay, CTCP là hình thức huy động vốn trên quy mô lớn một cách hiệu quả
nhất, giúp doanh nghiệp tiếp thu sự tiến bộ của khoa học nhanh chóng, tạo điều kiện cho
công ty kinh doanh hiệu quả hơn và tăng thêm nguồn thu cho ngân sách.
II/CỔ PHẦN, CỔ PHIẾU, TRÁI PHIẾU TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN:
1/Cổ phần, cổ phiếu trong CTCP:
 Cổ phần:

- Khái niệm cổ phần:
Cổ phần là khái niệm chỉ các chứng nhận hợp lệ về quyền sở hữu một phần đơn vị nhỏ nhất
của một cá nhân hay tổ chức trong CTCP. Ở các quốc gia khác nhau, thuật ngữ “cổ phần”
được hiểu theo các cách khác nhau nhưng bản chất của nó vẫn thể hiện quyền sở hữu đối
với CTCP:
Ở Philippin, Singapore, Malaixia…phần vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn tư
nhân hoặc các công ty đóng và các công ty công cộng đều được coi là cổ phần. Cổ phần ở
các công ty này chỉ khác nhau là có được chào bán ra công chúng và có được niêm yết ở sở
giao dịch chứng khoán hay không. Ở các quốc gia này, cổ phần được xem như là đơn vị để
phân chia quyền sở hữu của công ty và mỗi cổ phần có thể gồm nhiều cổ phiếu có giá danh
nghĩa như nhau.
Ở Việt Nam, và một số quốc gia khác trên thế giới cổ phần là phần chia nhỏ nhất và
bằng nhau của vốn điều lệ
2
, là từ “tượng trưng” cho quyền sở hữu của cổ đông và được cụ
thể hóa bằng một cổ phiếu. Quyền sở hữu này dù chỉ là một phần cũng cho phép người sở
hữu cổ phần những đặc quyền nhất định, thường là: hưởng một phần tương ứng lợi nhuận
của hoạt động kinh doanh, thông qua phần chia lãi sau thuế, quyền được tham gia quyết
định kinh doanh quan trọng trong các phiên họp thường niên hay bất thường, và sức mạnh
quyền này tỉ lệ với số cổ phần nắm giữ, quyền được tiếp tục tham gia đóng góp vốn khi
doanh nghiệp phát hành bổ sung các cổ phần mới, hoặc phát triển các dự án mới cần gọi
vốn và một số quyền khác tùy theo qui định pháp luật.
- Các loại cổ phần:
CTCP phải có cổ phần phổ thông, cổ phần ưu đãi là loại cổ phần không bắt buộc phải có
trong CTCP, bao gồm: cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi
hoàn lại và các loại cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định:
 Cổ phần phổ thông: LDN không đưa ra khái niệm cụ thể thế nào là “CPPT” nhưng căn
cứ vào quyền và nghĩa vụ của người nắm giữ nó CPPT được hiểu là loại cổ phần có thu
nhập không ổn định, cổ đông nắm giữ CPPT được trả cổ tức hàng năm tùy thuộc vào hoạt
động kinh doanh của công ty và có những quyền cơ bản nhất như biểu quyết, tham gia bầu

cử và ứng cử vào bộ máy quản trị và kiểm soát công ty, chịu trách nhiệm về sự thua lỗ hoặc
phá sản tương ứng với phần vốn góp của mình.
 Cổ phần ưu đãi: LDN cũng không đưa ra khái niệm chung cho “CPƯĐ” mà mỗi CPƯĐ
đều có khái niệm riêng và đem lại cho người nắm giữ những quyền đặc biệt. Thực chất,
CPƯĐ có nguồn gốc từ CPPT, chẳng qua từ cái gốc chính đó, người ta giảm đi các yếu tố
quyền căn bản để tạo ra những CPƯĐ khác nhau. Trong đó:
2
Nhóm 2 5 Bài tiểu luận Luật kinh tế
+ Cổ phần ưu đãi biểu quyết: Theo khoản 1 Điều 81 LDN, là “cổ phần có số phiếu biểu
quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông. Số phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi
biểu quyết do Điều lệ công ty quy định”. Như vậy, so với các CĐPT, CĐƯĐ biểu quyết sẽ
có tiếng nói nhiều hơn trong các cuộc họp ĐHĐCĐ. LDN không hạn chế tối đa số phiếu
biểu quyết của CPUĐ biểu quyết và cũng không hạn chế tỷ lệ CPUĐ biểu quyết nói riêng
mà chỉ hạn chế về chủ thể có quyền nắm giữ loại cổ phần này nhằm hạn chế cổ đông đưa ra
các quyết định bất lợi cho CTCP. Theo đó, “chỉ có tổ chức được Chính phủ uỷ quyền và
CĐSL được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết”.
+ Cổ phần ưu đãi cổ tức: Theo khoản 1 Điều 82 LDN, là “cổ phần được trả cổ tức với
mức cao hơn so với mức cổ tức của CPPT hoặc mức ổn định hằng năm”. Loại cổ phần này
thực ra đã tồn tại ở các nước phát triển từ rất lâu. Đây là loại cổ phần phù hợp với các cổ
đông thiểu số và những cổ đông không có nhu cầu quản trị công ty. Đối với các cổ đông
thiểu số thường chọn loại cổ phần này để có được lợi ích cao hơn trong việc nhận cổ tức vì
họ biết rằng với ngần ấy cổ phần ít ỏi quyền biểu quyết, quyền quản trị công ty (nếu có)
cũng trở nên vô nghĩa. Còn đối với các cổ đông không có nhu cầu quản trị, dù họ sở hữu
một lượng lớn cổ phần đã phát hành, lựa chọn loại cổ phần này chủ yếu để nhận cổ tức.
Các chủ thể này sẵn sàng hy sinh quyền bầu cử, ứng cử để lựa chọn CPUĐ cổ tức vì mức
cổ tức hấp dẫn của nó.
+ Cổ phần ưu đãi hoàn lại: theo khoản 1 Điều 83 LDN, là “cổ phần được công ty hoàn
lại vốn góp bất cứ khi nào theo yêu cầu của người sở hữu hoặc theo các điều kiện được ghi
tại cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại”. CPUĐ loại này cũng là một trong những công cụ
huy động vốn hữu hiệu của CTCP, đặc biệt là khi công ty cần gấp một khoản vốn lớn để

giải quyết những công việc cụ thể. Có thể nói, đây cũng là một khoản vay của CTCP trong
quá trình hoạt động của mình, chỉ khác là công ty không phải trả lãi cho người nắm giữ nó
và quyền ưu tiên nhận tài sản còn lại của CTCP phải xếp sau người nắm giữ trái phiếu sau
khi công ty giải thể hoặc phá sản (nếu có).
 Ngoài ba loại CPƯĐ mà LDN dự liệu như đã phân tích thì CTCP còn có thể có một số
loại CPUĐ khác tùy thuộc vào Điều lệ quy định. Thậm chí, CTCP có thể chỉ phát hành các
loại CPƯĐ khác do Điều lệ công ty quy định mà không nhất thiết phải bao gồm ba loại cổ
phần nêu trên. Tham khảo pháp luật của Singapore, Thai Lan, Malaisia, Philippin các
CPƯĐ khác bao gồm:
+ Cổ phần ưu đãi dự phần được chia cổ tức: Sau khi đã nhận được cổ tức ưu đãi, các
CĐUĐ dự phần được chia thêm cổ tức mà các CĐPT được hưởng trong phạm vi quy định
trong bản điều lệ công ty.
+ Cổ phần ưu đãi dự phần khi thanh lý: Sau khi đã nhận được tài sản thanh lý theo phần
ưu đãi khi công ty giải thể, các CĐUĐ dự phần được nhận thêm tài sản phân chia cho các
CĐPT trong phạm vi được quy định trong bản điều lệ.
Cổ phần ưu đãi không dự phần. Được ưu đãi về cổ tức nhưng không được dự phần vào việc
chia thêm tài sản thanh lý hay cổ tức thường.
+ Cổ phần ưu đãi phức hợp: Các cổ phần ưu đãi có thể được phát hành có kèm theo các
quyền như “các cổ phần ưu đãi không dự phần, không bầu cử”, “các cổ phần ưu đãi có thể
mua lại được hoặc có thể chuyển đổi”, hoặc “các cổ phần ưu đãi có thể mua lại được và có
thể chuyển đổi không dồn lãi dự phần” hoặc “ các cổ phần ưu đãi không dồn lãi dự phần”
 Cổ phiếu:
- Khái niệm:
Như đã đề cập trên thì cổ phần là phần chia nhỏ nhất và bằng nhau của vốn điều lệ, là từ
tượng trưng cho quyền sở hữu của cổ đông và được cụ thể hóa bằng một cổ phiếu, chỉ có
CTCP mới phát hành cổ phiếu. Như vậy, cổ phiếu chính là một chứng thư chứng minh
Nhóm 2 6 Bài tiểu luận Luật kinh tế
quyền sở hữu của một cổ đông đối với một CTCP và cổ đông là người có cổ phần thể hiện
bằng cổ phiếu.
Định nghĩa về cổ phiếu được tìm thấy trong luật pháp của hầu hết các quốc gia, chẳng

hạn luật pháp về chứng khoán của Liên Xô có định nghĩa: “cổ phiếu là một loại chứng
khoán do các pháp nhân phát hành trên cơ sở sở hữu tập thể hay sở hữu hoàn toàn quốc
doanh, không ấn định thời hạn lưu hành, nhưng xác nhận việc bỏ vốn phát triển xí nghiệp
(xác nhận thành viên của xí nghiệp cổ phần và những người tham gia quản lý xí nghiệp) và
cho phép người sở hữu chứng khoán có quyền hưởng một phần lợi nhuận xí nghiệp dưới
dạng lợi tức cổ phần”
LDN 2005định nghĩa cổ phiếu: Là “chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút
toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Cổ phiếu có
thể ghi tên hoặc không ghi tên”. Như vậy, cổ phiếu trên thực tế là giấy chứng nhận quyền
sở hữu cổ phần của cổ đông, trong trường hợp cổ phiếu tồn tại dưới dạng bút toán ghi sổ thì
bút toán ghi sổ đó là cơ sở để xác định phần quyền sở hữu của cổ đông.
- Các loại cổ phiếu:
Thông thường các CTCP đều phân cổ phiếu thành “cổ phiếu thường” và “cổ phiếu ưu đãi”.
Cách phân chia này tồn tại từ trước đến nay và hầu như thống nhất như nhau ở các nước
phát triển:
+ Cổ phiếu thường: ghi nhận cổ đông nắm giữ có quyền hạn và trách nhiệm cơ bản như:
được chia cổ tức theo kết quả kinh doanh, được quyền bầu cử, ứng cử vào bộ máy quản trị
và kiểm soát công ty, chịu trách nhiệm về sự thua lỗ hoặc phá sản tương ứng với phần vốn
góp của mình.
+ Cổ phiếu ưu đãi: bao gồm CPƯĐ biểu quyết, CPƯĐ cổ tức, CPƯĐ hoàn lại ghi nhận
CĐUĐ sẽ được ưu đãi hơn CĐPT trong một số quyền như nhận cổ tức với mức ưu đãi, tỷ
lệ biểu quyết cao hơn, được hoàn lại cổ phần nhưng đồng thời cũng bị hạn chế một số
quyền như: không được tự do chuyển nhượng cổ phần, không có quyền bầu cử, ứng cử…
 Trái phiếu:
- Trái phiếu là chứng khoán có thể chuyển nhượng được trong đó ghi nhận một khoản vay
dài hạn của CTCP. Người sở hữu trái phiếu có mệnh giá giống nhau thì có trái quyền giống
nhau.
- Bằng việc phát hành trái phiếu CTCP có thể có được những số tiền lớn mà không gặp các
khó khăn vì người sở hữu trái phiếu chỉ là một chủ nợ, cổ đông của CTCP sẽ không tăng
thêm và không đảo lộn thành viên trong các phiên họp ĐHĐCĐ. Lãi suất trả cho các khoản

vay có thể thấp hơn lãi suất ngân hàng và công ty cũng dễ dàng duy trì sự tồn tại của mình
trước nhiều chủ nợ thay vì một chủ nợ duy nhất là Ngân hàng. Mặt khác, khoản tiền lãi này
được trừ vào lợi tức chịu thuế, một đặc điểm thuận lợi cho CTCP.
- Tuy nhiên, CTCP chỉ được phát hành trái phiếu nếu thỏa mãn các điều kiện quy định tại
Điều 88 LDN. Theo đó, trừ khi pháp luật chứng khoán có quy định khác, CTCP không
được quyền phát hành trái phiếu trong các trường hợp:
+ Không thanh toán đủ cả gốc và lãi của trái phiếu đã phát hành, không thanh toán hoặc
thanh toán không đủ các khoản nợ đến hạn trong ba năm liên tiếp trước đó.
+ Tỷ suất lợi nhuận sau thuế bình quân của ba năm liên tiếp trước đó không cao hơn
mức lãi suất dự kiến trả cho trái phiếu định phát hành.
 Như vậy, cổ phiếu và trái phiếu đều là công cụ huy động vốn của CTCP chỉ khác nhau
ở chỗ trái phiếu là công cụ huy động vốn vay còn cổ phiếu để huy động hoặc tăng vốn điều
lệ. Người nắm giữ trái phiếu là chủ nợ của CTCP, còn người mua cổ phiếu sẽ là chủ sở hữu
trong CTCP. Cách gọi tên khác nhau này đồng nghĩa với việc người nắm giữ hai loại chứng
khoán có những quyền và nghĩa vụ khác nhau nhưng nhìn chung nó đều có ý nghĩa quan
trọng trong sự phát triển của CTCP.
Nhóm 2 7 Bài tiểu luận Luật kinh tế
III/ CỔ ĐÔNG TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN:
1/ Khái niệm, đặc điểm cổ đông trong CTCP:
 Khái niệm cổ đông:
Một trong những đặc trưng của CTCP là tính đa dạng hóa chủ sở hữu và khả năng tự do
chuyển nhượng cổ phần nên CTCP là một công cụ thu hút vốn từ đại chúng rất hữu hiệu.
Người mua cổ phần sẽ được gọi là cổ đông. LDN quy định một cách rõ ràng rằng cá nhân
hay tổ chức góp vốn vào công ty TNHH, công ty hợp danh được gọi là “thành viên”, riêng
cá nhân hay tổ chức mua cổ phần của CTCP được gọi là “cổ đông”. Về bản chất họ đều là
thành viên của doanh nghiệp và tên gọi như thế nào chỉ là căn cứ để phân biệt họ là thành
viên của loại hình doanh nghiệp nào.
Theo định nghĩa tại khoản 11 Điều 4 LDN 2005 thì “cổ đông là người sở hữu ít nhất một
cổ phần đã phát hành của CTCP”nhưng không phải mọi chủ sở hữu cổ phiếu đều được coi
là cổ đông. Chủ sở hữu cổ phiếu, người nắm giữ cổ phiếu chỉ trở thành cổ đông của công ty

khi đã ghi đúng, ghi đủ những thông tin luật định vào sổ đăng kí cổ đông. Đối với trường
hợp cổ phiếu không ghi tên thì các thông tin về người mua trong sổ đăng ký cổ đông tại
khoản 2 Điều 86 LDN đủ để chứng thực quyền sở hữu cổ phần của cổ đông đó trong công
ty.
 Tóm lại, cổ đông có thể là cá nhân hay tổ chức sở hữu một hoặc nhiều cổ phần trong
CTCP, có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với cổ phần đang sở hữu, được chứng nhận
bằng cổ phiếu của CTCP và phải đảm bảo đủ các thông tin được quy định trong sổ đăng kí
cổ đông.
 Đặc điểm cổ đông trong CTCP:
 Về số lượng:
Các CTCP trên thế giới đều không giới hạn số cổ đông tối đa phải là bao nhiêu mà chỉ
quy định số cổ đông tối thiểu cần phải có để tạo lập một CTCP. Con số tối thiểu đó có thể
là một (01) như ở Ba Lan
3
hoặc cũng có thể là bảy (07) như ở Anh và Pháp
4
. So sánh với
pháp luật các nước trên, LDN quy định số lượng cổ đông tối thiểu là ba (03) không hạn chế
số lượng tối đa có vẻ hợp lý hơn so với Ba Lan, phù hợp để tạo nên nguồn vốn ban đầu cho
việc thành lập CTCP và có vẻ cởi mở hơn Anh, Mỹ nhằm tránh được việc thành lập CTCP
với sự tham gia tượng trưng của một số người khác cho đủ điều kiện luật định nhưng thực
chất đó chính là những thành viên “ma” và một ĐHĐCĐ giả tạo.
 Về chủ thể có quyền trở thành cổ đông CTCP:
Công ty cổ phần là công cụ hữu hiệu thực hiện xã hội hóa đầu tư, mọi cá nhân, tổ chức,
không trừ một ai đều có được cơ hội như nhau để thực hiện ý tưởng đầu tư với thủ tục hết
sức đơn giản là mua cổ phần của công ty cổ phần, khi đó họ là cổ đông và có khả năng thể
hiện ý chí của mình thông qua ĐHĐCĐ. Tuy nhiên, để trở thành cổ đông họ phải thỏa mãn
các điều kiện được quy định tại Điều 13 LDN.
+ Thứ nhất, đối tượng được quyền góp vốn thành lập và quản lý CTCP. LDN dùng
phương pháp loại trừ để xác định những đối tượng này. Theo đó, những cá nhân hay tổ

chức không thuộc một trong bảy (07) trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 13 thì
được phép góp vốn thành lập và quản lý CTCP.
+ Thứ hai, đối tượng được quyền góp vốn vào CTCP. So với những đối tượng được
quyền thành lập và quản lý CTCP thì với khoản 3 Điều 13 LDN đối tượng được quyền mua
cổ phần và trở thành cổ đông trong CTCP có phạm vi rộng hơn. Những đối tượng này bao
gồm cả những người bị pháp luật cấm không được thành lập và quản lý doanh nghiệp như
sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan,
đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ
3
4
Nhóm 2 8 Bài tiểu luận Luật kinh tế
quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam; cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong
các doanh nghiệp 100% vốn sở hữu nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện theo
uỷ quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác…
Vai trò cổ đông trong CTCP:
Cổ đông là những hạt giống của công ty, là thành viên quan trọng nhất của thị trường vì
họ là người sẵn sàng bỏ tiền đầu tư giúp công ty thực hiện các dự án, kế hoạch kinh doanh
và chia sẻ rủi ro cũng như cùng phát triển, là người tham gia vào việc ra các quyết định
quan trọng, định hướng cho sự phát triển lâu dài của công ty.
Cổ đông còn đóng vai trò vô cùng quan trọng giúp công ty quảng bá hình ảnh công ty ra
đại chúng, đóng góp vào sự phát triển bền vững, quyết định yếu tố thành bại của công ty.
Không những thế, năng lực tài chính, quyền lợi, kiến thức và cả đạo đức của cổ đông quyết
định chất lượng phát triển thị trường chứng khoán của một quốc gia.
2/ Các loại cổ đông trong CTCP:
Công ty cổ phần, về bản chất là công ty đối vốn, là nơi số lượng cổ đông có khi lên đến
hàng ngàn người. Việc phân loại cổ đông có thể căn cứ vào nhiều tiêu chí khác nhau. Bao
gồm:
+ Căn cứ vào thời gian, trình tự tham gia thành lập: có thể chia thành CĐSL và cổ đông
thường. CĐSL là người góp vốn cổ phần, tham gia xây dựng, thông qua và ký tên vào bản
Điều lệ đầu tiên của công ty cổ phần. Trừ CĐSL những cổ đông còn lại sẽ là cổ đông

thường, hình thành bằng cách tham gia góp vốn, mua cổ phần và trở thành cổ đông của
CTCP.
+ Căn cứ vào loại cổ phần: có thể chia cổ đông thành CĐPT và CĐUĐ. CĐPT là những
cổ đông sở hữu CPPT và có những quyền và nghĩa vụ căn bản nhất. CĐUĐ là những cổ
đông sở hữu CPUĐ, được nhận một số quyền ưu tiên hơn nhưng đồng thời cũng phải từ bỏ
một số quyền nhất định.
+ Căn cứ vào chủ thể: có thể chia cổ đông thành cổ đông là tổ chức và cổ đông là cá nhân
hoặc cổ đông là NĐT trong nước và cổ đông là NĐT nước ngoài. Theo khoản 5 Điều 3
LĐT thì NĐT nước ngoài là tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động
đầu tư tại Việt Nam. Hiện nay, trong một số ngành nghề, quyền góp vốn mua cổ phần của
NĐT nước ngoài còn bị khống chế ở một tỷ lệ nhất định. Tuy nhiên, theo lộ trình cam kết
với WTO, những lĩnh vực hạn chế nói trên trong tương lai sẽ mở dần và không hạn chế tỷ
lệ góp vốn đối với nhà đầu tư nước ngoài, NĐT nước ngoài được đối xử bình đẳng, quyền
của họ ngày càng được mở rộng hơn.
+ Căn cứ về nguồn gốc hình thành: bao gồm cổ đông là người lao động trong công ty, cổ
đông là trái chủ, cổ đông mua lại phần vốn góp trên thị trường chứng khoán hay cổ đông
hình thành thông qua việc thỏa thuận giữa các bên. Đối với cổ đông là người lao động
trong công ty, CTCP bằng cách cho họ quyền ưu tiên mua cổ phiếu đã biến họ thành cổ
đông của doanh nghiệp, điều này giúp gắn liền quyền lợi của họ với sự phát triển của công
ty và ngăn ngừa những xung đột về quyền lợi có thể phát sinh. Đối với cổ đông là trái chủ,
trái phiếu chuyển đổi của trái chủ đến một lúc nào đó, theo một tỉ lệ công bố trước và vào
một khoảng thời gian xác định trước, sẽ được chuyển đổi thành cổ phiếu và người nắm giữ
trái phiếu sẽ trở thành cổ đông của CTCP. Đối với cổ đông mua lại phần vốn góp trên thị
trường chứng khoán hay cổ đông hình thành thông qua việc thỏa thuận giữa các bên phải
thực hiện theo các quy định của LDN và LCK, phải ghi nhận các thông tin vào sổ đăng kí
cổ đông và các trình tự thủ tục khác do luật định.
+ Căn cứ vào mục đích, tiêu chí gắn kết chặt chẽ với công ty bao gồm cổ đông chiến lược
và cổ đông là NĐT tài chính, cổ đông đầu tư dự án. Cổ đông chiến lược có thể là các nhà
đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài có năng lực tài chính, quản trị doanh nghiệp;
chuyển giao công nghệ mới, cung ứng nguyên vật liệu, phát triển thị trường tiêu thụ sản

phẩm; gắn bó lợi ích lâu dài với doanh nghiệp và sẵn sàng hỗ trợ cho công ty phát triển. Cổ
đông chiến lược không được chuyển nhượng số cổ phần được mua trong thời hạn tối thiểu
Nhóm 2 9 Bài tiểu luận Luật kinh tế
03 năm, kể từ ngày công ty cổ phần được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Trường hợp đặc biệt cần chuyển nhượng số cổ phần này trước thời hạn trên thì phải được
ĐHĐCĐ chấp thuận
5
. Cổ đông là NĐT tài chính thì chỉ quan tâm đến lợi nhuận, họ thường
mua đi và bán lại để thu lời từ cổ phần mà họ sở hữu. Còn đối với các cổ đông đầu tư dự
án, họ trở thành cổ đông của CTCP bằng cách góp vốn vào dự án mà công ty đang thực
hiện, các cổ đông này thường hướng đến dự án của công ty chứ không phải là CTCP.
IV/ CẤU TRÚC VỐN TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN:
CTCP là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý, những
vấn đề quản lý nội bộ, quyền và nghĩa vụ của các cổ đông được giải quyết chủ yếu dựa trên
nguyên tắc đối vốn (nghĩa là dựa trên giá trị cổ phần mà các cổ đông nắm giữ). Mặt khác
với cấu trúc vốn linh hoạt, khả năng chuyển cổ phần dễ dàng trên thị trường làm cho công
ty cổ phần có phạm vi, quy mô kinh doanh lớn, số lượng cổ đông đông đảo. Khi tham gia
vào CTCP các cổ đông không quan tâm đến nhân thân của nhau mà chỉ quan tâm đến phần
vốn góp. Cổ phần của công ty gồm: cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi. Sự đa dạng hóa
các loại cổ phần với các quyền và mức độ khác nhau cho phép công ty cổ phần tạo lập
được cấu trúc vốn linh hoạt phù hợp với khả năng, yêu cầu phát triển cũng như yêu cầu
quản lý công ty.
Với tính chất đa sở hữu, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý, cơ chế quản lý trong CTCP dựa
trên sức mạnh kinh tế của các nhóm sở hữu trong công ty. Trong cơ cấu tổ chức bộ máy
quản lý trong công ty có sự phân chia quyền lực rõ ràng giữa các bộ phận. Sự phân chia
quyền lực này trước hết phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp của các cổ đông, nhằm đảm bảo một
cơ cấu tổ chức quản lý chặt chẽ, bảo vệ đến mức tối đa quyền lợi của các cổ đông. Về cơ
bản, bộ máy quản lý của doanh nghiệp đối vốn có sự phân chia quyền lực và cơ cấu hoàn
chỉnh, rõ ràng hơn so với doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh. CTCP là một trong
những loại hình doanh nghiệp có cơ cấu tổ chức chặt chẽ nhất và hoàn thiện nhất, có sự

phân chia quyền lực rõ ràng nhất đồng thời cơ cấu tổ chức này chịu sự chi phối quyết định
của cấu trúc vốn.
V/ CƠ CẤU TỔ CHỨC CÔNG TY CỔ PHẦN:
CTCP là một hình thức công ty hoàn thiện cả về mặt vốn và tổ chức. CTCP có kết cấu
chặt chẽ nhằm bảo vệ cao nhất quyền lợi các cổ đông, tạo các điều kiện tốt nhất cho việc
quản lý công ty dân chủ, có hiệu quả. Các thiết chế trong công ty cổ phần bao gồm: đại hội
đồng cổ đông, hội đồng quản trị, ban kiểm soát, giám đốc và các chức danh quản lý khác.
1/ Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ):
- ĐHĐCĐ gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao nhất của
CTCP. CTCP có nhiều loại cổ đông khác nhau, trong đó có cổ đông có quyền bầu cử và cổ
đông không có quyền bầu cử. Quyền bầu cử của cổ đông phụ thuộc vào số lượng cổ phần
và loại cổ phần họ sở hữu. CTCP có thể tự mình quy định trong điều lệ một tỷ lệ cổ phần
nhất định có một lá phiếu biểu quyết như 50 cổ phần được một lá phiếu hoặc 100 cổ phần
có một phiếu…Bên cạnh đó các cổ phần ưu đãi như ưu đãi cổ tức, ưu đãi hoàn lại và các cổ
phần ưu đãi khác mà cổ đông tự nguyện từ bỏ quyền bầu cử để đổi lấy tỷ lệ lợi tức cao hơn
thì cũng không có quyền bầu cử.
- Là sự tập trung cao nhất ý chí, nguyện vọng của cáccổ đông công ty-các chủ sở hữu
công ty, ĐHĐCĐ có quyền quyết định các vấn đề quan trọng nhất của công ty, các vấn đề
mang tính cơ bản, lâu dài, định hướng. Điều 70 quy định các quyền của ĐHĐCĐ bao gồm:
+ Quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại, quyết
định mức cổ tức hàng năm của từng loại cổ phần.
+ Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên hội đồng quản trị và đã kiểm soát gây thiệt hại
cho công ty và cổ đông công ty.
5
Nhóm 2 10 Bài tiểu luận Luật kinh tế
- Quyết định tổ chức lại và giải thể công ty.
+ Sửa đổi, bổ sung điều lệ công ty, trừ trường hợp điều chỉnh vốn điều lệ do bán thêm cổ
phần mới trong phạm vi số cổ phần đuợc quyền chào bán quy định tại điều lệ công ty.
+ Thông qua báo cáo tài chính hàng năm.
+ Thông qua định hướng phát triển của công ty quyết định bán số tài sản có giá trị bằng

hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong sổ kế toán của công ty.
+ Quyết định mua lại hơn 10% tổng số cổ phần đã bán.
+ Các quyền và nhiệm vụ khác quy định trong luật và điều lệ công ty.
2/ Hội đồng quản trị (HĐQT):
- HĐQT là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi
vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền
của ĐHĐCĐ.
- HĐQT không quá 11 thành viên, số lượng cụ thể ghi trong điều lệ công ty.
HĐQT có các quyền và nhiệm vụ sau:
+ Quyết định chiến lược phát triển công ty
+ Kiến nghị loại cổ phần và tỏng số cổ phần mới trong phạm vi số cổ phần có quyền chào
bán, huy động vốn theo hình thức khác
+ Quyết định phương án đầu tư;
+ Giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và công nghệ, thông qua hợp đồng mua bán, vay
và cho vay và hợp đồng khác có giá trị từ 50% tổng giá trị tài sản ghi trong sổ kế toán hoặc
một tỷ lệ nhỏ hơn trong điều lệ công ty;
+ Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cắt chức giám đốc và cán bộ quản lý quan trọng khác của công
ty, quyết định mức lương và lợi ích khác của các cán bộ quản lý đó;
+ Quyết định cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ công ty, quyết định thành lập công ty
con, lập chi nhánh, văn phòng đại diện và việc góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp
khác;
+ Trình báo cáo quyết toán tài chính hàng năm lên đại hội đồng cổ đông;
+ Kiến nghị mức cổ tức được trả, quyết định thời hạn và thủ tục trả cổ tức hoặc xử lý lỗ
phát sinh trong quá trình kinh doanh;
+ Quyết định giá chào bán cổ phần và trái phiếu của công ty, định giá tài sản góp vốn;
+ Duyệt chương trình, nội dung tài liệu phục vụ họp, triệu tập hoặc thực hiện thủ tục hỏi ý
kiến để thông qua quyết định;
+ Quyết định mua lại dưới 10% số cổ phần đã bán;
+ Kiến nghị việc tổ chức lại và giải thể công ty;
+ Các quyền và nhiệm vụ khác ghi trong luật và điều lệ công ty.

- Thành viên HĐQT có quyền yêu cầu các chức danh quản lý trong công ty cung cấp
thông tin, tài liệu về tình hình tài chính hoạt động kinh doanh của công ty và các đơn vị
trong công ty.
- HĐQT không làm việc theo nhiệm kỳ mà theo sự tín nhiệm của ĐHĐCĐ, chế độ làm
việc này tạo ra tính liên tục và quan trọng là tạo ra sự chuyên nghiệp của nhân viên quản lý
công ty nói chung, cũng như thành viên HĐQT nói riêng.
- HĐQT bầu một thành viên trong hội đồng làm Chủ tịch HĐQT. HĐQT bổ nhiệm một
người trong số họ hoặc người khác làm Giám đốc. Trường hợp điều lệ công ty không quy
định Chủ tịch HĐQT là đại diện theo pháp luật thì Giám đốc công ty là đại diện theo pháp
luật của công ty.
- Chủ tịch HĐQT: Chủ tịch HĐQT có thể đồng thời là Giám đốc công ty trừ trường hợp
điều lệ công ty quy định khác.
Chủ tịch HĐQT có những quyền và nhiệm vụ sau:
+ Lập chương trình, kế hoạch hoạt động của HĐQT;
+ Chuẩn bị chương trình, nội dung, các tài liệu cần thiết cho cuộc họp, chủ tọa phiên họp;
+ Tổ chức việc thông qua quyết định của HĐQT dưới hình thức khác;
Nhóm 2 11 Bài tiểu luận Luật kinh tế
+ Theo dõi quá trình tổ chức thực hiện các quyết định của HĐQT;
+ Chủ tọa họp ĐHĐCĐ;
+ Các quyền và nhiệm vụ khác quy định trong luật và điều lệ công ty.
- Khi chủ tịch HĐQT vắng mặt có thể ủy quyền cho thành viên khác của HĐQT hoặc
HĐQT lựa chọn một người trong Hội đồng tạm thời làm nhiệm vụ của Chủ tịch.
- Giám đốc công ty: Giám đốc công ty là người điều hành hoạt động hàng ngày của công
ty và chịu trách nhiệm trước HĐQT về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao.
Giám đốc có các quyền và nhiệm vụ tương tự các quyền và nhiệm vụ tương tự các quyền
và nhiệm vụ của Giám đốc công ty TNHH, các quyền này tập trung vào việc thực hiện các
nhiệm vụ tác nghiệp, triển khai các phương án, quyết định được thông qua HĐQT và
HĐCĐ. Giám đốc có thể làm đại diện theo pháp luật của công ty nêu trong điều lệ công ty
không quy định Chủ tịch HĐQT là đại diện theo pháp luật. Giám đốc CTCP không chịu
trách nhiệm trước ĐHĐCĐ mà trước HĐQT, cơ quan quản lý trực tiếp của công ty. Việc

chịu trách nhiệm trực tiếp của HĐQT tạo ra sự liên hệ chặt chẽ giữa cơ quan quyền lực cao
nhất của công ty và cơ quan điều hành công ty, không đặt giám đốc ở trong tình trạng luôn
phải trả lời chất vấn của bất kỳ cổ đông nào. Ngoài các nhiệm vụ được quy định trong luật
và điều lệ công ty, giám đốc công ty còn có thể có các quyền và nhiệm vụ khác theo quyết
định của HĐQT. Điều này nêu bật sự liên quan và phục tùng trực tiếp của giám đốc với
HĐQT.
Ban kiểm soát:
- CTCP có từ 11 thành viên trở lên phải có ban kiểm soát. Ban kiểm soát có số lượng từ 3
đến 5 người, trong đó có ít nhất một người có chuyên môn là kế toán. Trưởng ban kiểm
soát phải là cổ đông công ty, thành viên ban kiểm soát có thể không là cổ đông của công ty.
Ban kiểm soát có các quyền và nhiệm vụ sau:
+ Kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong
ghi chép sổ kế toán và báo cáo tài chính;
+ Thẩm định báo cáo tài chính hàng năm của công ty, các vấn đề liên quan đến quản lý
điều hành hoạt động khi thấy cần thiết, theo đề nghị của ĐHĐCĐ, cổ đông, nhóm cổ đông
sở hữu 10% số cổ phần phổ thông trong ít nhất 6 tháng liền;
+ Báo cáo ĐHĐCĐ về tính chính xác, trung thực, hợp pháp của việc ghi chép, lưu giữ
chứng từ và lập sổ kế toán, báo cáo tài chính;
+ Kiến nghị biện pháp bổ sung, sửa đổi, cải tiến cơ cấu tổ chức quản lý, điều hành công
ty;
+ Các quyền và nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty.
- Các cơ quan và bộ phận trong công ty có trách nhiệm cung cấp kịp thời, đầy đủ thông
tin, tài liệu về hoạt động của công ty theo yêu cầu của ban kiểm soát, trừ trường hợp
ĐHĐCĐ có quyết định khác như giám đốc không được tiết lộ bí mật của công ty khi chưa
được phép ĐHĐCĐ. Ban kiểm soát và các thành viên không được phép tiết lộ thông tin
mật của công ty.
Cơ cấu thành viên của CTCP:
CTCP là công ty duy nhất có khả năng huy động vốn bằng cách phát hành cổ phần và cổ
phần phổ thông được chuyển nhượng một cách tự do trên thị trường (ngoài một số trường
hợp luật hạn chế việc chuyển nhượng cổ phần của các cổ đông). Bất cứ tổ chức cá nhân nào

mua cổ phần của công ty đều trở thành cổ đông của công ty. Những yếu tố này một mặt là
thuận lợi cho việc huy động vốn cho công ty nhưng mặt khác chính là hạn chế trong việc
cơ cấu quản lý công ty. Vì các thành viên có thể tự do chuyển nhượng cổ phần của mình
nên các cổ đông rất dễ gia nhập hoặc rút khỏi công ty. Trong khi đó, bộ máy quản lý công
ty phải hết sức ổn định thì mới quản lý và điều hành được tốt công việc sản xuất kinh
doanh của công ty.
Với cơ chế quản lý hết sức mềm dẻo và năng động như trên, CTCP là sự biểu hiện của sự
dân chủ trong hoạt động quản lý kinh tế. Nếu như doanh nghiệp tư nhân là một biểu hiện
Nhóm 2 12 Bài tiểu luận Luật kinh tế
của sự quản lý độc đoán, thì công ty cổ phần lại là biểu hiện của sự dân chủ. Quyền lực ở
đây không nằm trong tay một cá nhân mà thuộc về ĐHĐCĐ, thuộc về tập thể các thành
viên trong HĐQT. HĐQT thực hiện quyền lực của công ty theo những quy chế nhất định.
Số lượng cổ đông của CTCP thường rất lớn nên điều hành CTCP phức tạp hơn nhiều so
với các loại hình công ty khác như: Công ty TNHH, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư
nhân. Tính đa sở hữu cùng với một số lượng lớn các cổ đông là một trong những tiền đề
của sự tách bạch giữa sở hữu và quản trị điều hành công ty. CTCP là sự biểu hiện rõ nét
nhất của mô hình quản 3 cấp: ĐHĐCĐ, HĐQT và Ban điều hành công ty. Mỗi cấp quản lý
có nhiệm vụ và chức năng riêng biệt hoàn thiện bộ máy quản trị công ty.
VI/ MỘT SỐ VẤN ĐỀ BẤT CẬP TRONG LUẬT ÁP DỤNG VỚI LOẠI HÌNH CÔNG
TY CỔ PHẦN:
Liên quan đến thẩm quyền của Hội đồng quản trị:
Theo khoản 2 Điều 120 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định về Hợp đồng, giao dịch phải
được Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị chấp thuận như sau:
“Hội đồng quản trị chấp thuận các hợp đồng và giao dịch có giá trị nhỏ hơn 50% tổng giá
trị tài sản doanh nghiệp ghi trong báo cáo tài chính gần nhất hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn
quy định tại Điều lệ công ty. Trong trường hợp này, người đại diện theo pháp luật phải gửi
đến các thành viên Hội đồng quản trị; niêm yết tại trụ sở chính, chi nhánh của công ty dự
thảo hợp đồng hoặc thông báo nội dung chủ yếu của giao dịch. Hội đồng quản trị quyết
định việc chấp thuận hợp đồng hoặc giao dịch trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày
niêm yết; thành viên có lợi ích liên quan không có quyền biểu quyết.

Tuy nhiên theo điểm g Khoản 2 Điều 108 Luật Doanh nghiệp 2005 Hội đồng quản trị có
quyền: “Quyết định giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và công nghệ; thông qua hợp
đồng mua, bán, vay, cho vay và hợp đồng khác có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá
trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ khác nhỏ
hơn quy định tại Điều lệ công ty, trừ hợp đồng và giao dịch quy định tại Khoản 1 và Khoản
3 Điều 120 của Luật này.”
 Như vậy, ở đây theo ý kiến của nhóm có điểm chưa rõ ràng khi xác định cách hiểu về
thẩm quyền của Hội đồng quản trị đối với: hợp đồng khác có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50%
tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty (điểm g, khoản 2
Điều 108 Luật Doanh nghiệp); và hợp đồng và giao dịch có giá trị nhỏ hơn 50% tổng giá
trị tài sản doanh nghiệp ghi trong báo cáo tài chính gần nhất (khoản 2 Điều 120 Luật Doanh
nghiệp)  mâu thuẫn.
Về tiêu chuẩn chức danh giám đốc (tổng giám đốc) trong doanh nghiệp:
Theo quy định tại Tiều 13 của Nghị định 139/CP, muốn trở thành giám đốc (tổng giám
đốc) của công ty cổ phần thì cổ đông phải là cá nhân sở hữu ít nhất 5% số cổ phần phổ
thông, hoặc người khác thì phải có trình độ chuyên môn hoặc kinh nghiệm thực tế trong
quản trị kinh doanh hoặc trong ngành nghề kinh doanh chính của công ty. Hơn nữa, Nghị
định 139/CP lại cho phép trường hợp Điều lệ công ty quy định tiêu chuẩn và điều kiện khác
với tiêu chuẩn và điều kiện trên thì áp dụng tiêu chuẩn và điều kiện do Điều lệ công ty quy
định. Theo nhóm, quy định này cần phải được xem lại lại ở các vấn đề sau:
+ Thứ nhất, việc quy định chức danh giám đốc (tổng giám đốc) trong mô hình công ty cổ
phần là cá nhân sở hữu ít nhất 5% số cổ phần phổ thông là mâu thuẫn với quy định tại Điều
57 Luật Doanh nghiệp, quy định giám đốc (tổng giám đốc) của công ty cổ phần phải sở
hữu từ 10% vốn điều lệ của công ty trở lên.
+ Thứ hai, nếu không đủ điều kiện vốn tối thiểu để làm giám đốc (tổng giám đốc) thì
Nghị định 139/CP - cũng như Luật Doanh nghiệp (2005) - quy định người đó phải có trình
Nhóm 2 13 Bài tiểu luận Luật kinh tế
độ chuyên môn hoặc kinh nghiệm thực tế trong quản trị kinh doanh hoặc trong ngành nghề
kinh doanh chính của công ty.Quy định này thiếu rõ ràng.
 Quyền biểu quyết.

Cần quy định thời hạn nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết của tổ chức
được Chính phủ ủy quyền. Thông thường các công ty mà Nhà nước nắm
giữ quyền biểu quyết cao thì công ty đó phải làm ăn rất phát đạt, đem lại
nhiều lợi nhuận mới có khả năng thu hút được nhà đầu tư mua cổ phần.
Nhưng đó chẳng qua cũng là một dạng khác của công ty Nhà nước, nhu
cầu kêu gọi vốn hợp tác kinh doanh khó thành công vì sẽ có cổ đông nào
muốn đầu tư vào một công ty mà Chính phủ muốn nắm ưu thế - không
công bằng lắm. Việc Nhà nước nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết vô
thời hạn như thế là không hợp lý, mặc dù đó là những ngành nghề những
lĩnh vực nhạy cảm mà Nhà nước cần quản lý, kiểm soát nhưng nếu như
đã chấp nhận cổ phần hóa, mở cửa và dần dần xóa bỏ hạn chế vốn góp
đối với NĐT nước ngoài thì việc Nhà nước nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu
quyết vô thời hạn lại tạo ra sự bất bình đẳng giữa các cổ đông. Trong
trường hợp Nhà nước cần định hướng phát triển ở một công ty thì với cổ
phần chi phối hay cổ phần đặc biệt, quyền lực Nhà nước đã là rất lớn,
Nhà nước vẫn chiếm ưu thế trong việc ra các quyết định quan trọng của
công ty.
KẾT LUẬN:
Luật Doanh nghiệp thống nhất ra đời là một thành tựu của quá trình không ngừng tư duy và
đổi mới của nền Khoa học pháp lý nước nhà. Qua gần 6 năm đi vào thực tiễn, Luật Doanh
nghiệp đã mang lại nhiều thành công cho nền kinh tế quốc gia.
Đối với các quy định về công ty cổ phần, sự tiến bộ của Luật Doanh nghiệp với việc xác
lập các quyền và nghĩa vụ, đảm bảo địa vị pháp lý của các cổ đông đã đem lại nhiều sự hấp
dẫn và thu hút các nhà đầu tư, đặc biệt là việc mở rộng quyền của các cổ đông thiểu số,
quyền làm chủ của tất cả cổ đông trong CTCP…
Nhóm 2 14 Bài tiểu luận Luật kinh tế

×