Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Tiểu luận pháp luật VẤN ĐỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ TRONG Ở CÁC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT THEO QUY ĐỊNH PHÁP LÝ CỦA MỘT SỐ NƯỚC – BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (709.69 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LUẬT








TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT
“VẤN ĐỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ TRONG
Ở CÁC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT THEO QUY
ĐỊNH PHÁP LÝ CỦA MỘT SỐ NƯỚC – BÀI HỌC
CHO VIỆT NAM ”

Giảng viên hướng dẫn: ThS Hà Công Anh Bảo
Nhóm thực hiện:
Lê Ngọc Minh Anh
MSV
1213330005

Phạm Minh Hà
MSV
1213330025

Phan Thị Mỹ Linh
MSV
1211330043

Bùi Thị Đức Minh


MSV
1211330052

Nguyễn Hương Bảo Ngân
MSV
1213330056

Quách Nguyễn Thạch Thảo
MSV
1213330072

Nguyễn Thị Thu Trang
MSV
1213330078


Hà Nội, tháng 09 năm 2013
2

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài 3
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
3. Phương pháp nghiên cứu 4
4. Kết cấu của luận văn 4
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ 5
I. Giải thích khái niệm 5
II. Sự cần thiết trong việc bảo vệ cổ đông thiểu số 9
III. Vai trò của việc bảo vệ cổ đông trong công ty cổ phần 10
IV. Mục tiêu bảo vệ cổ đông thiểu số 11

CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ Ở MỸ 13
CHƯƠNG 3: VẤN ĐỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ Ở NHẬT BẢN 16
CHƯƠNG 4: VẤN ĐỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM – BÀI HỌC
RÚT RA 18
I. Vấn đề bảo vệ cổ đông thiểu số tại Việt Nam 18
II. Bài học kinh nghiệm 20


3

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian qua, cả thế giới đã chứng kiến hậu quả của khủng hoảng tài chính
là sự sụp đổ của nhiều công ty lớn như Enron, Worlcom, nối tiếp theo đó là các tập
đoàn lớn như General Motors. Các doanh nghiệp niêm yết không còn được công
chúng đặt nhiều niềm tin như trước kia. Chính phủ các nước đang phải chịu áp lực từ
công chúng, yêu cầu cải tổ hệ thống pháp lý để bảo vệ một cách hiệu quả hơn các cổ
đông trong các doanh nghiệp niêm yết.
Việt Nam chịu ảnh hưởng không lớn từ cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua,
nhưng các vụ việc khiến quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư, các cổ đông ở
Việt Nam diễn ra thường xuyên. Không chỉ cá nhân người đầu tư phải chịu thiệt hại,
những vụ việc này xảy ra còn ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của Thị trường
chứng khoán, làm giảm đáng kể khả năng huy động vốn khi mà các nhà đầu tư, nhất là
những nhà đầu tư chỉ sở hữu lượng vốn nhỏ đang rút dần vào ranh giới an toàn, không
muốn đầu tư để tránh rủi ro.
Trong khi các doanh nghiệp niêm yết đang tăng nhanh về số lượng, thị trường
chứng khoán ngày càng phát triển thì vấn đề thiết lập thể chế, hệ thống pháp lý để bảo
vệ tốt quyền và lợi ích của các nhà đầu tư, các cổ đông nói chung và các cổ đông thiểu
số nói riêng, lại càng trở nên cấp thiết. Các cổ đông thiểu số chỉ nắm giữ một lượng cổ
phần rất nhỏ, nhưng chúng ta không thể phủ nhận tầm quan trọng của họ khi mà số

lượng cổ đông thiểu số trong mỗi doanh nghiệp niêm yết là rất lớn.
Trên thế giới, đã có nhiều nước nhận ra điều này và nhanh chóng cải tổ hệ thống
pháp lý của mình, nhằm nâng cao chỉ số bảo vệ các nhà đầu tư thiểu số như ở Mỹ,
Nhật. Kết quả là niềm tin của công chúng được củng cố, khiến các nhà đầu tư cá nhân
mạnh dạn hơn trong việc góp vốn vào các doanh nghiệp niêm yết, thị trường tài chính
phát triển càng mạnh mẽ.
Việt Nam đang từng bước học tập và thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, ban hành các
văn bản luật và dưới luật để cải thiện tình hình này với mục đích tạo ra cho các nhà
đầu tư thiểu số cảm giác an toàn để họ có thể tiếp tục đầu tư vào thị trường tài chính
nói riêng và các doanh nghiệp niêm yết nói chung.
Do đó, nhóm 6 lựa chọn đề tài “Bảo vệ cổ đông thiểu số trong ở các doanh nghiệp
niêm yết theo quy định pháp lý của một số nước – Bài học cho Việt Nam” cho tiểu luật
môn Pháp luật Tài chính – Ngân hàng nhằm nghiên cứu các biện pháp, cách thức thực
hiện từ các nước tiên phong trong công cuộc cải tổ quy định pháp lý để bảo vệ các cổ
đông thiểu số. Sau đó, nhóm cũng muốn rút ra bài học, giải pháp cho tình hình ở Việt
Nam.
4

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Các vấn đề mà nhóm 6 tiếp cận và trình bày bao gồm:
 Các kiến thức nền tảng về doanh nghiệp niêm yết, cổ đông, cổ đông thiểu số và
quyền cổ đông ở các nước.
 Sự cần thiết của việc bảo vệ cổ đông thiểu số, mục tiêu của việc bảo vệ cổ đông
thiểu số.
 Thực trạng và giải pháp cho bảo vệ cổ đông thiểu số ở Mỹ.
 Thực trạng và giải pháp cho bảo vệ cổ đông thiểu số ở Nhật.
 Thực trạng bảo vệ cổ đông thiểu số ở Việt Nam – Bài học rút ra từ Nhật và Mỹ.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận chủ yếu sử dụng phương pháp thu thập thông tin, so sánh, phân tích,
tổng hợp.

4. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 4 chương:
 Chương 1: Những vấn đề cơ bản về bảo vệ cổ đông thiểu số
 Chương 2: Vấn đề bảo vệ cổ đông thiểu số ở Mỹ
 Chương 3: Vấn đề bảo vệ cổ đông thiểu số ở Nhật Bản
 Chương 4: Vấn đề bảo vệ cổ đông thiểu số ở Việt Nam – bài học rút ra

5

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU
SỐ
I. Giải thích khái niệm
1. Công ty cổ phần
Công ty cổ phần (CTCP) là một hình thức tổ chức kinh doanh ra đời, tồn tại và
phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Sự hình thành và phát triển
của công ty cổ phần gắn liền với sự hình thành của thị trường vốn và thị trường tiền tệ.
Ở các nước khác nhau, CTCP có thể có những tên gọi khác nhau. Tại Việt Nam, khái
niệm công ty cổ phần được quy định tại điều 77, Luật doanh nghiệp 2005:
“1. Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
a) Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
b) Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn
chế số lượng tối đa;
c) Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
d) Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ
trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật này.
2. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh.

3. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động
vốn.”
2. Công ty cổ phần niêm yết:
Công ty niêm yết là công ty đại chúng có các điều kiện sau theo điều 12 luật chứng
khoán 2006
"Điều 12. Điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng
1. Điều kiện chào bán cổ phiếu ra công chúng bao gồm:
a) Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào
bán từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;
b) Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán
phải có lãi, đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán;
6

c) Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt
chào bán được Đại hội đồng cổ đông thông qua.
2. Điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng bao gồm:
a) Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào
bán từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;
b) Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán
phải có lãi, đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán, không
có các khoản nợ phải trả quá hạn trên một năm;
c) Có phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được
từ đợt chào bán được Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên hoặc Chủ
sở hữu công ty thông qua;
d) Có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu
tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
nhà đầu tư và các điều kiện khác.
3. Điều kiện chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng bao gồm:
a) Tổng giá trị chứng chỉ quỹ đăng ký chào bán tối thiểu năm mươi tỷ
đồng Việt Nam;

b) Có phương án phát hành và phương án đầu tư số vốn thu được từ đợt
chào bán chứng chỉ quỹ phù hợp với quy định của Luật này.
4. Chính phủ quy định điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng đối với
doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành
công ty cổ phần, doanh nghiệp thành lập mới thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng hoặc công
nghệ cao; chào bán chứng khoán ra nước ngoài và các trường hợp cụ thể khác."
3. Cổ đông
Không giống như các loại hình tổ chức doanh nghiệp khác, công ty cổ phần là thực
thể kinh tế duy nhất được phép phát hành cổ phiếu và huy động thêm vốn chủ sở hữu
từ cổ đông. Cổ đông là người sở hữu ít nhất một cổ phần đã phát hành của công ty cổ
phần, có thể là tổ chức, cá nhân (khoản 11 điều 4 và khoản 1 điều 77, Luật doanh
nghiệp 2005). Căn cứ theo loại cổ phần nắm giữ thì cổ đông được chia thành cổ đông
phổ thông và cổ đông ưu đãi (điều 78 Luật doanh nghiệp 2005). Tuy nhiên trên thực
tế, tiêu chí tỷ lệ cổ phần nắm giữ thường được sử dụng để phân chia cổ đông thành cổ
đông lớn (majority shareholder) và cổ đông thiểu số (minority shareholder). Khái
niệm này không được quy định trong Luật doanh nghiệp 2005 và các luật chuyên
ngành có liên quan đến doanh nghiệp. Luật các tổ chức tín dụng 2010 lại có riêng một
tiêu chí để xác định cổ đông lớn tại khoản 26 điều 4: “Cổ đông lớn của tổ chức tín
dụng cổ phần là cổ đông sở hữu trực tiếp, gián tiếp từ 5% vốn cổ phần có quyền biểu
quyết trở lên của tổ chức tín dụng cổ phần đó”.
7

4. Cổ đông thiểu số
Cho đến nay, pháp luật thực định của Việt Nam chưa có một định nghĩa về cổ
đông thiểu số hay các đặc điểm của cổ đông thiểu số. Một số văn bản pháp luật hiện
hành của Việt Nam không định nghĩa cổ đông thiểu số mà đưa ra quy định về cổ đông
lớn như đã nêu ở trên. Vậy 5% có thể được cho là ranh giới phân định giữa cổ đông
lớn và loai cổ đông còn lại trong CTCP? Rõ ràng nếu hiểu theo khái niệm cổ đông
thiểu số dựa trên tỷ lệ sở hữu cổ phần là không hợp lý bởi nó chỉ được sử dụng để ghi
nhận quyền lợi của các cổ đông lớn chứ không phản ánh đầy đủ bản chất của cổ đông

lớn hay cổ đông thiểu số. Dù hiện tại tồn tại nhiều quan điểm khác nhau; tuy nhiên, về
mặt lý luận chúng ta có thể hiểu cổ đông thiểu số là cổ đông không chi phối được
công ty, không có khả năng áp đặt quan điểm, ý chí, đường lối, sách lược của mình
trong công ty… khi các cổ đông thực hiện các quyền của mình.
Vì vậy, cổ đông thiểu số cần phải được định nghĩa trên cơ sở xem xét: thứ nhất là
tỷ lệ cổ phần cổ đông sở hữu (phần trăm cổ phần có quyền biểu quyết) và thứ hai là
khả năng của họ trong việc tác động tới chính sách kế hoạch kinh doanh, chiến lược
phát triển, lựa chọn người quản lý công ty hay nói cách khác là nói tới vai trò của họ
khi biểu quyết thông qua các vấn đề tại cơ quan quyền lực cao nhất trong công ty. Bởi
lẽ trên thực tế khả năng tham gia vào hoạt động quản lý doanh nghiệp của cổ đông
phụ thuộc vào tỷ lệ phần vốn góp mà cổ đông nắm giữ trong công ty. Theo đó, cổ
đông nắm giữ tỷ lệ cổ phần càng cao sẽ dẫn đến khả năng chi phối , kiểm soát công ty
càng cao và ngược lại. Nếu như cổ đông thiểu số không bị chèn ép bởi các cổ đông
lớn thì phần góp vốn nhỏ trong công ty cũng hạn chế quyền lợi đặc biệt là quyền quyết
định và quyền hưởng lợi tức của họ.
5. Quyền của cổ đông
Quyền của cổ đông phổ thông được quy định cụ thể tại Điều 79 Luật doanh
nghiệp. Ngoài ra luật doanh nghiệp còn quy định cụ thể các quyền khác như: Mua lại
cổ phần theo yêu cầu của cổ đông (điều 90); Thẩm quyền triệu tập họp Đại hội đồng
cổ đông (ĐHĐCĐ) (điều 97); Quyền dự họp ĐHĐCĐ (điều 101); Yêu cầu hủy bỏ
quyết định của ĐHĐCĐ (điều 107); Công khai các lợi ích liên quan và công khai
thông tin về công ty cổ phần (điều 118, điều 129). Cổ đông ưu đãi không được hưởng
đầy đủ các quyền trên. Cổ đông ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ
phần của mình cho người khác (điều 81). Cổ đông ưu đãi cổ tức và cổ đông ưu đãi
hoàn lại đều không có quyền dự họp ĐHĐCĐ, không có quyền biểu quyết và cũng
không có quyền đề cử người vào Hội đồng quản trị (HĐQT) và Ban kiểm soát (BKS)
(điều 82, điều 83).
a) Quyền chuyển nhượng cổ phần
8


Quyền tự do chuyển nhượng cổ phần được xem xét ở hai khía cạnh là có quyền
chuyển nhượng cho bất kỳ ai vào bất cứ lúc nào và không cần thủ tục phê chuẩn của
công ty.
b) Quyền tiếp cận thông tin
Quyền được nắm bắt những thông tin về công ty một cách đầy đủ là cơ sở để
cổ đông thực hiện các quyền cơ bản khác như quyền biểu quyết tại cuộc họp của
ĐHĐCĐ, quyền bầu và miễn nhiệm HĐQT và cả quyền chuyển nhượng cổ phần. Luật
Doanh nghiệp quy định cổ đông được xem xét, tra cứu và trích lục các thông tin trong
danh sách cổ đông có quyền biểu quyết và yêu cầu sửa đổi các thông tin không chính
xác; xem xét, tra cứu, trích lục hoặc sao chụp Điều lệ công ty, sổ biên bản ĐHĐCĐ và
các nghị quyết của ĐHĐCĐ.
c) Quyền dự họp và biểu quyết tại ĐHĐCĐ
ĐHĐCĐ là cơ quan quyết định cao nhất của công ty cổ phần, bao gồm tất cả cổ
đông có quyền biểu quyết. Theo Luật Doanh nghiệp 2005, ĐHĐCĐ có quyền quyết
định những vấn đề sau (điều 96, điều 104, điều 120): trong lĩnh vực tài chính; trong
lĩnh vực điều hành; các lĩnh vực khác; quyền dự họp ĐHĐCĐ; quyền biểu quyết. Điều
26, nghị định 102/2010/NĐ-CP Hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật
Doanh nghiệp quy định quy định thêm một số vấn đề liên quan đên ĐHĐCĐ.
d) Quyền bầu, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị
HĐQT là cơ quan quản lý công ty, có quyền nhân danh công ty quyết định mọi
vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty trừ những vấn đề thuộc thẩm
quyền của ĐHĐCĐ: quyền đề cử thành viên HĐQT; quyền bầu thành viên HĐQT;
quyền bãi nhiệm thành viên HĐQT (điều 96).
e) Quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần
Điều 90 Luật Doanh nghiệp được đánh giá là một trong những điều khoản tiêu
biểu nhằm bảo vệ cổ đông thiểu số. Theo điều này, cổ đông có quyền yêu cầu công ty
mua lại cổ phần của mình theo giá thị trường hoặc giá được tính theo nguyên tắc quy
định tại Điều lệ công ty. Có ý kiến cho rằng, quy định trên tạo ra nguy cơ là công ty
phải dùng mọi khoản tiền hiện có để mua lại cổ phần, có thể dẫn đến phá sản nếu cổ
đông đồng loạt phản đối công ty theo kiểu này. Tuy nhiên, việc yêu cầu công ty mua

lại cổ phần vẫn là một giải pháp an toàn cho các cổ đông khi muốn rút khỏi công ty.
f) Quyền khởi kiện
Cổ đông trong công ty cổ phần Việt Nam chỉ có quyền khởi kiện Tòa án yêu
cầu hủy bỏ quyết định của ĐHĐCĐ trong hai trường hợp: trình tự và thủ tục triệu tập
9

cuộc họp không theo đúng quy định của Luật Doanh nghiệp và Điều lệ công ty; trình
tự, thủ tục ra quyết định và nội dung quyết định vi phạm pháp luật hoặc điều lệ công
ty (điều 107). Ngoài ra, điều 25 nghị định 102/2010/NĐ-CP còn quy định quyền khởi
kiện đối với thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc (tổng giám đốc). Tuy nhiên, khi
những quyền này bị vi phạm thì chế tài bảo vệ cho các cổ đông lại chỉ được quy định
sơ sài, cổ đông không thể kiện HĐQT hay Ban lãnh đạo công ty khi họ có hành vi vi
phạm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các cổ đông.
II. Sự cần thiết trong việc bảo vệ cổ đông thiểu số
Vấn đề bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty niêm yết ở Việt Nam đã được đặt ra
trong một thời gian dài, tuy nhiên chưa bao giờ vấn đề này lại trở nên cần thiết như
bây giờ. Điều đó xuất phát từ hai nguyên nhân chủ yếu là (a)mối quan hệ bất bình
đẳng giữa cổ đông lớn và CĐTS đã dẫn đến thực trạng quyền lợi của các CĐTS bị
xâm phạm, và (b) với đại vị của mình, các CĐTS không thể tự bảo vệ được quyền lợi
của mình hoặc họ chưa ý thức được sự cần thiết phải tự bảo vệ quyền lợi của mình.
Trước thực trạng đó, pháp luật cần phải được hoàn thiện hơn nữa để tạo ra những thiết
chế pháp lý thực hiện công tác bảo vệ nhà đầu tư, để không chỉ đảm bảo quyền lợi cho
các CĐTS mà còn vì các mục tiêu lớn hơn của nền kinh tế quốc gia

a) Mối quan hệ bất mình đẳng giữa cổ đông lớn và cổ đông thiểu số

Trong mối liên hệ giữa cổ đông và nhà đầu tư, xét cho đến cùng cổ đông cũng
chính là các nhà đầu tư, do đó khi đặt ra vấn đề bảo vệ thì cần phải bảo vệ cả cổ đông
lớn và CĐTS. Tuy nhiên, sở dĩ chúng ta chỉ đặt ra vấn đề phải bảo vệ CĐTS mà
không bao gồm cổ đông lớn vì trong mối quan hệ giữa cổ đông lớn và CĐTS, chỉ có

CĐTS mới cần được bảo vệ, cổ đông lớn với số lượng cổ phần mà họ sở hữu tỏng
công ty đã được pháp luật bảo vệ rất nhiều. Bằng khả nhăng chi phối công ty, cổ đông
lớn không chỉ tự bảo vệ được quyền lợi của mình mà họ còn có đủ sức mạnh để chèn
ép, xâm phạm quyền lợi của CĐTS vì nhiều mục đích mà chủ yếu là vì mục đích tư
lợi. Các cổ đông lớn không khó để thưc hiện được điều đó bởi trong tay họ có sức
mạnh quyền lực được tạo ra từ phần vốn góp trong công ty. Còn các CĐTS với thẩm
quyền ít ỏi của mình, dù họ có nhận thức được quyền lợi đang bị xâm phạm, họ cũng
đành cam chịu thấp phận. Trên thực tế hiện nay, mối quan hệ này có thể được diễn tả
ví von như là "cá lớn nuốt cá bé"

Với nhiều thủ đoạn khác nhau, các cổ đông lớn đang sử dụng hoặc lạm dụng
quyền lực của mình trong công ty để thưc hiện nhiều hành vi vi pham, xâm phạm
nghiêm trọng đến quyền lợi của CĐTS với mục đích thâu tóm công ty và thu lợi về
cho mình. Việc đó có thể được thực hiện bằng nhiều cách thức khác nhau, nhưng
trong đó phổ biến là việc cổ đông lớn thông qua Hội đồng quản trị (HĐQT) để thực
10

hiện các hành vi ngăn cản hoặc tước bỏ quyền cổ đông của CĐTS; sử dụng các thông
tin của công ty để thực hiện các giao dịch tư lợi

b) Ý thức và khả năng tự bảo vệ của cổ đông thiểu số

Ý thức của CĐTS trong việc họ chủ đọng tự bảo vệ mình là điều vô cùng quan
trọng, dù không có khả năng để tự bảo vệ được quyền lợi của mình nhưng nếu các
CĐTS luôn ý thức được sự cần thiết của vấn đề này và không còn thờ ơ, phó mặc số
phận mình cho các cổ đông lớn thì đây là điều kiện quan trọng để họ tập hợp, liên kết
với nhau để thực hiện các quyền của nhóm cổ đông và ít nhiều thông qua đó thể hiện
tiếng nói của mình trong công ty.

Tuy nhiên, thực tiễn Việt Nam về vấn đề này còn nhiều bất cập, mặc dù CĐTS

chiếm đa số nhưng họ xuất phát tự nhiều thành phần xã hội khác nhau, có thể là doanh
nhân, trí thức, cán bộ, sinh viên, lao động phổ thông hay những ngành nghề lĩnh vực
khác. Mỗi nhà đầu tư có trình độ nhận thức khác nhau và đầu tư vốn chủ yếu với mục
đích kiếm lời. Phần lớn các nhà đầu tư theo kiểu như vậy họ không hề biết hay quan
tâm đến người quản lý của doanh nghiệp mà họ mua cổ phần là ai, năng lực thế nào.
Họ chỉ quan tâm giá trị cổ phiếu hằng ngày có tăng không mà không hiểu rằng, việc
tăng giảm này phụ thuộc khá nhiều vào năng lực điều hành quản lý cũng như sự cẩn
trọng của những những người quản lý họ không hề biết hoặc cũng chẳng quan tâm đó
là ai.

Bên cạnh đó, cổ đông góp ít cốn thường độc lập, thiếu liên kết nên họ có xu
hướng tự ti và tâm lý thờ ơ với các vấn đề của công ty cũng như với quyền lợi của
chính mình. Nhiều CĐTS dù có ý thức được quyền lợi của mình bị xâm phạm nhưng
cũng đành cam chịu, vì với số vốn góp ít ỏi, CĐTS không thể đưa ra những quyết định
hoặc chi phối tới những quyết định của công ty để thay đổi số phận của chính mình.
Chưa kể khi bị cổ đông lớn liên kết chèn ép, điều đó đã làm nản lòng thêm cho các
nhà đầu tư và góp phần tạo ra tâm lý thờ ơ của CĐTS đối với hoạt động của công ty.

III. Vai trò của việc bảo vệ cổ đông trong công ty cổ phần
a) Vai trò đối với công ty và nhà đầu tư
Khi pháp luật bảo vệ cổ đông có hiệu quả, các nhà đầu tư có nhiều động lực
hơn bỏ vốn vào công ty cổ phần. Đối với các công ty thu hút vốn cổ phần khả năng
huy động vốn sẽ gia tăng một khi nhà đầu tư yên tâm rằng đồng vốn đầu tư của mình
được bảo toàn và phát triển, các quyền và lợi ích được bảo đảm
b) Vai trò đối với nền kinh tế
Bảo vệ cổ đông hiệu quả có tác động tích cực lên toàn bộ nền kinh tế.
11

Thứ nhất, nó thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán.
Thứ hai, bảo vệ cổ đông tốt góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế

IV. Mục tiêu bảo vệ cổ đông thiểu số
Khi mà ý thức tự bảo vệ quyền lợi của mình của các CĐTS còn hạn chế và bản
thân họ không có khả năng giải quyết vấn đề quyền lợi của mình đang bị xâm phạm
thì nhà nước cần phải bằng pháp luật đặt ra những nguyên tắc, xây dựng những công
cụ pháp lý tạo điều kiện cho các CĐTs thực hiện hiệu quả các quyền cổ đông, tạo cho
họ vị trí và tiếng nói trong công ty. Ngoài ra, nhà nước còn có thể đảm bảo được các
lợi ích cao hơn cho xã hội và các mục tiêu quan trọng, thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Các mục tiêu bảo vệ quyền lợi của CĐTS bao gồm:
a) Khuyến khích nhà đầu tư bỏ tiền ra kinh doanh, tăng nguồn vốn cho nên kinh
tế
Để huy động được các nguồn vốn từ các nhà đầu tư, chúng ta cần phải đặt ra
các cơ chế pháp lý để bảo vệ họ, đảm bảo quyền lợi, lợi ích chính đang mà họ thu
được từ hoạt động đầu tư. Một khi quyền lợi của các cổ đông không được đảm bảo thì
họ sẽ không đầu tư hoặc lựa chọn các lĩnh vực đầu tư khác an toàn và hiệu quả hơn
như gửi tiết kiệm ở ngân hàng, hoặc cũng có thể mang tiền đi đầu tư ở những nơi có
cơ chế bảo vệ nhà đầu tư tốt hơn.
Việc CĐTS bỏ tiền ra đầu tư kinh doanh trước tiên đảm bảo nhu cầu tìm kiếm
lợi nhuận cho chính họ và cũng thông qua đó thu hút, tập trung nguồn vốn cho nền
kinh tế. Các cổ đông lớn, dù số vốn đủ lớn để mang lại lợi nhuân cao cho chính họ và
đóng góp quan trong trong nền kinh tế nhưng thực tế đã chứng minh các cổ đông lớn
không phải là số đông để giúp nền kinh tế vận hành và phát triển một cách tốt nhất
nếu như không có sự đồng lòng, sát cánh của các CĐTS dù ít tiền nhưng luôn chiếm
đại đa số các nhà đầu tư.
Chính vì vậy, nhà nước với vai trò là người thực hiện các sách lược vĩ mô điều
tiết nên kinh tế cần phải thông qua việc xây dựng các công cụ pháp lý hữu hiệu và
hoàn thiện các chế định pháp lý hiện hành nhằm bảo về nhà đầu tư nhỏ để tạo niềm tin
nhằm khuyến khích CĐTS bỏ tiền ra kinh doanh hoặc tin tưởng các dự án đầu tư trong
nước và trực tiếp tạo nguồn vốn cho sự vận hành của nền kinh tế.
b) Đảm bảo sự tồn tại và phát triển của công ty cổ phần và thị trường chứng
khoán

Không thể phủ nhận vai trò quan trọng của CTCP, đặc biệt là công ty niêm yết
và TTCK đóng góp cho nền kinh tế quốc gia, bởi lẽ đây là loại hình công ty phát triển
phổ biến nhất trên thế giới với quy mô lớn, hiệu quả hoạt động của loại hình doanh
nghiệp này tác động trực tiếp đến sự tăng trưởng, thậm chí là sự tồn tại của nền kinh
tế. Cùng với đó, TTCK với sức mạnh của mình, có vai trò như phong vũ biểu của nền
12

kinh tế mỗi quốc gia. Chính vì tầm quan trọng và những đóng góp to lớn của CTCP và
TTCK cho nền kinh tế, Việt Nam chú trọng xây dựng các công cụ pháp lý để bảo vệ
và thúc đẩy sự phát triển của loại hình doanh nghiệp này, tạo niềm tin cho nhà đầu tư
bỏ tiền để thành lập hoặc tham gia CTCP, nhất là công ty niêm yết, cũng như mua
chứng khoán trên TTCK.
c) Xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh để thu hút đầu tư
Môi trường kinh doanh là tổ hợp những yếu tố quyết định đến hiệu quả của
hoạt động kinh doanh và quyết định đầu tư của các nhà đầu tư. Để thu hút được nhà
đầu tư, không cách thức nào tốt hơn là xây dựng một môi trường kinh doanh lành
mạnh trong đó có các thủ tục hành chính được lược bỏ trở thành giản đơn, thực hiện
nhiều chính sách ưu đãi và đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các nhà đầu tư để thu hút
sự chú ý từ họ.
Một trong những yếu tố tạo nên môi trường kinh doanh là mức dộ bảo vệ
quyền lợi của CĐTS, hay nói cách khác, đây là một trong những tiêu chí quan trọng
không thể thiếu trong việc đánh giá sự lành mạnh, điểm số của môi trường kinh
doanh. Mặc dù nhận thức rõ tầm quan trọng của môi trường kinh doanh trong việc thu
hút các nhà đầu tư nhưng thực trạng về môi trường kinh doanh tại Việt Nam trong
suốt thời gian qua lại thật đáng buồn với những khó khăn từ vấn đề thủ tục, sự ì ạch
của các chính sách, kế hoạch cũng như việc bảo vệ nhà đầu tư ở mức độ thấp.
Thực trạng về môi trường kinh doanh còn nhiều bất cập ở Việt Nam xuất phát
từ nhiều nguyên nhân khác nhau, như đường lối chính sách của nhà nước, thời gian và
chi phí mà một doanh nghiệp trong nước phải bỏ ra để đáp ứng được các quy định
kinh doanh như thành lập và vận hành doanh nghiệp, nộp thuế, giải thể doanh

nghiệp , tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận rằng sự yếu kém trong công tác vảo
vệ các nhà đầu tư nói cung và các CĐTS nói riêng đã góp phần tạo nên tình trạng
đáng buồn của môi trường kinh doanh trong nước hiện nay. Trước thực trạng môi
trường kinh doanh Việt Nam còn nhiều yếu kém và hạn chế cùng với sự cần thiết phải
thu hít các nhà đầu tư, chúng ta cần phải thực hiện một cách hiệu quả vấn đề đề bảo vệ
CĐTS. Bảo vệ được quyền lợi CĐTS là việc làm quan trọng và cần thiết đầu tiên để
xây dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh nhằm thu hút các nhà đầu tư, kể cả
nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.

13

CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ Ở MỸ

Trong những năm gần đây, rất nhiều bài nghiên cứu về thực trạng bảo vệ quyền lợi
cổ đông thiểu số đã được thực hiện, khắc phục những trở ngại và phản ánh thực trạng
về quyền lợi của cổ đông thiểu số tại Mỹ. Dựa trên bài nghiên cứu của Arthur R. Pinto
tại trường luật Brooklyn
1
“Bảo vệ cổ đông thiểu số trong các doanh nghiệp đóng
2
tại
Mỹ” - một trong những nghiên cứu gần đây về những vấn đề cổ đông thiểu số cần đối
mặt trong doanh nghiệp đóng, tiểu luận này sẽ đề cập đến sự thay đổi và ban hành luật
pháp của các bang cũng như của cả nước Mỹ để bảo vệ những cổ đông này khỏi
những hạn chế và đàn áp trong doanh nghiệp.
Bài nghiên cứu nói trên thảo luận về việc được bảo vệ về mặt pháp lý của các cổ
đông thiểu số trong các doanh nghiệp đóng của Mỹ. Các cổ đông này quan tâm đến
việc họ có tiếng nói, có quyền được tiếp cận với thông tin, một vài quyền kiểm soát,
lợi suất và khả năng bán toàn bộ cổ phiếu và rút khỏi công ty. Hơn nữa, họ thường lo
ngại rằng: những cổ đông với quyền kiểm soát trong tay sẽ hành động một cách “cơ

hội” để trục lợi cho bản thân. Hiểu được cách pháp luật giải quyết vấn đề nêu trên và
làm thế nào những cổ đông thiểu số được bảo vệ trong khi cho phép các cổ đông lớn
thực thi quyền lực của họ là một điều quan trọng. Bên cạnh việc những vấn đề trên có
thể được quy định tất cả trong hợp đồng cổ đông để bảo vệ họ, những điều không
được quy định trong hợp đồng đều có các điều khoản bảo vệ hợp pháp.
Có nhiều loại xung đột khác nhau trong công ty đóng. Bởi bỏ phiếu theo đa số đã
thành quy chuẩn, những người sở hữu từ 51% cổ phần trở lên có quyền rất lớn trong
công ty, do đó, có rất nhiều cách mà những người này có thể sử dụng để làm tổn hại
đến các cổ đông thiểu số và làm lợi cho bản thân.
Khi nhìn vào những quy định về doanh nghiệp và những gì các cổ đông thiểu số
cần được bảo vệ, các vấn đề về tiếng nói, thông tin, quyền kiểm soát, lợi nhuận đều rất
quan trọng. Tiếng nói được thể hiện ở cấp độ cổ đông và cấp độ quản lí. Quyền bỏ
phiếu của các cổ đông thường bị giới hạn trong luật pháp Mỹ. Cổ đông được quyền bỏ
phiếu bầu giám đốc, cho những sửa đổi, bổ sung trong giấy sáp nhập (đòi hỏi sự đồng
tình của cả hội đồng và các cổ đông), các quy chế ngành (luật nội bộ), những sự thay
đổi lớn về cấu trúc bao gồm hợp nhất
3
, việc bán các tài sản có giá trị và việc giải thể


1
Brooklyn Law School Legal Studies, Research Paper, Accepted Paper Series, Research Paper No. 297,
February 2014.
2
Ở Mỹ có hai loại công ty: công ty đóng là công ty không phát hành cổ phiếu ra công chúng và công ty mở là
công ty có niêm yết trên thị trường chứng khoán.

3
Trong tình huống hợp nhất, những cổ đông bất đồng quan điểm về việc này sẽ có quyền như luật quy định để
tìm hiểu những đánh giá khác theo luật về giá trị trung bình của cố phiếu họ nắm giữ quy ra tiền mặt. Theo

PINTO BOOK, supra note 13 at § 6.06

14

công ty
4
. Bởi quyền bỏ phiếu của các cổ đông đa số là cơ bản, cổ đông thiểu số
thường xuyên bị hạn chế bởi nhóm kiểm soát.
Quyền được tiếp cận thông tin của các cổ đông thường bị hạn chế. Không giống
như các công ty đại chúng, nơi mà luật an ninh liên bang yêu cầu sự công bố đầy đủ
các thông tin, phần lớn đạo luật của các bang hạn chế thông tin và sự thông báo về các
cuộc họp cũng như việc phát hành cổ phiếu. Các cổ đông thiểu số có thể có tiếng nói
trong việc quản lí bằng cách tham gia vào ban giám đốc hoặc trở thành viên chức
trong công ty. Tuy nhiên, cổ đông thiểu số không thể thực hiện các quyền trên mà
không có sự đồng thuận của đại đa số cổ đông. Lý do là bởi việc tham gia và đại hội
các giám đốc và trở thành viên chức của công ty còn đem lại lợi ích lớn cho cổ đông,
đó là sự tiếp cận dễ dàng hơn với thông tin
5
.
Một vấn đề quan ngại nữa của các cổ đông thiểu số là khi các cổ phiếu mới được
phát hành cho những người khác không bao gồm họ, có khả năng lợi tức của chính họ
sẽ bị nhỏ dần đi. Trên thực tế, luật pháp về quyền ưu tiên mua trước cho phép mỗi cổ
đông có quyền được mua một lượng cổ phiếu mới phát hành với tỷ lệ tương đương
với số cổ phiếu họ đang nắm giữ do công ty của họ phát hành.
Trước những khó khăn cổ đông thiểu số phải đối mặt trong các doanh nghiệp đóng
tại Mỹ, nhiều đạo luật của bang đã được ban hành nhằm bảo vệ họ khỏi sự đàn áp đó.
Trong lịch sử, tòa án thường miễn cưỡng đưa ra quyết định giải thể công ty thậm chí
trên cơ sở luật pháp về giải thể công ty, những bất đồng trong quản lý làm lãng phí tài
sản của công ty, trong khi giải thể chỉ là một sự lựa chọn. Điều này trở nên đúng hơn
trong trường hợp công ty làm ăn có lợi nhuận

6
, hoặc sự giải thể có thể làm tổn hại đến
các cổ đông thiểu số bằng việc cho phép các cổ đông kiểm soát đảm nhiệm công ty
vừa bị giải thể
7
. Sự gia tăng trong nhận thức về các vấn đề của cổ đông thiểu số dẫn
đến nhu cầu về những biện pháp khắc phục bằng luật định dành cho những cổ đông
này
8
.
Nhiều cơ quan lập pháp đã trả lời bằng cách thêm điều khoản vào luật giải thể của
họ, cho phép giải thể bởi các hành vi giả mạo, không hợp pháp
9
hoặc mang tính chất



5
Các giám đốc thường có quyền kiểm định sổ sách và hồ sơ trong phạm vi trách nhiệm của họ (trong DEL.
GEN. CORP. LAW § 220 (d)).
6
Cơ quan lập pháp New York đã sửa đổi luật giải thể năm 1979 để loại bỏ sự ban hành về khả năng sinh lợi từ
việc xem xét điều này.
7
Wollman v. Littman, 316 N.Y.S.2d 526 (N.Y.App.Div.1d 1970)
8
Trong ví dụ “Đạo luật bảo vệ các cổ đông thiểu số bị đàn áp: Một mô hình để cải cách”, Allen B. Afterman.
9
Sự phi pháp và giả mạo là căn cứ cho phần lớn các đạo luật về giải thể, đôi khi phá vỡ sự kì vọng của các cổ
đông thiểu số về việc không bị đàn áp. Sự đàn áp này hướng về cá nhân là cổ đông thiểu số, trong khi hành vi

gian lận và trái pháp luật, thay vào đó, có thể hướng đến sự đầu tư của từng cá nhân vào công ty.
15

đàn áp, áp bức. Sự đàn áp thường là cơ sở dẫn đến việc giải thể nhưng điều này không
được định nghĩa trong luật, vậy nên các tòa án đã đưa ra khái niệm
10
.
Giải thể công ty có thể là một biện pháp cho sự đàn áp, nhưng đây không phải cách
duy nhất. Một vài đạo luật cho phép các cổ đông kiểm soát mua lại cổ phần từ các nhà
đầu tư thiểu số và nếu họ không thể đi đến thỏa thuận ở một mức giá, tòa án sẽ quyết
định giá trị thỏa đáng. Một vài đạo luật còn cho phép tòa án “đặt hàng” của bất kì cổ
đông nào, từ đó cho phép nhà đầu tư thiểu số mua cổ phần của nhà đầu tư lớn. Một vài
đạo luật khác tập trung vào việc mua lại cổ phần thay vì giải thể doanh nghiệp
11
.
Thêm vào đó tòa án có thể sử dụng quyền lực của họ để cung cấp những biện pháp
khác nhằm cứu vãn sự giải thể của công ty.
Tóm lại, một vấn đề quan trọng cho các công ty đóng ở Mỹ là sự cần thiết phải bảo
vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số. Luật doanh nghiệp ngày nay đã có nhiều điều
khoản để bảo vệ những nhà đầu tư thiểu số, đồng thời cân bằng những yêu cầu của các
cổ đông kiểm soát. Hơn nữa, luật này còn cho phép và khuyến khích hợp đồng cá
nhân để bảo vệ các nhà đầu tư này. Trong hệ thống liên bang, không phải tất cả các
bang đều đi theo cùng một con đường, nhưng có rất nhiều các luật, điều khoản và một
số bang của Mỹ coi hợp đồng như một phương tiện để bảo vệ cổ đông thiểu số.




10
Trong OPPRESSION BOOK supra note 9 at §7:11 (thảo luận về các cách tiếp cận khác nhau của các đạo luật

về sự đàn áp và biện pháp khắc phục).
11
Theo luật bang Minnesota, một cuộc mua bán cổ phần tại mức giá hợp lí là biện pháp khắc phục và cũng là
tiêu chuẩn sử dụng trong những hành vi mà thông qua nó những người có quyền kiểm soát gây tổn hại một cách
gian lận cho cổ đông, giám đốc, viên chức và công nhân.
16

CHƯƠNG 3: VẤN ĐỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ Ở NHẬT BẢN

Công ty ở Nhật nơi chung và các doanh nghiệp niêm yết Nhật Bản nói riêng đều
chịu sự can thiệp mạnh mẽ của Bộ tài chính, bộ này kiểm soát công ty trong nhiều lĩnh
vực kể cả đồng vốn ra vào của công ty. Đặc trưng của hệ thống này là một kết cấu vốn
chằng chịt giữa các công ty anh em với nhau trong đó có cả nhà cung cấp và khách
hàng, thường thường có một cổ đông thống soái, như một ngân hàng chính. Giữa công
ty và các cơ quan chính quyền có một mối giao tiếp chặt chẽ dễ dàng đưa đến hối lộ.
Các ưu tiên của công ty đặt trọng tam ưu tiên vào sự tăng trưởng và tăng thị phần,
không phải vào sự sinh lợi cho cổ đông.

Như vậy, ở Nhật quyền lực của công ty là do Ban giám đốc nắm giữ, họ chi phối
phạm vi hoạt động của các tổ chức trong công ty, và chi phối đến cả quyền lợi của các
cổ đông. Các cổ đông trong công ty gần như không có quyền hành gì, họ chỉ có vai trò
như người lao động trong công ty. Đặc biệt đối với cổ đông thiểu số, quyền lợi của họ
bị coi nhẹ rất nhiều. Ta có thể xem xét trường hợp dưới đây để thấy rõ điều này, đó là
tình huống cổ đông lớn muốn loại bỏ cổ đông thiểu số ra khỏi công ty.

Luật pháp Nhật Bản quy định quyền loại bỏ cổ đông nhỏ ra khỏi công ty là quyền
đương nhiên của cổ đông lớn, khi cổ đông lớn sở hữu từ 95% (tùy từng nước, nhưng
tối thiểu là 90%) cổ phần phổ thông có quyền biểu quyết, và ý kiến của cổ đông thiểu
số về việc này là không cần thiết. Theo đó, cổ đông lớn triệu tập cuộc họp đại hội
đồng cổ đông để bỏ phiếu loại bỏ cổ đông thiểu số ra khỏi công ty, hoặc hội đồng

quản trị nơi cổ đông lớn nắm quyền kiểm soát sẽ thông qua việc mua lại cổ phần của
các cổ đông thiểu số, và cổ đông lớn bồi thường cho cổ đông thiểu số bằng tiền mặt
hoặc là bằng chính cổ phần của cổ đông lớn. Luật này bảo vệ cổ đông thiểu số bằng
việc trao quyền cho các cổ đông thiểu số yêu cầu tòa án thẩm định lại tính công bằng
của giao dịch. Thông thường, tòa án sẽ xem xét giao dịch thâu tóm này qua hai yếu tố.
Yếu tố đầu tiên là tiến trình thâu tóm này có hợp pháp và công bằng hay không, qua
việc bỏ phiếu và quyền sở hữu của cổ đông lớn, kể cả ý kiến của cổ đông thiểu số (nếu
có). Yếu tố thứ hai là xem xét giá thế nào được xem là công bằng và hợp lý. Tuy
nhiên, tùy theo kinh nghiệm và nhận định của từng thẩm phán thụ lý vụ việc, đã nảy
sinh nhiều tranh cãi xoay quanh việc thẩm định giá như thế nào được xem là hợp lý.
Đối với một số thẩm phán, ngày hội đồng quản trị công ty niêm yết, hoặc đại hội
đồng cổ đông quyết định mua lại cổ phần phổ thông của cổ đông thiểu số sẽ được xem
là ngày xác định giá hợp lý, theo đó giá hợp lý là giá giao dịch niêm yết vào cuối ngày
tại các sở giao dịch chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán. Tuy nhiên,
có nhiều thẩm phán không đồng ý và không theo cách thức nêu trên vì cho rằng, giá
xác định vào ngày giao dịch tại các sở giao dịch và trung tâm giao dịch thường bị ảnh
hưởng yếu tố thị trường và tâm lý của nhà đầu tư, do vậy giá đó không phản ảnh đúng
17

giá trị thật của cổ phần. Vì vậy cách mà các thẩm phán sử dụng nhiều nhất là đánh giá
lại chỉ số P/E (giá thu nhập trên mỗi cổ phần), giá trị ròng của công ty, giá dự kiến
trong tương lai của mỗi cổ phiếu và tiềm năng phát triển của công ty, giá trị thương
hiệu Tựu chung lại, việc đưa ra phán quyết cuối cùng chỉ có thể thực hiện được sau
quy trình thẩm định phức tạp và trải qua nhiều bất đồng ý kiến giữa cổ đông thiểu số
và cổ đông lớn cũng như giữa quan điểm của các cơ quan luật pháp có thẩm quyền.
Điều này gây ra nguy cơ cá cổ đông thiểu số có thể phải gánh chịu thiệt hại do thẩm
định thiếu chính xác, thiệt hại về thời gian chậm trễ trong việc nhận bồi thường và các
tổn thất do các chi phí cơ hội khác.
Sự phức tạp trong xử lý việc bồi thường cho cổ đông thiểu số trong trường hợp họ
bị loại bỏ khỏi công ty niêm yết như ta vừa phân tích là minh chứng cho yếu điểm

cũng như lỗ hổng của cơ chế bảo vệ cổ đông thiểu số tại các công ty niêm yết trong
pháp luật Nhật Bản hiện nay. Mặc dù quy định của luật pháp Nhật Bản đã thể hiện ý
thức phần nào về cơ chế nay (thông qua việc trao quyền cho các cổ đông thiểu số yêu
cầu tòa án thẩm định lại tính công bằng của giao dịch để tránh động thái chủ quan vì
lợi ích cá nhân của cổ đông lớn) nhưng có thể thấy vẫn không tránh khỏ những hạn
chế nhất định. Các cổ đông thiểu số vẫn là đối tượng chịu bất lợi và đối xử thiếu công
bằng trong các công ty Nhật Bản, vẫn chịu sự chèn ép và chi phối của cá cổ đông lớn.
Như vậy, có thể nói cơ chế bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông và đặc biệt là các
cổ đông thiểu số ở Nhật Bản không được đánh giá cao so với mô hình chung về pháp
luật công ty cổ phần ở các nền kinh tế phát triển. Các chuyên gia và các nhà làm luật
Nhật Bản vẫn đang nghiên cứu thảo luận để có thể đưa ra các quyết sách, biện pháp
khắc phục nhược điểm này. Tuy nhiên để tiến tới xây dựng một môi trường công bằng
và lành mạnh trong cá doanh nghiệp vẫn còn là cả một quãng đường dài với đất nước
này.

18

CHƯƠNG 4: VẤN ĐỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM –
BÀI HỌC RÚT RA
I. Vấn đề bảo vệ cổ đông thiểu số tại Việt Nam
1. Thực trạng bảo vệ cổ đông thiểu số của Việt Nam
Trên thực tế, tiến trình xây dựng hành lang pháp lý để bảo vệ cổ đông thiểu số
ở các doanh nghiệp niêm yết dường như đang diễn ra chậm chạp.Nếu xem mỗi cổ
đông là một phần của doanh nghiệp nước ta hì những cổ đông nhỏ lẻ là những ông chủ
“thấp cổ bé họng” nên chưa có được sự tôn trọng cần thiết.
Cổ đông nhỏ cũng là những người đóng góp tài chính vào doanh nghiệp, tuy
nhiên, quyền lợi của họ chưa được đảm bảo đầy đủ khiến những chủ nhân nhỏ này
chịu thiệt thòi khi những chủ nhân lớn gây sức ép.Giả dụ như, trong khi các cổ đông
nhỏ trong công ty hy vọng có một cuộc họp hiệu quả , được nghe những kết qủa báo
cáo, kết quả kiểm toán thì một số ban lãnh đạo doanh nghiệp lại tìm mọi cách hạn chế

quyền tham dự của họ .Thậm chí, có những trường hợp, doanh nghiệp lựa chọn các
địa điểm thật xa trụ sở công ty, một số khác tổ chức họp ở những thành phố khác.
Động thái này nhằm gây khó khăn cho các cổ đông nhỏ lẻ vì họ sẽ mất chi phí đi lại,
sắp xếp công việc của mình để có thể tham gia cuộc họp.
Theo khoản 2 Điều 79 Luật doanh nghiệp năm 2005: cổ đông hoặc nhóm cổ
đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục, ít nhất là 6
tháng thì có quyền đề cử người vào hội đồng quản trị/ biên kiểm soát nếu có. Tuy
nhiên, số lượng 10 % là quá lớn.
Một thực tế khác là tại nhiều công ty cổ phần ( bao gồm cả công ty đại chúng
và công ty niêm yết),khi mà các cổ đông lớn đã sở hữu lượng cổ phần ở mức độ có thể
thông qua các Nghị quyết có lợi cho mình ( ví dụ 65% hay 75%) , thì hầu như vai trò
của cổ đông/ nhóm cổ đông còn lại sẽ “ không được đếm xỉa”
Tại cơ quan có quyền cao nhất của công ty là Đại hội cổ đông , mặc cho cổ
đông nhỏ/ thiểu số phát biểu, chất vấn, đề xuất các nội dung quan trọng hoặc có liên
quan đến quyền lợi của họ, cổ đông lớn vẫn “bình chân như vại”, vì họ đã có được tỉ
lệ biểu quyết đủ để thông qua các Nghị quyết có lợi cho mình, gạt cổ đông nhỏ/ thiểu
số ra bên lề , cho dù nội dung này có được đưa vào chương trình họp
Nghị định 102/2010/NĐ-CP ngày 1/10/2010 có thể coi là một bước tiến quan
trọng trong việc bảo vệ các cổ đông nhỏ, lần đầu cho phép “ con kiến kiện củ khoai”
khi quy định: cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 1 % cổ phần phổ thông liên tục
trong thời hạn 6 tháng có quyền yêu cầu Ban kiểm soát khởi kiện trách nhiệm dân sự
đối với thành viên HĐQT, giám đốc (TGĐ) khi các chức danh này không thực hiện
đúng các quyền và nhiệm vụ được giao; không thực hiện, thực hiện không đầy đủ,
không kịp thời quyết định của HĐQT; thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao trái
với quy định của pháp luật, Điều lệ công ty hoặc Nghị quyết của ĐHCĐ.
2. Ví dụ thực tế:
19

Vào ngày 5/4/2013, Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội đã mở phiên tòa xét
xử vụ kiện của một nhóm cổ đông của CTCP Phát triển Kỹ thuật và Đầu Tư ( ITD)

thuộc viện máy và Công Nghiệp ( IMI) với đề nghị: hủy nghị quyết Đại hội cổ đông
thường niên ngày 26/4/2012 của ITD. Nguyên đơn là cổ đông đại diện cho nhóm cổ
đông nhỏ lẻ (gần 10 người với tỉ lệ sở hữu lớn hơn 1% vốn điều lệ). Lý do bắt nguồn
từ việc kinh doanh năm 2012 thua lỗ được công bố là hơn 1,1 tỷ đồng nhưng những
báo cáo kiểm toán thì lại bị kiểm toán từ chối đưa ra ý kiện tại các khoản mục quan
trọng do không có đủ cơ sở ;công ty chia cổ tức thấp nhưng mức lương thưởng của
thành viên HĐQT thì vẫn cao.
Trong trường hợp này, doanh nghiệp không những quên gửi tài liệu cho cổ
đông trước khi tiến hành Đại hội cổ đông mà khi cổ đông yêu cầu giải trình, chủ tọa
còn từ chối yêu cầu và lá phiếu chiếm 65% vốn điều lệ đã khiến cho tờ trình thù lao
HĐQT nhanh chóng được thông qua. Căn cứ khởi kiện là do ITD gửi thiếu tài liệu Đại
hội cổ đông năm 2012, sau gần 1 năm trời khởi kiện nhóm cổ đông này đã có điều
mình muốn. Tòa án phán quyết hủy kết quả Đại hội cổ đông và công ty phải chịu án
phí 2 triệu đồng.
TS. Nguyễn Ngọc Khánh, Trưởng phòng Pháp chế, CTCP Cửa Sổ Châu Âu
(Eurowindow Holding) nhìn nhận , việc trao quyền khởi kiện cho cổ đông theo kiểu
gián tiếp thông qua Ban kiểm soát đang khiến cho quy định hiện hành không có tính
khả thi. Mặt khác, các trường hợp hay các căn cứ mà thành viên, cổ đông có quyền
khởi kiện như luật định tại Điều 19 và Điều 25 của Nghị định số 102/2010, quá rộng
và dễ gây khiếu kiện tràn lan. Yêu cầu lớn nhất đặt ra trong việc sửa đổi Luật Doanh
Nghiệp năm 2005 liên quan đến nội dung bảo vệ cổ đông thiểu số là phải thực sự đưa
đến cho cổ đông những công cụ pháp lý rõ ràng và đầy đủ hơn để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình, trong đó đặc biệt chú trọng tới quyền về thông tin, quyền khởi
kiện, trách nhiệm của giám đốc, quyền tham dự và biểu quyết các vấn đề thuộc thẩm
quyền ĐHCĐ…
3. Nguyên nhân gặp khó khăn
Nguyên nhân của việc gặp khó khăn khi bảo vệ cổ đông thiểu số mà ta phải kể
đến chính là bất cập trong cách thức thực hiện quyền cổ đông. Một thực tế tại nhiều
công ty, doanh nghiệp hiện nay là nhiều cổ đông, nhất là cổ đông thiểu số không thực
sự quan tâm đến các quyền của mình. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác

nhau như: việc chủ động tìm hiểu các quy định pháp luật có liên quan của cổ đông,
việc tuân thủ của chính công ty và ban lãnh đạo với các quy định của pháp luật về bảo
vệ cổ đông, vai trò giám sát và xử lý vi phạm một cách kịp thời và nhanh chóng của
các cơ quan cơ liên quan ( sở KH& ĐT, UBCK, Tòa án Nhân dân ). Để minh họa
cho những bất cập này, ta có thể thấy ví dụ về việc hai cổ đông với 13.600 cổ phần
"quyết định" tương lai của CTCP Khoáng sản Hòa Bình (mã KHB). Ngày 4/12/2013,
trong khi các doanh nghiệp đang hối hả tổng kết kinh doanh năm cũ để đưa ra phương
án sản xuất – kinh doanh năm 2014, thì tại CTCP Khoáng sản Hòa Bình, diễn ra cuộc
họp ĐHCĐ thường niên 2013. 13.600 cổ phần "quyết định" tương lai của CTCP
20

Khoáng sản Hòa Bình (mã KHB). Vốn điều lệ 62,7 tỷ đồng, nhưng chỉ có 2 cổ đông,
với 13.600 cổ phần sở hữu dự họp, KHB vẫn đủ điều kiện tổ chức họp ĐHCĐ thường
niên và họp thành công, vì đây là lần thứ 3, HĐQT triệu tập họp. Hai lần trước đó, các
cuộc họp diễn ra vào ngày 28/10/2013 và 18/11/2013 không được tổ chức thành công,
vì cũng chỉ có 2 cổ đông, đại diện cho 13.600 cổ phần tham dự họp. Việc chỉ có 2 cổ
đông, với 13.600 cổ phần tham dự ĐHCĐ thường niên cho thấy, Ban lãnh đạo Công
ty cũng không mặn mà với chính DN mình đang trực tiếp quản lý, điều hành. Với thực
trạng thua lỗ triền miên 7 quý liền, doanh thu sụt giảm, KHB đang đối diện với một
câu chuyện buồn cười: người có tiền (cổ đông, ông chủ) không để ý, còn người có
quyền (HĐQT, Ban điều hành) không tập trung kinh doanh, doanh nghiệp như bị bỏ
rơi.
II. Bài học kinh nghiệm
1. Xây dựng hành lang pháp lý để bảo vệ cổ đông thiểu số
Hệ thống pháp luật được xây dựng một cách đồng bộ, đầy đủ và hoàn chỉnh là
cơ sở cho các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và nhà đầu tư nghiên cứu, áp dụng có
hiệu quả. Để đảm bảo sự bình đẳng ngang nhau giữa các cổ đông cùng sở hữu một
loại cổ phiếu thì pháp luật cần quan tâm, bảo vệ hơn nữa đến quyền lợi của các cổ
đông nhỏ, cổ đông thiểu số. Xây dựng và thực thi các chế tài nghiêm khắc trong các
công ty có những hoạt động vi phạm quyền lợi của các cổ đông và đặc biệt là cổ đông

thiểu số. Pháp luật có thể mở rộng quyền của các cổ đông nhỏ thông qua việc tạo cho
họ có các quyền khởi kiện đối với HĐQT nếu xét thấy thành viên HĐQT có sự vi
phạm làm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến quyền lợi của các cổ đông. Cổ đông
cũng có quyền khởi kiện yêu cầu hủy bỏ các quyết định của ĐHĐCĐ trong trường
hợp việc ra các quyết định này có sự vi phạm về trình tự, thủ tục hoặc vi phạm về bản
chất nội dung của quyết định
2. Xây dựng và thực hiện hoạt động giám sát có hiệu quả
Trên cơ sở của các quy định của pháp luật, cần tạo ra một cơ chế giám sát chặt
chẽ, hiệu quả. Các cơ quan giám sát từ hệ thống các cơ quan quản lý hành chính nhà
nước, cơ quan cấp giấy phép đăng ký kinh doanh, cơ quan thuế, cơ quan cấp phép
niêm yết cổ phần, các cơ quan trong hệ thống quản lý các công ty cổ phần niêm yết
trên các sàn giao dịch chứng khoán. Các cơ quan trong hệ thống tư pháp như tòa án,
luật sư cũng có vai trò rất quan trọng trong việc vận dụng các cơ chế bảo vệ quyền lợi
của cổ đông vào thực tế. Các cơ quan độc lập như Tổ chức trọng tài, kiểm toán độc
lập hay các cơ quan ngôn luận, báo chí, phát thanh, truyền hình cũng là một kênh
giám sát nhằm ngăn chặn và bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông khi có dấu hiệu bị vi
phạm.
Việc giám sát trực tiếp từ các cổ đông cũng rất có hiệu quả nếu có sự can thiệp
của các cơ quan có liên quan. Cổ đông là người trực tiếp quan tâm đến chính quyền
lợi của mình, nên các cổ đông thường xuyên tìm kiếm các thông tin đến công ty mà
mình đầu tư. Mỗi khi biết được có sự vi phạm từ phía HĐQT hay từ người quản lý các
21

cổ đông có thể trực tiếp vận dụng các quyền năng của mình hoặc phối hợp với các cá
nhân, tổ chức có quyền năng cao hơn nhằm hạn chế hay ngăn chặn những thiệt hại cho
công ty và cho chính các cổ đông.
3. Cổ đông thiểu số tự bảo vệ mình
Các cổ đông thiểu số có thể thực hiện quyền cổ đông thông qua việc tham dự
hội nghị cổ đông, đề xuất chương trình hành động tại hội nghị cổ đông, bầu ban lãnh
đạo, thực hiện các hành vi pháp lý như nộp hồ sơ kiện dân sự, nộp hồ sơ điều tra hình

sự.
Các cổ đông nhỏ cần nghiên cứu quyền lợi và nghĩa vụ của mình trước khi
tham gia vào công ty. Các cổ đông nhỏ cần có sự tư vấn của các chuyên gia hay thuê
luật sư tư vấn và cần liên kết lại để tự bảo vệ mình.






22

KẾT LUẬN
Doanh nghiệp niêm yết là một hình thức doanh nghiệp phổ biến trên thế giới
hiện nay. Doanh nghiệp niêm yết có ưu thế vượt trội về khả năng huy động được
lượng vốn lớn trong thời gian vô cùng ngắn, bên cạnh đó, doanh nghiệp niêm yết còn
có khả năng chuyển nhượng vốn linh hoạt, hình thức doanh nghiệp lại đặc biệt thích
hợp cho các lĩnh vực kinh doanh có quy mô sản xuất lớn, kinh doanh đa ngành nghề,
nhất là ở Việt Nam. Vì những lý do đó, doanh nghiệp niêm yết ngày càng thu hút
được nhiều sự chú ý từ các nhà đầu tư.
Việt Nam đang ở trong giai đoạn nền kinh tế thị trường phát triển nhanh và
mạnh mẽ, điều đó lại càng đòi hỏi các doanh nghiệp niêm yết phải phát triển với tốc
độ cao, nhưng đồng thời cũng phải bền vững, mà vai trò không thể thiếu là của các
doanh nghiệp niêm yết.
Một doanh nghiệp niêm yết có thể phát triển đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế
thị trường được hay không là phụ thuộc hoàn toàn vào các cổ đông, trong đó số lượng
cổ đông thiểu số không hề nhỏ. Vì vậy, vấn đề cấp thiết được đặt ra lúc này chính là
việc cải tổ hệ thống pháp lý nước nhà để có thể bảo vệ một cách hiệu quả quyền và lợi
ích của cổ đông thiểu số. Có như vậy thì các nhà đâu tư mới sẵn sàng góp vốn, qua đó,
thúc đẩy thị trường phát triển. Có thể nói, chú trọng đến việc bảo vệ cổ đông thiểu số

trong doanh nghiệp niêm yết mang ý nghĩa quan trọng đối với từng cổ đông, từng
doanh nghiệp và với cả nền kinh tế của quốc gia.
Thông qua việc nghiên cứu và trình bày các vấn đề cơ bản, thực trạng và giải
pháp bảo vệ cổ đông thiểu số ở Nhật, Mỹ, và ở Việt Nam, nhóm 6 đã rút ra những bài
học, giải pháp cho tình trạng này ở nước ta với mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp lý để bảo vệ cổ đông thiểu số ở Việt Nam.

23

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính phủ (2005), Luật doanh nghiệp 2005
2. Chính phủ (2006), Luật chứng khoán 2006
3. Chính phủ (2010), Luật các tổ chức tín dụng 2010
4. Chính phủ (2010), Nghị định 102/2010/NĐ-CP Hướng dẫn chi tiết thi hành
một số điều của Luật Doanh nghiệp
5. Bành Quốc Tuấn và Lê Hữu Linh (2012), Hoàn thiện cơ chế bảo vệ cổ đông
thiểu số trong công ty cổ phần,
o/index.php/kttc/article/viewFile/12145/11083
6. Luận văn Bảo vệ cổ đông thiểu số. Tác giả: Đỗ Tuấn Hùng
7. “Đạo luật bảo vệ các cổ đông thiểu số bị đàn áp: Một mô hình để cải cách”,
Allen B. Afterman.
8. “Bảo vệ cổ đông thiểu số trong các công ty cổ phần niêm yết ở Hoa Kì” – tác
giả Arthur R. Pinto - Brooklyn Law School.


×