Tải bản đầy đủ (.docx) (102 trang)

Đề cương chi tiết môn triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.08 KB, 102 trang )

Đề cương chi tiết môn Triết học – TS. Nguyễn Thái Sơn
Người Hy Lạp cổ đại gọi triết học là philosophia, ghép từ hai từ
philos- tình yêu và sophia- sự thông thái. Như vậy, theo nghĩa đen,
triết học là tình yêu sự thông thái. Nhà triết học là nhà thông thái bởi
nó có khả năng làm sáng tỏ bản chất của sự vật, hiện tượng bằng hệ
thống khái niệm, phạm trù và quy luật.

I. CHƯƠNG TRÌNH MÔN TRIẾT HỌC
Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành
triết học
Ban hành theo Quyết định số 33/2004/QĐ-BGD&ĐT ngày 28/9/2004
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo

Chươn
g
Nội dung Tiết
I Triết học và vai trò của triết học
trong đời sống xã hội
2
II Khái lược lịch sử triết học
phương Đông
10
III Khái lược lịch sử triết học
phương Tây
10
IV Khái lược lịch sử triết học Mác -
Lênin
12
V Chủ nghĩa duy vật biện chứng-
cơ sở lý luận của thế giới quan
khoa học


8
VI Phép biện chứng duy vật- phương
pháp luận nhận thức khoa học và
thực tiễn
10
VII Nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận với thực tiễn của triết học
Mác-Lênin
6
VIII Lý luận Hình thái kinh tế - xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam
12
IX Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong
thời đại hiện nay và vận dụng
vào sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
6
X Lý luận về nhà nước và nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam
7
XI Quan điểm của triết học Mác -
Lênin về con người và vấn đề
xây dựng con người Việt Nam
hiện nay
7
Chương trình gồm 11 chương, 6 đvht (90 tiết)
II. ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT MÔN TRIẾT HỌC
(Biên soạn theo Giáo trình Triết học dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh

không thuộc chuyên ngành triết học của Bộ Giáo dục và Đào tạo
do Nxb, Lý luận Chính trị, Hà Nội, ấn hành năm 2006)

CHƯƠNG I. TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI
SỐNG XÃ HỘI
PGS.TS. Đoàn Quang Thọ,
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.

Người trình bày: Tiến sỹ Nguyễn Thái Sơn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Điện thoại 0913541171.
Đối tượng: Học viên cao học ngành Kinh tế.
Thời lượng: 0 tiết trên lớp, 2 tiết tự học.
Thời gian: 17g30 ngày 11/12/06.
Địa điểm: Hội trường 8, Nhà B4, Trường Đại học Ngoại ngữ.

I. KHÁI NIỆM TRIẾT HỌC VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA TRIẾT
HỌC
1. Khái niệm triết học
- Khái niệm triết học.
+ Người Hy Lạp cổ đại gọi triết học là philosophia, ghép từ hai từ philos-
tình yêu và sophia- sự thông thái. Như vậy, theo nghĩa đen, triết học là tình yêu sự
thông thái. Nhà triết học là nhà thông thái bởi nó có khả năng làm sáng tỏ bản chất
của sự vật, hiện tượng bằng hệ thống khái niệm, phạm trù và quy luật.
+ Triết học xuất hiện cả ở phương Đông và phương Tây vào khoảng từ thế
kỷ VIII - VI trước Công nguyên (tr.c.n) tại một số nền văn minh cổ đại như Trung
Quốc, Ấn Độ, Ai Cập, trung Đông v.v, nhưng triết học kinh điển chỉ phát triển ở
Hy Lạp cổ đại.
- Định nghĩa triết học. Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của
con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
2. Đối tượng nghiên cứu của triết học

- Triết học thời cổ đại được gọi là khoa học của mọi khoa học. Triết học tự
nhiên là hình thức đầu tiên của triết học.
- Triết học thời Trung cổ được gọi là triết học Kinh viện với nhiệm vụ lý giải
và chứng minh cho sự đúng đắn của các giáo điều Kinh Thánh.
- Triết học thời Phục hưng và Cận đại được gọi là siêu hình học với nghĩa là
nền tảng thế giới quan của con người.
- Triết học Mác-Lênin là khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất về
sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy;
đồng thời tiếp tục làm rõ vấn đề về mối quan hệ giữa tư duy với tồn tại.
II. TÍNH QUY LUẬT VỀ SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC
Sự hình thành, phát triển của triết học gắn với tiền đề kinh tế - xã hội và
tiền đề nhận thức.
1. Tiền đề kinh tế - xã hội. Triết học ra đời khi xã hội đã có sự phân công
lao động thành lao động trí óc và lao động chân tay; gắn liền với cuộc đấu tranh
giai cấp.
2. Tiền đề nhận thức. Triết học ra đời khi tư duy con người đã đạt đến trình
độ khái quát nhất định để đáp ứng nhu cầu nhận thức tổng thể về thế giới và con
người; khi các thành tựu của khoa học chuyên ngành đã có vai trò nhất định đối
với nội dung các tư tưởng và học thuyết triết học. Có thể khẳng định rằng, triết học
ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn quy định.
III. VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1. Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học
- Vai trò thế giới quan của triết học.
+ Định nghĩa. Thế giới quan là quan niệm của con người về thế giới và về vị
trí, vai trò của con người trong thế giới đó.
+ Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, bởi triết học mô tả những
vấn đề của thế giới quan bằng hệ thống các khái niệm và phạm trù, quy luật. Hơn
nữa, triết học không chỉ nêu ra các quan điểm của mình mà còn chứng minh cho
các quan điểm đó bằng lý tính. Thông qua thế giới quan triết học, thế giới quan sẽ
được thể hiện qua các quan điểm về kinh tế, chính trị, đạo đức, pháp luật, tôn giáo

v v
+ Các cấp độ thế giới quan.
Thế giới quan có nhiều cấp độ khác nhau như thế giới quan huyền thoại; thế
giới quan tôn giáo; thế giới quan triết học (thế giới quan duy vật và thế giới quan
duy tâm); thế giới quan khoa học và thế giới quan không khoa học v.v. Việc xác
định cấp độ, nội dung thế giới quan phụ thuộc vào vấn đề, liệu lợi ích giai cấp có
phù hợp khách quan đối với xu hướng của sự phát triển lịch sử, với khoa học và
với thực tiễn xã hội hay không.
+ Vai trò của thế giới quan triết học đối với nhận thức và thực tiễn.
Bản chất của thế giới quan là sự thống nhất biện chứng giữa nhận thức -
đánh giá với thực tiễn - cải tạo; đưa lại cho con người khả năng tạo ra các mục
đích xác định, đưa ra kế hoạch, lý tưởng chung của cuộc sống, làm cho thế giới
quan có sức mạnh hiện thực.
- Vai trò phương pháp luận của triết học.
+ Định nghĩa. Phương pháp luận là hệ thống các quan điểm, nguyên tắc
xuất phát chỉ đạo chủ thể trong việc xác định phương pháp cũng như xác định
phạm vi, khả năng áp dụng phương pháp hợp lý, có hiệu quả tối đa.
+ Các cấp độ phương pháp luận.
Phương pháp luận có nhiều cấp độ khác nhau như phương pháp luận ngành
là phương pháp luận của các ngành khoa học cụ thể; phương pháp luận chung là
các quan điểm, nguyên tắc chung hơn cấp độ ngành, dùng để xác định phương
pháp hay phương pháp luận của nhóm ngành có đối tượng nghiên cứu chung nào
đó; phương pháp luận chung nhất (phương pháp luận triết học) khái quát các quan
điểm, nguyên tắc chung nhất làm cơ sở cho việc xác định các phương pháp luận
ngành, chung và các phương pháp hoạt động cụ thể của nhận thức và thực tiễn.
+ Vai trò của phương pháp luận triết học đối với nhận thức và thực tiễn thể
hiện ở chỗ nó chỉ đạo sự tìm kiếm, xây dựng; lựa chọn và vận dụng các phương
pháp để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn; đóng vai trò định hướng trong
quá trình tìm tòi, lựa chọn và vận dụng phương pháp.


2. Vai trò của triết học đối với các khoa học chuyên ngành và tư duy lý
luận
- Vai trò của triết học đối với các khoa học chuyên ngành.
Sự hình thành, phát triển của triết học gắn với sự khái quát những thành tựu
phát triển của khoa học chuyên ngành. Ngược lại, triết học đóng vai trò là thế giới
quan và phương pháp luận cho khoa học chuyên ngành; là cơ sở lý luận cho việc
đánh giá các thành tựu mà khoa học chuyên ngành đạt được; vạch ra phương
hướng, chỉ ra phương pháp cho việc nghiên cứu của các khoa học đó.
- Triết học có vai trò to lớn đối với việc rèn luyện năng lực tư duy lý luận
của con người, bởi “một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì
không thể không có tư duy lý luận”./.
CHƯƠNG II. KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG
PGS.TS. Trần Văn Thuỵ, Trường Đại học Y Hà Nội,
TS. Phạm Văn Sinh, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.

Người trình bày: Tiến sỹ Trần Đăng Sinh, Chủ nhiệm Bộ môn Triết
học, Khoa Giáo dục Chính trị, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Điện thoại
0912206853.
Đối tượng: Học viên cao học ngành Kinh tế, Sư phạm v.v.
Thời lượng: 8 tiết trên lớp, 2 tiết tự học (Giảng viên nêu những vấn đề
tự học).
Thời gian: 17g30 các tối thứ 5 (14/12), thứ 7 (16/12) và thứ 2
(18/12/2006).
Địa điểm: Hội trường 8, Nhà B4, Trường Đại học Ngoại ngữ.

I. TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ, TRUNG ĐẠI
1. Điều kiện ra đời, phát triển và đặc thù của triết học Ấn Độ cổ, trung đại
a. Điều kiện ra đời của triết học Ấn Độ cổ, trung đại
- Điều kiện tự nhiên.
Ấn Độ là bán đảo lớn ở nam Á, có điều kiện tự nhiên và khí hậu rất phức

tạp, địa hình có nhiều núi (Hymalaya ở phía Bắc quanh năm tuyết phủ), nhiều sông
(sông Hằng chảy về phía Đông, sông Ấn chảy về phía Tây) với những đồng bằng
trù phú; có vùng khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có vùng sa mạc khô cằn, nóng nực.
Tính khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên và khí hậu là những thế lực đè nặng lên
cuộc sống và ghi dấu ấn đậm nét lên tâm trí người Ấn Độ cổ, trung đại.
- Điều kiện kinh tế - xã hội và văn hoá. Xã hội Ấn Độ cổ đại là xã hội mang
tính chất công xã nông nghiệp với sự phân chia đẳng cấp hết sức nghiệt ngã. Nền
văn hoá Ấn Độ cổ, trung đại thường được chia thành ba giai đoạn chính.
b. Quá trình hình thành, phát triển của triết học tôn giáo Ấn Độ cổ,
trung đại
- Giai đoạn từ thế kỷ XV - VIII tr.c.n gọi là nền văn minh sông Ấn hay còn
gọi là nền văn minh Vệđà (Véda).
+ Đây là nền văn minh đồ đồng mang tính chất đô thị của một xã hội đã vượt
qua trình độ nguyên thuỷ, đang tiến vào giai đoạn đầu của chế độ chiếm hữu nô lệ,
trong đó nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương nghiệp đã đạt tới một trình
độ nhất định. Kinh tế bao gồm nông nghiệp, thương nghiệp; nghề dệt bông len, đúc
đồng, điêu khắc, gốm sứ tráng men, làm đồ nữ trang phát triển. Thành phố được
xây bằng gạch nung. Xã hội đã phân chia giàu, nghèo; xuất hiện chữ viết; thờ Thần
Shiva. Đầu thiên niên kỷ II tr.c.n, nền văn minh này lụi tàn nhưng chưa rõ nguyên
nhân.
+ Đây là thời kỳ hình thành các quốc gia chiếm hữu nô lệ đầu tiên của
người Arya ở phía Bắc và cũng là thời kỳ rực rỡ nhất của nền văn minh Ấn Độ cổ
đại. Bộ lạc Arya tràn xuống châu thổ sông Hằng. Hình thành nhiều tôn giáo có ảnh
hưởng lớn đến cuộc sống của xã hội Ấn Độ cổ đại. Xuất hiện chế độ đẳng cấp dựa
trên sự phân biệt về chủng tộc, màu da, dòng dõi, nghề nghiệp, tôn giáo, quan hệ
giao tiếp, tập tục hôn nhân v.v. Tiêu biểu về mặt tư tưởng cho sự phân chia đẳng
cấp xã hội là đạo Bàlamôn, quy định cơ cấu xã hội và có ảnh hưởng lớn đến hình
thái tư tưởng Ấn Độ cổ đại. Việc phân chia xã hội thành những đẳng cấp với
những tính chất khắt khe, nghiệt ngã đã ảnh hưởng lớn đến đời sống của nông dân,
thương nhân, thợ thủ công thành thị, ngăn cản sự phát triển của sản xuất xã hội;

dẫn xã hội đến sự bất bình đẳng, tự do gây nên cuộc đấu tranh của các tôn giáo
chống lại sự thống trị của Đạo Bàlamôn và Kinh Vệđà.
- Giai đoạn từ thế kỷ VI tr.c.n - VI, là thời kỳ cổ điển, hay còn gọi là thời kỳ
Bàlamôn - Phật giáo. Đây là thời kỳ hình thành các trào lưu triết học tôn giáo lớn
của Ấn Độ, gồm hai trường phái lớn đối lập nhau. Trường phái triết học chính
thống (thừa nhận uy quyền tuyệt đối của kinh Véda) gồm 6 phái là Sámkhuya,
Mimànsa, Vedànta, Yoga, Nyanya và Vaisésika. Trường phái triết học không chính
thống (không thừa nhận uy quyền của kinh Véda) gồm 3 trường phái là Jaina giáo,
đạo Phật và Lokayàta.
Sự phát triển của các tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại không chỉ gắn liền với
việc giải quyết những vấn đề do đời sống xã hội đặt ra mà còn luôn gắn liền với
những tiến bộ của khoa học. Ngay từ thời Vệđà khoa học tự nhiên bắt đầu xuất
hiện như Thiên văn học (tạo ra lịch pháp, phỏng đoán trái Đất hình cầu và tự quay
quanh trục của nó); cuối thế kỷ V tr.c.n đã giải thích được hiện tượng nhật, nguyệt
thực; phát minh ra chữ số thập phân; tính được số p; biết được những định luật cơ
bản về quan hệ giữa cạnh với đường huyền của tam giác vuông, giải được phương
trình bậc 2, 3; y học phát triển (trong kinh Vệđà người ta thấy tên và cách sử dụng
nhiều cây thuốc để chữa bệnh); nghệ thuật kiến trúc Ấn Độ để lại phong cách độc
đáo, đặc biệt là lối xây dựng Chùa, tháp Phật vừa có ý nghĩa triết học, tôn giáo vừa
biểu hiện ý chí, vương quyền. Những năm đầu công nguyên, văn hoá Ấn Độ đã
phát triển lên một bước mới do sự giao lưu với Hy Lạp - La Mã và với các nước
khác trên thế giới.
- Giai đoạn từ thế kỷ VII - XVIII, là thời kỳ sau cổ điển hay còn gọi là thời
kỳ xâm nhập của Hồi giáo.
+ Từ thế kỷ VII, Đạo Hồi xâm nhập vào Ấn Độ, tạo nên cuộc cạnh tranh
ảnh hưởng quyết liệt giữa đạo Phật, đạo Bàlamôn và đạo Hồi.
+ Đạo Phật suy yếu dần, còn đạo Bàlamôn chuyển thành đạo Hinđu vào thế
kỷ XII.
2. Một số nội dung triết học Ấn Độ cổ, trung đại
a. Tư tưởng bản thể luận

- Bản thể luận thần thoại, tôn giáo.
+ Người Ấn Độ cổ đại tạo nên các vị thần có tính tự nhiên. Có những vị
tượng trưng cho sức mạnh của lực lượng tự nhiên; có những vị dùng các vị thần để
lý giải các hiện tượng xã hội, luân lý, đạo đức. Trong vũ trụ tồn tại thiên giới, trần
thế và địa ngục, giữa chúng có mối liên hệ với nhau. Các thần khác nhau là sự thể
hiện khác nhau của một Thượng Đế toàn năng duy nhất. Người Ấn Độ cổ đại cúng
thần không chỉ vì mê tín, mà còn vì lòng tin; qua biểu tượng các vị thần họ phân
tích, lý giải các hiện tượng tự nhiên, sự thay đổi của vũ trụ theo nguyên lý thích
hợp (rita) do các thần chi phối.
+ Về sau, quan niệm về các vị thần có tính chất tự nhiên được thay thế bằng
Thần sáng tạo tối cao (Brahman) và Tinh thần tối cao (Bahman). Brahman đối lập
với thần huỷ diệt Shiva. Shiva đối lập với thần bảo vệ Vishnu. Sáng tạo, huỷ diệt
và bảo tồn là ba mặt thống nhất trong quá trình biến hoá của vũ trụ. Như vậy, quá
trình hình thành, phát triển tư tưởng triết học tôn giáo đi từ sự giải thích các sự vật,
hiện tượng tự nhiên thông qua các vị thần cụ thể tới cái chung, cái bản chất là Thần
sáng tạo tối cao hay Tinh thần tối cao và đó là bước chuyển thế giới quan, từ thần
thoại tôn giáo sang triết học.
- Tư duy triết học về bản thể luận.
+ Nội dung cơ bản của kinh Upanisad (có tài liệu viết Upanishad có nghĩa là
ngồi nghiêm trang để cùng giảng giải lý thuyết cao siêu, huyền bí với thầy) là cơ sở
triết lý cho đa số các hệ thống triết học tôn giáo Ấn Độ. Theo đó, Brahman là thực
tại đầu tiên, tối cao nhất; là bản nguyên, căn nguyên, là linh hồn, là nguồn sống, là
bản chất nội tại của mọi cái. Sự vật, hiện tượng dù đa dạng, phong phú đến mấy, kể
cả con người, đều là các dạng của Brahman. Linh hồn con người (Atman) cũng là
một bộ phận của Brahman, còn cơ thể (nhục thể) con người là vỏ bọc của linh hồn,
nhưng do con người lầm tưởng linh hồn là cái khác với Linh hồn tối cao nên ham
muốn dục vọng và hành động để thoả mãn dục vọng đó, gây ra hậu quả, gieo đâu
khổ cho kiếp này và kiếp sau (gọi là nghiệp báo). Do vậy, linh hồn cứ bị giam hãm
hết trong thể xác này rồi trong thể xác kia, luân hồi mãi mà không trở về với mình
là Brahman được. Muốn linh hồn được giải thoát khỏi nghiệp báo, luân hồi; thoát

khỏi đời sống nhục dục để quay về với mình là Brahman, con người phải toàn tâm,
toàn ý tu luyện hành động và tu luyện tri thức để siêu thoát.
+ Kinh Upanisad chia nhận thức Bản thể tuyệt đối tối cao của vũ trụ thành
trình độ nhận thức hạ trí gồm các tri thức khoa học thực nghiệm, ngữ pháp, luật
học, bốn tập kinh Vệđà dùng để phản ánh sự vật, hiện tượng hữu hình, hữu hạn;
trình độ nhận thức này là phương tiện để đạt tới trình độ nhận thức thượng trí.
Trình độ nhận thức thượng trí có thể nhận biết được Brahman và khi đã nhận biết
được Brahman, nhận thức được chân tướng của các sự vật, hiện tượng và chân tính
của mình thì con người đạt đến giác ngộ, giải thoát
b. Tư tưởng giải thoát của triết học tôn giáo Ấn Độ
Vấn đề cơ bản nhất trong triết học Ấn Độ cổ, trung đại là bản chất, ý nghĩa
cuộc sống; là nguồn gốc nỗi khổ của con người và con đường, cách thức giải thoát
con người khỏi bể khổ. Giải thoát là giải thoát trạng thái tinh thần, tâm lý, đạo đức
của con người thoát khỏi sự ràng buộc của thế giới trần tục và nỗi khổ của cuộc
đời; giải thoát khỏi luân hồi- nghiệp chướng của con người.
- Cội nguồn của tư tưởng giải thoát là do điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh kinh
tế - xã hội quy định; do tính hướng nội, đi sâu khái quát đời sống tâm linh của con
người của các nhà tư tưởng Ấn Độ cổ, trung đại.
- Trong các trường phái triết học khác nhau, phương tiện, con đường, cách
thức có thể khác nhau, nhưng đều có mục đích chung là giải thoát con người khỏi
luân hồi- nghiệp chướng.
+ Tư tưởng giải thoát manh nha từ thời Rig Vệđà (1500 - 1000 tr.c.n) đến
Brahman (1000 - 800 tr.c.n) và phát triển trong kinh Upanisad (800 - 500 tr.c.n) và
được các trường phái triết học thời kỳ Bàlamôn - Phật giáo (VI tr.c.n - VI) khai
thác. Nội dung triết lý, khuynh hướng giáo lý và quan điểm đạo đức nhân sinh
khác nhau, nhưng dường như tất cả các trường phái đều tìm kiếm, phát hiện và trở
về với bản chất và lương tâm của chính mình khi con người lãng quên chúng bởi
còn vô minh, tham dục.
+ Cách thức và con đường giải thoát của các trường phái triết học khác
nhau; Kinh Vệđà tôn thờ và cầu xin sự phù hộ của thần linh; kinh Upanisad đồng

nhất giữa linh hồn con người (Atman) với vũ trụ (Brahman); Mimànsa giải thoát
bằng nghi thức tế tự và chấp hành nghĩa vụ xã hội, tôn giáo; Yôga giải thoát bằng
tu luyện về thể xác; Jaina giải thoát bằng tu luyện đạo đức (không sát sinh, không
ăn cắp, không nói dối, không dâm dục, không tham lam); Lokayàta giải thoát bằng
cách phủ nhận quan điểm linh hồn bất tử, nghiệp chướng luân hồi, chấp nhận cuộc
sống có hạnh phúc và có đau khổ; đạo Phật giải thoát bằng tu luyện trí tuệ, thiền
định và tu luyện đạo đức theo giới luật để diệt trừ tham dục, tâm hồn thanh tịnh,
hoà nhập vào niết bàn.
Như vậy, tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ cổ, trung đại thể hiện tính
nhân văn sâu sắc. Tuy mới chỉ giải thoát về mặt tư tưỏng nhưng tư tưởng giải thoát
đó đã phản ánh những yêu cầu của đời sống xã hội Ấn Độ đương thời.
3. Đặc điểm cơ bản của triết học Ấn Độ cổ, trung đại
- Triết học Ấn Độ cổ, trung đại đã lý giải căn nguyên của vũ trụ; các học
thuyết kế thừa tư tưởng của nhau, tạo nên những khái niệm, phạm trù triết học - tôn
giáo cơ bản, mang tính truyền thống, chịu sự chi phối mạnh mẽ của kinh Vệđà và
các tôn giáo lớn của Ấn Độ cổ, trung đại.
- Triết học Ấn Độ cổ, trung đại có nội dung tư tưởng và hình thức đa dạng,
phản ánh đời sống xã hội Ấn Độ đương thời; hầu hết các trường phái triết học Ấn
Độ cổ, trung đại đều tập trung lý giải bản chất đời sống tâm linh; tìm căn nguyên
nỗi khổ của cuộc đời, chỉ ra cách thức, con đường để giải thoát khỏi những nỗi khổ
đó.
- Triết học Ấn Độ cổ, trung đại được nhân dân Ấn Độ vận dụng và được
truyền bá rộng rãi tới nhiều quốc gia trên thế giới.
II. TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ, TRUNG ĐẠI
1. Điều kiện ra đời và phát triển của triết học Trung Quốc cổ, trung đại
Trung Quốc là một trong những chiếc nôi văn minh của nhân loại, là trung
tâm văn hoá và triết học rực rỡ, phong phú của phương Đông. Sự hình thành và
phát triển của các tư tưởng triết học Trung Quốc cổ, trung đại gắn liền với quá
trình biến đổi của điều kiện kinh tế - xã hội, văn hoá và sự phát triển của những
mầm mống khoa học tự nhiên trong xã hội Trung Quốc qua từng thời kỳ.

a. Điều kiện ra đời của triết học Trung Quốc cổ, trung đại
- Điều kiện tự nhiên. Trung Quốc cổ, trung đại là một quốc gia rộng lớn,
phía Bắc xa biển, khí hậu khắc nghiệt, đất đai khô cằn; phía Nam có sông Hoàng
Hà, Dương Tử, khí hậu thuận lợi; phía Đông là biển với địa hình phức tạp; phía
Tây là các dãy núi cao.
- Điều kiện kinh tế - xã hội và văn hoá.
+ Thời Xuân thu (770 - 475 tr.c.n), công cụ lao động và sự phân công lao
động đã phát triển khá mạnh; có lưỡi cày bằng sắt và đã dùng bò kéo, thuỷ nông
góp phần nâng cao năng suất lao động, chăn nuôi đã tách khỏi tách khỏi trồng trọt;
thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển, xuất hiện các nghề mới như luyện
kim, đúc, rèn sắt, nhôm, đồ gốm; nông dân vỡ hoang tạo ra nhiều số lượng ruộng
tư, quý tộc phong kiến chiếm đoạt đất công tạo ra chế độ sở hữu tư nhân về ruộng
đất. Trung Quốc cổ, trung đại bị chia ra thành các nước Tề, Tấn, Tần, Sở, Tống và
về sau thêm Ngô, Việt. Người dân càng đói khổ hơn vì các cuộc chiến tranh đó.
+ Thời Chiến quốc (475 - 221 tr.c.n), công cụ và sự phân công lao động
phát triển mạnh hơn. Nghề luyện sắt hưng thịnh; buôn bán phát triển tạo nên những
đô thị và các làng xóm bên các bờ sông; các nghề thủ công như đồ gốm, chạm bạc,
ươm tơ, dệt lụa và đúc tiền ra đời; các công trình thuỷ lợi được xây dựng nhiều tại
các lưu vực sông Hoàng Hà đến Dương Tử. Chế độ tự do mua, bán ruộng đất tạo ra
hình thức bóc lột phát canh, thu tô, quan hệ sản xuất nông nô xuất hiện và dần
chiếm ưu thế trong đời sống xã hội. Trong giai đoạn đầy biến động đó của lịch sử
Trung Quốc cổ, trung đại, xuất hiện một loạt những vấn đề đặt ra cho các nhà tư
tưởng lớn.

b. Quá trình hình thành và phát triển của triết học Trung Quốc cổ,
trung đại
- Mầm mống tư tưởng triết học Trung Quốc. Triết học Trung Quốc cổ đại
ra đời từ cuối thiên niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I tr.c.n khi xã hội đánh dấu sự tan
rã của chế độ nô lệ và bắt đầu hình thành các quan hệ xã hội phong kiến phức tạp.
Tính chất phức tạp đó của xã hội được phản ánh trong tính phức tạp của triết học

Trung Quốc.
+ Vào thời Tam đại (Hạ, Thương, Chu, từ thiên niên kỷ II - I tr.c.n), những
biểu tượng tôn giáo - triết học xuất hiện với những biểu tượng về Đế, Thượng Đế,
Thiên mệnh, Quỷ thần v.v.
+ Đầu thiên niên kỷ I xuất hiện thêm những biểu tượng về Âm dương - Ngũ
hành. Cuộc đấu tranh giữa các quan điểm của các trường phái diễn ra xung quanh
các biểu tượng đó và diễn ra quanh vấn đề khởi nguyên của thế giới[1]; vấn đề con
người và số phận con người; vấn đề đạo đức, tri thức v.v.
- Vào thời Đông Chu (Xuân Thu - Chiến Quốc, 770 - 221 tr.c.n), tư tưởng
triết học có hệ thống được hình thành và là những mầm mống ban đầu của các loại
thế giới quan và phương pháp luận của văn hoá Trung Quốc cổ, trung đại. Đây là
thời kỳ xuất hiện nhiều học thuyết chính trị - xã hội, triết học, có đến 6 trường phái
triết học chủ yếu là Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia, Danh gia và Âm Dương
gia (Kinh học của Khổng tử; Huyền học củaLão tử; Âm Dương gia của Trâu Diễn
và những người khác; Phật học rồi về sau là Lý học, Thực học v.v) và chúng không
ngừng đấu tranh với nhau.
2. Một số nội dung triết học Trung Quốc cổ, trung đại
a. Tư tưởng bản thể luận
Tuy không rõ ràng như các nền triết học khác trong thế giới nhưng tư tưởng
về bản thể luận trong triết học Trung Quốc cổ, trung đại cũng có những đặc điểm
của mình.
- Trong Nho gia, Trời, Đạo Trời và Mệnh Trời được Khổng Tử làm chỗ
dựa khi luận bàn đến các vấn đề thuộc chính trị, đạo đức và xã hội. Những quan
niệm đó được các nhà triết học hậu thế bổ sung khác nhau. Mạnh Tử coi mệnh Trời
sinh ra con người và thế giới, Trời quy định số phận con người; Tuân Tử cho rằng
Trời Đất hợp lại thì sinh ra vạn vật, âm dương giao tiếp với nhau thì sinh ra biến
hoá; Vương Sung, Trương Tải đều coi nguyên khí là yếu tố đầu tiên, là nguồn gốc
của thế giới.
- Trong Đạo gia, Đạo là bản nguyên của thế giới theo trình tự đạo sinh một,
một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh ra vạn vật. Trong Âm Dương gia, âm dương là

hai khí, hai nguyên lý tác động qua lại với nhau làm sản sinh ra vạn vật. Kinh Dịch
bổ sung thêm Thái cực, theo đó tiến hoá trong vũ trụ theo lịch trình Thái cự sinh
Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tư tượng; Tư tượng sinh Bát quái, Bát quái sinh vạn
vật (384 sự vật, hiện tượng).
b. Tư tưởng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức
Tư tưởng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức được thể hiện trong các
cặp Thần - Hình, Tâm - Vật, Lý - Khí.
- Thần - Hình xuất hiện thời Hán với quan điểm Thần là bản nguyên của
Hình, Hình là phái sinh từ Thần của Đổng Trọng Thư. Ngược lại, Vương Sung phê
phán quan điểm trên của Đổng Trọng Thư và khẳng định rằng không thể tồn tại
tinh thần vô hình; Trọng Thường Thông coi thần học, mê tín là do những kẻ thống
trị đề xướng.
- Tâm - Vật xuất hiện thời Tuỳ - Đường, khi Đạo Phật làm chủ nền triết học
Trung Quốc. Đạo Phật coi Tâm là bản nguyên của thế giới, nghĩa là mọi sự vật,
hiện tượng trong thế giới đều do thanh tịnh tâm tuỳ duyên mà sinh ra. Ngược lại,
một số nhà tư tưởng khác cho rằng có Vật thì mới có Tâm, Tâm có dựa vào Vật thì
mới tồn tại được; thậm chí Trương Tải lại coi Tâm của Đạo Phật chỉ là sự chủ
quan, bịa đặt.
- Lý - Khí xuất hiện thời Tống. Lý học là hình thái ý thức giữ vai trò chủ
đạo trong xã hội phong kiến thời Tống. Theo Trình Hạo và Trình Di, Lý là cái có
trước, sinh ra tất cả. Ngược lại Vương Phu Chi phủ định Lý học và chỉ rõ mối quan
hệ giữa đạo và khí là quy luật chung của sự vật, hiện tượng vật chất.
c. Tư tưởng biện chứng
Triết lý duy vật biện chứng của triết học Trung Quốc cổ, trung đại đã có
những ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới quan triết học không những của người Trung
Quốc, mà còn của những người chịu ảnh hưởng của triết học Trung Quốc.
Biến dịch là quan niệm chung của triết học Trung Quốc cổ, trung đại, theo
đó, Trời Đất, vạn vật luôn vận động và biến đổi với nguyên nhân là giữa Trời Đất
với vạn vật vừa đồng nhất, vừa mâu thuẫn với nhau. Lão Tử cho rằng vũ trụ vận
động, biến đổi theo luật bình quân và luật phản phục, trong đó luật bình quân giữ

cho vạn vật được thăng bằng theo lẽ tự nhiên; luật phản phục dùng để chỉ sự quay
trở lại phương hướng cũ sau khi sự vật, hiện tượng đã phát triển đến cực điểm.
Trong Kinh Dịch, sự biến hoá của vạn vật tuân theo quy trình từ không rõ ràng ->
rõ ràng -> sâu sắc -> kịch liệt -> cao điểm -> mặt trái. Vương An Thạch cho rằng
mâu thuẫn nội, ngoại của Ngũ hành là nguyên nhân cơ bản và vô cùng của sự biến
hoá của vạn vật. Vương Đình Tương cho rằng động lực của vận động, biến hoá của
vạn vật là do khí ân dương không đồng đều nhau v.v.
d. Tư tưởng về nhận thức
Trong quá trình tìm hiểu thế giới bên ngoài đẻ phục vụ cho lợi ích của con
người, các nhà triết học Trung Quốc cổ, trung đại đã có những tư tưởng khác nhau
về nhận thức.
Khổng Tử tập trung vào thực tiễn giáo dục và phương pháp học hỏi; thuyết
chính danh của ông lấy Danh để định Thực, Danh có trước Thực. Ngược lại, Tuân
Tử cho rằng Thực khác nhau bằng Danh. Mặc Tử với thuyết Tam biểu (lập luận
phải có căn cứ, lập luận phải có chứng minh, lập luận phải có hiệu quả) lấy Thực
đặt Tên. Huệ Thi coi Thực to đến mức không có cái bên ngoài gọi là đại nhất, nhỏ
đến mức không có cái bên trong gọi là tiểu nhất. Ngược lại, Công Tôn Long bắt
đầu từ Danh, nhấn mạnh sự khác nhau giữa từ và khái niệm.
đ. Tư tưởng về con người và xây dựng con người
- Tư tưởng về con người.
+ Vấn đề nguồn gốc con người, Khổng Tử và Mặc Tử đều coi con người do
Trời sinh ra và bị quy định bởi Mệnh Trời “Nhân giã kỹ thiên địa chi đức, âm
dương chi giao, quỷ thần chi hội, ngũ hành chi trí khí giã- Con người là cái đức của
Trời Đất, sự giao hợp của âm dương, sự tụ hội của quỷ thần, cái khí tinh tú của ngũ
hành”. Lão Tử Đạo sinh ra Trời, Đất, Người, Vạn vật. Trang Tử cho rằng ở mỗi
vật đều có cái đức tự sinh, tự hoá ở bên trong.
+ Vấn đề xác định vị trí và vai trò của con người trong mối liên hệ với Trời,
Đất, Người, Vạn vật trong vũ trụ, Lão Tử cho rằng trong vũ trụ có bốn cái lớn là
Đạo lớn, Trời lớn, Đất lớn, Người cũng lớn. Khổng Tử và Mặc Tử đều coi con ng-
ười do Trời sinh ra nhưng sau đó cùng với Trời và Đất tạo nên ba ngôi tiêu biểu

cho mọi sự vật, hiện tượng vật chất và tinh thần.
+ Vấn đề quan hệ giữa Trời với Người được thể hiện trong các quan điểm
1) quan điểm cho rằng Mệnh Trời chi phối cuộc sống của con người và xã hội loài
người, Trời an bài địa vị xã hội của con người. 2) Thuyết Thiên Nhân cảm ứng cho
rằng Trời là chủ tể của việc người. Ngược lại, quan điểm Thiên Nhân hợp nhất lại
cho rằng Trời với Người là một, trong đó con người phải theo Trời, lấy phép tắc
của Trời làm mẫu mực, coi Thiên Đạo là Nhân Đạo, người đời phải ăn ở phù hợp
với Đạo Trời. 3) Lão Tử cho rằng con người phải sống và hành động theo lẽ tự
nhiên, không can thiệp và không làm trái với bản tính tự nhiên. Kinh Dịch đưa ra
quan niệm Trời, Đất, Muôn Vật là nhất thể để có thể từ bản thân mà suy ra tìm hiểu
được Trời, Đất và Muôn Vật. 4) Đối lập với các quan điểm trên là quan điểm Thiên
Nhân bất tương quan của Tuân Tử, ông cho rằng Đạo Trời không quan hệ gì với
Đạo Người; trị, loạn không phải tại Trời, Đất, nếu biết chăm lo sản xuất, chi dùng
điều độ thì Trời không thể làm hại Người.
+ Vấn đề bản tính con người cũng được chú trọng. Khổng Tử coi tính
người là gần nhau, do tập tành và thói quen nên mới xa nhau. Mạnh Tử coi bản
tính người là thiện (thuyết tính thiện), sự khác nhau giữa con người với cầm thú là
ở chỗ trong mỗi con người đều có phần cao quý và phần thấp hèn, phần cao quý
làm nên sự khác biệt giữa người với cầm thú. Tuân Tử lại cho rằng ác (thuyết tính
ác), con người sinh ra vốn ham lợi, dẫn đến tranh giành lẫn nhau, sinh ra đố kỵ,
không có lòng trung tín thành dâm loạn, không có lễ nghĩa. Cáo Tử lại coi là không
thiện, không ác. Vương Sung còn cho rằng thiện có thể biến thành ác và ác có thể
biến thành thiện. Về sau, thuyết tính ác bị Hàn Phi cực đoan hoá, Lý Tư đã thực
hành triệt để chính sách pháp trị, chuyên chế cực độ để giúp Tần Thuỷ Hoàng
thống nhất Trung Quốc.
- Tư tưởng về xây dựng con người coi trọng sự nỗ lực của cá nhân, sự quan
tâm của giai đình và xã hội trong việc xây dựng con người.
+ Mục tiêu xây dựng con người của Nho gia hết sức thiết thực, giúp con
người xây dựng mình thông qua năm mối quan hệ cơ bản (Vua - tôi, cha - con, anh
- em, chồng - vợ, bạn hữu) và làm tròn trách nhiệm của mình trong năm mối quan

hệ ấy (Vua nhân, tôi trung, cha từ, con hiếu, anh lành, em đễ, chồng có nghĩa, vợ
vâng lời, bạn hữu phải có tín). Muốn vậy, phải tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ, trong đó tu dưỡng bản thân là hàng đầu. Tu thân trước hết thể hiện trong mối
quan hệ của mình với gia đình, tiếp đó là trách nhiệm với nước, trung với Vua và
mục tiêu cuối cùng của tu thân là bình thiên hạ. Phải thường xuyên trau dồi năm
đức Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Sáu đức Hiếu, Đễ, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa dành cho
các đệ tử của Nho gia. Ba đức Nhân, Trí, Dũng dành cho những người có trọng
trách, vị trí trong xã hội. Trong tất cả những đức đó, nổi bật và quan trọng nhất là
Nhân, Lễ. Tóm lại, theo Nho gia, con người phải xác định và làm tròn quan hệ của
mình là Ngũ Luân (Vua - tôi, cha - con, anh - em, chồng - vợ, bạn hữu), trong đó
Vua - tôi, cha - con, chồng - vợ (Tam cương) là các quan hệ chính. Trong Tam
cương lại có hai quan hệ cơ bản là Vua - tôi, biểu hiện bằng đức Trung, cha - con
biểu hiện bằng đức Hiếu. Con người phải thường xuyên trau dồi Ngũ thường
(Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín), đứng đầu Ngũ thường là Nhân, Nghĩa, trong đó Nhân
là chủ.
+ Đạo gia coi bản tính của con người có khuynh hướng trở về cuộc sống
với tự nhiên, do vậy phải trừ khử cái thái quá, nâng đỡ cái bất cập, sống thanh cao,
gần giũ tự nhiên và tránh chạy theo cuộc sống vật chất. Đạo Phật khuyên con
người sống hiền lành, không sát sinh, không làm hại người khác.
e. Tư tưởng về xã hội lý tưởng và con đường trị quốc
- Điển hình của tư tưởng này là xã hội đại đồng của Khổng Tử với đặc
trưng cơ bản là xã hội thái bình, ổn định; có trật tự, kỷ cương; mọi người được
chăm sóc bình đẳng và mọi cái đều là của chung; được đảm bảo đầy đủ về vật chất;
quan hệ tốt đẹp giữa người với người; xã hội có giáo dục, mọi người đều được giáo
hoá. Muốn vậy, phải có Vua đứng đầu, hiểu Đạo và hành Đạo là trên dưới thuận
hoà; Hiếu, Đễ làm gốc là mọi nhà nhân hậu, thiên hạ được yên.


- Đường lối trị nước theo Thuyết Nhân trị và Thuyết Pháp trị.
+ Nội dung cơ bản của Thuyết Nhân trị. Thuyết Nhân trị chủ trương lấy

đạo đức làm căn bản trong việc cai trị. Những người cầm quyền quy định sự hưng
thịnh, suy vong của đất nước; do vậy những người cầm quyền phải có khả năng và
đức hạnh. Theo Thuyết Nhân trị, những người cầm quyền phải lấy đạo đức để giáo
hoá, dẫn dắt dân chúng mà không dùng cách cai trị cưỡng chế, trừng phạt. Biện
pháp cơ bản để thực hiện Nhân trị là Chính danh, Lễ, vai trò của những người cầm
quyền và vai trò của dân chúng với tư cách là gốc, là nền tảng của chính trị.
+ Nội dung cơ bản của Thuyết Pháp trị. Thuyết Pháp trị chủ trương lấy
pháp luật làm căn bản trong việc cai trị. Do bản tính con người là yếu hèn, thấp
kém, dễ mắc sai lầm nên phải dùng pháp luật áp dụng cho đồng đều, không thiên
vị, không phân biệt đẳng cấp xã hội. Những người cầm quyền phải có khả năng đặt
ra pháp luật rõ ràng và ban bố cho mọi người cùng biết để thực hiện, do vậy xã hội
cần có minh quân sáng suốt, am hiểu nguyên tắc pháp trị và chiụ khép mình theo
nguyên tắc đó.
3. Đặc điểm cơ bản của triết học Trung Quốc cổ, trung đại
- Nhấn mạnh sự hài hoà giữa tự nhiên với con người, với xã hội.
- Nhấn mạnh vấn đề chính trị đạo đức.
- Các quan điểm, tư tưởng triết học Trung Quốc cổ, trung đại thường dùng
châm ngôn, ngụ ngôn, ẩn ngữ để diễn đạt tư tưởng của mình. Cách diễn đạt đạt ý
quên lời, ý ở ngoài lời mở ra sự suy ngẫm. Châm ngôn, ngụ ngôn, ẩn ngữ không
thể khúc chiết, mạch lạc nhưng bù lại, sức mạnh và tính chất sâu xa của tư tưởng
triết học ẩn náu trong đó là sự gợi ý thâm trầm, sâu rộng dường như vô biên của
chúng.
III. LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VIỆT NAM
1. Điều kiện hình thành, phát triển và đặc điểm của tư tưởng triết học Việt
Nam
a. Điều kiện hình thành và phát triển của lịch sử tư tưởng triết học Việt
Nam
- Điều kiện tự nhiên. Nằm ở đông nam châu Á, vị trí tạo cơ sở tự nhiên cho
sự giao lưu văn hoá, thông thương thương nghiệp giữa Việt Nam với Trung Quốc,
Ấn Độ, Nhật Bản v.v.

- Điều kiện kinh tế - xã hội và văn hoá. Việt Nam là nước nông nghiệp cơ
bản dựa vào kinh nghiệm truyền đời và trình độ lao động thủ công, hầu như không
có cuộc cách mạng nào của lực lượng sản xuất. Chỉ từ cuối thời Lý (1010 - 1225)
mới có sự phát triển nhất định của chế độ tư hữu ruộng đất. Trong suốt quá trình
dựng nước và giữ nước, lịch sử Việt Nam là lịch sử chống giặc ngoại xâm để xây
dựng, bảo vệ và củng cố nền độc lập của dân tộc. Từ thế kỷ X - XVIII, nhà nước
phong kiến Việt Nam tập trung vào hai nhiệm vụ cơ bản là tổ chức dân cư lãng, xã
chống giặc và xây dựng, bảo trì hệ thống thuỷ lợi. Vốn tri thức cơ bản của người
Việt Nam truyền thống là những kinh nghiệm liên quan tới nông nghiệp và đánh
bắt hải sản. Tri thức ngành nghề thủ công chỉ là những bí quyết ngành, nghề của
các làng nghề truyền thống và được bảo tồn chủ yếu thông qua truyền khẩu. Sự
giao lưu với các nước láng giềng chỉ mang lại một số tri thức về chính trị - xã hội
cho một bộ phận trí thức Việt Nam.
b. Những đặc điểm chủ yếu của lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam
- Đặc điểm của quá trình hình thành và phát triển tư tưởng triết học Việt
Nam.
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng triết học Việt Nam trải qua hơn
hai nghìn năm từ đầu công nguyên, đặc biệt là từ thế kỷ X đến nay, là quá trình
cùng phát triển và hợp nhất giữa xu hướng tự thân với xu hướng tiếp nhận các tư
tưởng triết học từ bên ngoài. Trong quá trình hình thành và phát triển tư tưởng triết
học Việt Nam, nhiều quan điểm của Nho gia từ Trung Quốc và Đạo Phật từ Ấn Độ
đã đóng góp vai trò đặc biệt quan trọng. Từ thế kỷ XX, triết học Mác - Lênin nói
riêng và chủ nghĩa Mác - Lênin là các yếu tố chủ đạo trong tư tưởng triết học Việt
Nam.
- Đặc điểm về nội dung tư tưởng triết học Việt Nam. Toàn bộ ý thức hệ
Việt Nam trong lịch sử đều xoay quanh nhu cầu cố kết cộng đồng dân cư làng xã,
cộng đồng quốc gia dân tộc và nhu cầu học tập nước ngoài nhằm bảo vệ độc lập
dân tộc. Do vậy, chủ nghĩa yêu nước với nội dung cơ bản là tư tưởng về cố kết
cộng đồng và chủ quyền quốc gia luôn được xác định ở vị trí trung tâm của lịch sử
tư tưởng và văn hoá Việt Nam.

- Đặc điểm về hình thức thể hiện tư tưởng triết học Việt Nam. Tư tưởng
triết học Việt Nam, ngoài sự thể hiện trong hình thức trước tác lý luận của các nhà
triết học như bất kỳ hệ thống triết học nào khác trên thế giới, còn thể hiện thông
qua nhiều hình thức khác, phong phú và đa dạng. Những điều đó đòi hỏi khi
nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, cần sử dụng phương pháp liên
ngành, trước hết là của khoa học xã hội và nhân văn.
2. Những nội dung cơ bản của lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam
a. Những tư tưởng triết học chính trị, đạo đức và nhân văn trong lịch
sử tư tưởng triết học Việt Nam
- Tư tưởng yêu nước trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam không chỉ là
tư tưởng chính trị, mà còn là tư tưởng đạo đức và nhân văn cao cả, trở thành chủ
nghĩa yêu nước và là một trong những nội dung của lịch sử tư tưởng Việt Nam.
- Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là ý thức về dân tộc và độc lập dân tộc; về
một quốc gia ngang hàng với phương Bắc và về nguồn gốc, động lực của công
cuộc cứu nước, giữ nước (Ý thức về dân tộc và độc lập dân tộc; về một quốc gia
ngang hàng với phương Bắc được hình thành và dần được nâng cao trong các giai
đoạn lịch sử mới, mỗi khi dân tộc giành được quyền độc lập, tự chủ (Lý Thường
Kiệt, Nguyễn Trãi v.v).
- Nguồn gốc, động lực của công cuộc cứu nước, giữ nước với tư tưởng trọng
dân (Lý Công Uẩn, Lý Phật Mã, Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh). Tư
tưởng này là cơ sở của đường lối đề cao Nhân, Nghĩa và cho biện pháp nhằm hạn
chế mâu thuẫn giai cấp trong xã hội).
- Quan niệm về đạo làm người trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam là
vấn đề liên quan mật thiết với việc xác định cơ sở tư tưởng cho hành động chính
trị, đạo đức và nhân sinh. Tư tưởng về đạo làm người được hình thành nhờ tiếp thu
Đạo Nho, Đạo Phật và Đạo Lão. Trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, vai trò nổi
trội của mỗi tư tưởng được thể hiện rõ nét. Thời Lý - Trần, Đạo Phật và Đạo Lão
có xu hướng phát triển và nổi trội hơn Đạo Nho; ngược lại, thời Lê - Nguyễn Đạo
Nho lại được tôn vinh hơn. Mỗi nhà tư tưởng, khi phò Vua, giúp nước thường chịu
ảnh hưởng của Đạo Nho; khi về cáo lão hoặc khi đất nước thanh bình lại thường

chịu ảnh hưởng của Đạo Phật và Đạo Lão.
b. Một số tư tưởng triết học Đạo Phật trong lịch sử tư tưởng triết học Việt
Nam
Dựa vào các tài liệu còn lại, có thể nói rằng quan niệm về thế giới và nhân
sinh quan của Ấn Độ, do Trung Quốc truyền bá, là hai bộ phận tạo nên tư tưởng
triết học Đạo Phật Việt Nam, trong đó quan niệm về thế giới là nội dung cơ bản
trong tư tưởng triết học thời Lý - Trần
- Quan niệm về thế giới. Các phạm trù triết học của phái Thiền tông là Bản
Thể Chân Như, Thực Tướng, các Pháp hoặc bản thể Như Lai, trong đó Bản Thể
Chân Như là nguyên lý thống nhất của thế giới. Thế giới các sự vật, hiện tượng
(Pháp Hữu Vi) luôn biến đổi không ngừng, nhưng tất cả chúng đều là sự thể hiện
của Bản Thể Chân Như; do vậy, muốn nhận thức được Bản Thể Chân Như cần
phải vượt qua Pháp Hữu Vi và khi đó con người sẽ đạt tới sự Giác ngộ. Muốn có
sự Giác ngộ thì phải trải qua con đường siêu việt qua Pháp Hữu Vi. Đây là tư
tưởng biện chứng về thế giới đa dạng của những khác biệt và mâu thuẫn, nhưng
theo bản chất thì chúng thống nhất với nhau.
- Nhân sinh quan. Triết học nhân sinh của Đạo Phật Việt Nam thể hiện qua
phạm trù Từ Bi trong triết học Đại Thừa. Nội dung cơ bản của Từ Bi là tinh thần
bao dung giữa con người với nhau cũng như với muôn loài vô tình hay hữu tình.
Từ giác ngộ Từ Bi sinh ra hệ quả là tinh thần cứu độ chúng sinh, một tinh thần
thực tiễn của tư tưởng nhân văn Đạo Phật. Với tư tưởng Từ Bi, triết học Đạo Phật
Việt Nam đã góp phần tạo dựng cơ sở lý luận cho tư tưởng Nhân ái Việt Nam, vốn
đã có cơ sở thực tiễn từ lịch sử cố kết cộng đồng làng xã, dân tộc.
c. Một số tư tưởng triết học Nho giáo trong lịch sử tư tưởng triết học
Việt Nam
Triết học Nho gia bao gồm hai bộ phận cơ bản cấu thành là Hình nhi
thượng học và Hình nhi hạ học. Hình nhi thượng học với khuynh hướng nghiên
cứu triết lý sâu về thế giới và có ảnh hưởng quan trọng đến các nhà tư tưởng Việt
Nam như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thời Nhậm v.v. Hình nhi hạ học với khuynh
hướng nghiên cứu triết lý sâu về chính trị và đạo đức nhằm xác lập ý thức cai trị

phong kiến theo mô hình tập quyền cao độ. Nhiều tư tưởng trong các quan điểm về
chính trị, đạo đức của Nho gia như tư tưởng thương dân, trọng dân, coi dân là gốc;
tư tưởng nhân, nghĩa trong đời sống chính trị - xã hội; tư tưởng về mối quan hệ
chồng - vợ và các phạm trù đạo đức như Trung, Hiếu, Lễ, Nghĩa v.v được kế thừa
và cải biến, đôi khi thay đổi cả nội ham của chúng theo tinh thần thực tiễn của dân
tộc.
d. Sự đối lập giữa thế giới quan duy vật với thế giới quan duy tâm, giữa
thế giới quan triết học với thế giới quan tôn giáo trong lịch sử tư tưởng triết học
Việt Nam
Sự hình thành, phát triển của tư tưởng triết học diễn ra trong sự thống nhất,
nhưng có sự đối lập và đấu tranh giữa thế giới quan duy vật với duy tâm; triết học
với tôn giáo. Tư tưởng triết học duy tâm kết hợp với các tư tưởng tôn giáo là thế
giới quan bao trùm; còn thế giới quan duy vật và chủ nghĩa vô thần chỉ thể hiện
trong phạm vi cụ thể. Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo có luận lý sâu sắc và có tính
hệ thống cao, còn chủ nghĩa duy vật và vô thần chỉ là những yếu tố nhận thức
mang nặng tính kinh nghiệm, ngẫu nhiên. Cuộc đấu tranh giữa các quan điểm duy
vật với các quan điểm duy tâm thể hiện trong việc giải quyết mối quan hệ giữa
Tâm với Vật; giữa Linh hồn với Thể xác; giữa Lý với Khí v.v. Trong lịch sử tư
tưởng triết học Việt Nam, các phạm trù Mệnh Trời, Nghiệp, Kiếp, Linh hồn, Thể
xác được sử dụng đan xen, giao thoa của các tư tưởng của Nho gia - Đạo Phật -
Đạo Lão - Tín ngường dân gian.
3. Vai trò của Hồ Chí Minh đối với sự phát triển của tư tưởng triết học Việt
Nam
- Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin.
Nhu cầu của dân tộc trong giai đoạn thực dân Pháp xâm lược và đô hộ Việt
Nam là lý giải sự thất bại của triều đại phong kiến nhà Nguyễn và tìm đường cứu
nước, giải phóng dân tộc. Trước sự thất bại của các tư tưởng và phương pháp Đạo
Nho, Đạo Phật và Tư sản, Hồ Chí Minh ra nước ngoài tìm những lý luận, biện
pháp có khả năng thực tế để đáp ứng nhu cầu của dân tộc trong giai đoạn thực dân
Pháp xâm lược và đô hộ Việt Nam. Hồ Chí Minh đánh giá về chủ nghĩa Mác -

Lênin và đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là một tất yếu lịch sử.
- Hồ Chí Minh vận dụng s��ng tạo triết học Mác - Lênin vào cách mạng
Việt Nam.
Sử dụng thế giới quan duy vật biện chững và phép biện chứng duy vật để lý
giải đúng đắn và khoa học những vấn đề mà lịch sử Việt Nam cận đại đặt ra, mà
đỉnh cao của nó là hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam như giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Với tư tưởng Hồ Chí Minh, lịch sử
tư tưởng triết học Việt Nam bước sang giai đoạn phát triển mới./.
CHƯƠNG III. KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY
PGS.TS. Trần Văn Thuỵ, Trường Đại học Y Hà Nội,
TS. Phạm Văn Sinh, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.


Người trình bày: Tiến sỹ Trần Đăng Sinh, Chủ nhiệm Bộ môn Triết
học, Khoa Giáo dục Chính trị, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Điện thoại
0912206853.
Đối tượng: Học viên cao học ngành Kinh tế, Sư phạm v.v.
Thời lượng: 8 tiết trên lớp, 2 tiết tự học (Giảng viên nêu những vấn đề
tự học).
Thời gian: 17g30 các tối thứ 6 (15/12/06) và Chủ nhật (17/12/06).
Địa điểm: Hội trường 8, Nhà B4, Trường Đại học Ngoại ngữ.

I. TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Điều kiện ra đời và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại
- Điều kiện tự nhiên. Hy Lạp cổ đại là một vùng đất rộng, bao gồm miền
Nam bán đảo Bancăng, nhiều đảo trên biển Êgie và cả miền ven biển của bán đảo
Tiểu Á. Điều kiện tự nhiên và khí hậu thuận lợi giúp các ngành nông nghiệp, thủ
công nghiệp và thương nghiệp phát triển rất sớm. Xã hội Hy Lạp cổ đại tồn tại và
phát triển trong sáu thế kỷ (từ thế kỷ VIII đến thế kỷ III tr.c.n), còn từ thế kỷ XV

đến thế kỷ IX tr.c.n, chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã và hình thành chế độ
chiếm hữu nô lệ. Đây là thời kỳ xẩy ra nhiều biến động lớn về kinh tế và thể chế xã
hội, những biến động này được ghi lại trong hai tập thơ Iliát và Ôđixê của Hôme.
- Điều kiện kinh tế - xã hội và văn hoá. Các thành thị của Hy Lạp cổ đại ra
đời và tồn tại với tư cách là những quốc gia độc lập (300 quốc gia). Đến thế kỷ VI
- IV tr.c.n xuất hiện hai trung tâm kinh tế - chính trị điển hình là thành bang Aten
(miền trung Hy Lạp) và thành bang Spác (vùng bình nguyên Iacôni). Cuộc chiến
tranh giành bá chủ Hy Lạp giữa hai thành bang này trong nhiều năm làm Hy Lạp
suy yếu. Đến thế kỷ II tr.c.n, Hy Lạp bị La mã chinh phục. Thời Hy Lạp cổ đại,
toán học, thiên văn học, thuỷ văn học v.v bắt đầu phát triển. Tri thức triết học và tri
thức khoa học hoà trộn vào nhau; các nhà triết học đồng thời là nhà toán học, vật
lý, thiên văn học v.v. Triết học Hy Lạp ra đời gắn với nhu cầu thực tiễn và gắn liền
với khoa học và được gọi là khoa học của mọi khoa học. Sự giao lưu giữa Hy Lạp
với các nước làm cho tư tưởng triết học Hy Lạp cổ đại chịu ảnh hưởng của nhiều
nền văn minh. Những quan niệm của các nhà triết học Ai Cập và Babilon đã có ảnh
hưởng tích cực đến sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại; có thể nói đó là một
trong những tiền đề của triết học Hy Lạp cổ đại.
- Quá trình hình thành và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại. Triết học
Hy Lạp cổ đại xuất hiện và phát triển cùng với cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy
vật với chủ nghĩa duy tâm quanh vấn đề bản nguyên thế giới; phản ánh cuộc đấu
tranh giữa phái dân chủ của thành bang Aten với phái chủ nô của thành bang Spác.
+ Triết học thời sơ khai thuộc giai đoạn cổ xưa của văn hoá Hy Lạp thế kỷ
VII - VI tr.c.n, gồm các trường phái và các đại biểu tiêu biểu như trường phái Milê
(Talét, Anaximandrơ, Anaximen); trường phái Pitago (Pitago); trường phái Êphezơ
(Hêraclít); trường phái Êlê (Xênôphan, Pácmênít, Dênôn).
+ Triết học thời cực thịnh thuộc giai đoạn cổ điển của văn hoá Hy Lạp thế
kỷ V - IV tr.c.n với các đại biểu tiêu biểu như Anaxago, Empeđôclơ, Đêmôcrít,
Xôcrát, Platôn, Arítxtốt.
+ Triết học thời kỳ Hy Lạp hoá thuộc giai đoạn Hela của văn hoá Hy Lạp
thế kỷ IV - I tr.c.n với trường phái đáng kể nhất là trường phái triết học Êpiquya.

2. Một số nội dung cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại
a. Tư tưởng về bản nguyên thế giới
- Bản nguyên đầu tiên với tư cách là cái đơn nhất xuất hiện trong trường
phái Milê; Talét cho rằng đó là nước, Anaximandrơ là Apeirôn, Anaximen là
không khí.
- Bản nguyên đầu tiên với tư cách là cái đặc thù xuất hiện trong trường phái
các nhà triết học tự nhiên thế kỷ V tr.c.n; Anaxago cho rằng đó là những phần nhỏ
bé, siêu cảm giác không nhìn thấy được của nước, đất, khí, lửa gọi là mầm sống, là
hạt giống của muôn vật. Empeđôclơ lại cho rằng đó là đất, nước, lửa và không khí
luôn vận động do nguyên nhân tình yêu và hận thù.
- Bản nguyên đầu tiên với tư cách là cái phổ biến xuất hiện trong trường
phái nguyên tử luận thế kỷ V - IV tr.c.n. Đêmôcrít cho rằng nguyên tử (tồn tại) và
chân không (không tồn tại) là những bản nguyên đầu tiên và chúng luôn đối lập
nhau, trong đó nguyên tử là yếu tố vật chất luôn vận động và sự vận động đó xẩy ra
trong chân không, tuân theo quy luật khách quan và theo các hướng tan hợp, hợp
tan tạo nên vũ trụ sinh động và biến hoá.
b. Tư tưởng biện chứng
Cùng với các quan điểm khác nhau về bản nguyên thế giới, các quan điểm
khác nhau về bản tính của thế giới cũng là tâm điểm của cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy Lạp cổ đại.
- Tư tưởng biện chứng khẳng định của Hêraclít (520 - 460 tr.c.n) thể hiện
trong 1) quan niệm về sự vận động vĩnh viễn của vật chất và tính thống nhất của
thế giới. Theo đó, trong thế giới, không có sự vật, hiện tượng đứng im tuyệt đối; tất
cả đều trong trạng thái biến đổi và chuyển hoá thành cái khác và ngược lại, trong
đó lửa là nguyên nhân chính của sự vận động đó. Vũ trụ thống nhất ở bản nguyên
Lửa. 2) quan niệm về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn trong mọi sự vật, hiện
tượng thể hiện trong những phỏng đoán của ông về vai trò của những mặt đối lập
trong sự vận động của tự nhiên, về sự trao đổi của những mặt đối lập, về sự tồn tại
và thống nhất của các mặt đối lập. 3) quan niệm về nguyên nhân của sự vận động,
theo đó nguyên nhân của sự vận động là do logos (bản chất, quy luật khách quan)

quy định. Logos khách quan là trật tự khách quan của mọi sự vật đang diễn ra
trong vũ trụ. Logos chủ quan là từ ngữ, học thuyết, lời nói, suy nghĩ của con người.
Logos chủ quan phải phù hợp với logos khách quan; người nào càng tiếp cận được
nhiều logos khách quan bao nhiêu thì càng thông thái bấy nhiêu.
- Tư tưởng biện chứng phủ định của Pácmênít (540 - 470 tr.c.n) và Dênôn
(490 - 430 tr.c.n) đối lập với tư tưởng biện chứng khẳng định của Hêraclít. Tư
tưởng biện chứng của Pácmênít thể hiện ở ba quan niệm 1) vận động, biến đổi là
hư ảo, không có không gian rỗng thuần tuý. 2) tồn tại và tư duy đồng nhất với nhau
vừa như là quá trình, vừa như là kết quả. 3) trong thế giới không có sự sinh thành,
xuất hiện và diệt vong. Tư tưởng biện chứng của Dênôn thể hiện ở quan niệm về
vạn vật đồng nhất thể và vạn vật bất biến. Bằng phương pháp chứng lý và nghịch
lý, ông giải thích mối quan hệ giữa vận động với đứng im; giữa liên tục với gián
đoạn; giữa hữu hạn với vô hạn. Các nghịch lý (aporia) của Dênôn đã khuyến khích
các cuộc tranh luận để đi tới chân lý.
- Tư tưởng biện chứng của Xôcrát (469 - 399 tr.c.n) được thể hiện trong
phương pháp bốn bước của ông. 1) Mỉa mai là thủ pháp nêu các câu hỏi dồn người
đối thoại vào mâu thuẫn để thừa nhận chân lý. 2) Đỡ đẻ với nghĩa là người dẫn dắt
cuộc đối thoại chủ động nêu ra những vấn đề mới giúp người đối thoại, từ chỗ lúng
túng, đạt được chân lý. 3) Quy nạp là quá trình đi từ phân tích những hành vi riêng
lẻ đến khái quát để nhận thức bản chất. 4) Xác định hay định nghĩa là gọi đúng tên,
nêu đúng bản chất của sự vật, hiện tượng; xác định chuẩn mực, hành vi đạo đức để
xây dựng khoa học về cái thiện, giúp con người có cuộc sống hạnh phúc, hợp lý trí.
- Tư tưởng biện chứng của Platôn (472 - 347 tr.c.n) là tiếp tục phát triển tư
tưởng biện chứng của Xôcrát từ góc độ duy tâm khách quan. Muốn có tri thức thì
phải hồi tưởng để đánh thức những tri thức đã bị lãng quên trong linh hồn, là tìm
kiếm tri thức nơi mình. Để hồi tưởng phải dùng phương pháp biện chứng; theo đó
phải đàm thoại triết học, xây dựng các khái niệm, tìm hiểu khái niệm v.v. Về thực
chất, đây chính là lôgíc học. Tư tưởng biện chứng của Arítxtốt (384 - 322 tr.c.n).
- Là nhà triết học lớn nhất, bộ óc bách khoa của triết học Hy Lạp cổ đại,
Arítxtốt có những nghiên cứu sâu về những vấn đề của phép biện chứng; tạo ra

môn lôgíc học để nghiên cứu tư duy dựa trên cơ sở phân biệt dứt khoát giữa chân
lý với sai lầm. Chân lý là sự phù hợp giữa tư tưởng với thực tế, còn sai lầm phát
sinh khi trong tư tưởng nối liền cái mà trong thực tế là phân chia hoặc phân chia
cái mà trong thực tế là nối liền. Lôgíc học là lý luận về chứng minh, trong đó phân
biệt hai loại luận đoán từ cái riêng đến cái chung (quy nạp) và từ cái chung đến cái
riêng (diễn dịch). Ông cũng là người đầu tiên đưa ra ba quy luật cơ bản của lôgíc
hình thức với tư cách là các quy luật của tư duy. Phép biện chứng của Arítxtốt,
ngoài sự thể hiện trong các quan niệm về các vật thể tự nhiên và sự vân động của
chúng, còn thể hiện trong việc giải thích cái riêng và cái chung; cái chung thống
nhất với cái riêng; nhận thức cái chung trong cái đơn lẻ là thực chất của nhận thức
cảm tính.
c. Tư tưởng về nhận thức
- Tư tưởng về nhận thức của Hêraclít mang tính duy vật biện chứng sơ khai.
Nhận thức được bắt đầu từ cảm giác, không có cảm giác thì không có bất kỳ nhận
thức nào. Ông không tuyệt đối giai đoạn nhận thức này vì cho rằng thị giác thường
bị lừa dối vì tự nhiên thích giấu mình nên khó nhận thức. Nhận thức có tính tương
đối, tuỳ theo hoàn cảnh và điều kiện mà thiện - ác, xấu - tốt, lợi - hại chuyển hoá
cho nhau và nhiệm vụ của nhận thức là phải đạt tới nhận thức logos của sự vật.
- Tư tưởng về nhận thức của trường phái Êlê thể hiện trong việc đối lập tư
duy duy lý với trực quan cảm tính và ý kiến dựa vào trực quan về sự vật. Pácmênít
đề cao vai trò của nhận thức lý tính; Dênôn cũng phủ nhận vai trò nhận thức cảm
tính, đề cao nhận thức lý tính. Đêmôcrít là người có công đưa lý luận nhận thức
duy vật lên một bước mới. Ông chia nhận thức thành hai dạng 1) dạng mờ tối là
nhận thức cảm tính, do các giác quan đưa lại, theo dư luận chung (những cảm giác
như mùi vị, màu sắc, âm thanh v.v là những cảm giác phổ biến mà mọi người đều
cảm nhận được dễ dàng); nhận thức này là chân thực nhưng còn mờ tối vì chưa
nhận thức được cái bên trong, cái sâu kín của sự vật. 2) dạng chân lý thông qua
những phán đoán lôgíc nên đã nhận thức được bản chất của sự vật, vì chỉ đã ra
được nguyên tử là khởi nguyên của thế giới, chỉ ra được tính đa dạng của thế giới
là do sự sắp xếp khác nhau của các nguyên tử. Hình tượng cảm tính (còn gọi là

Iđôlơ) bắt nguồn từ vật thể rồi thâm nhập vào các giác quan và được ước lệ thành
hình tượng của khách thể; Iđôlơ là tiền đề để lý tính nhận thức chân lý.
- Tư tưởng về nhận thức của Platôn có tính duy tâm, theo đó nhận thức cảm
tính có sau nhận thức lý tính vì linh hồn đã có sẵn các tri thức; do vậy, nhận thức là
quá trình hồi tưởng lại những cái đã lãng quyên trong quá khứ. Dựa trên cơ sở trên
đây, Platôn chia tri thức thành hai loại 1) tri thức hoàn toàn đúng đắn, tin cậy là tri
thức ý niệm, tri thức của linh hồn trước khi nhập vào thể xác và có được nhờ sự hồi
tưởng lại. 2) tri thức mờ nhạt là tri thức lẫn lộn đúng sai; có được nhờ nhận thức
cảm tính nên không phải là chân lý.
- Tư tưởng về nhận thức của Arítxtốt đóng vai trò quan trọng trong lịch sử
triết học Hy Lạp cổ đại; trong lý luận nhận thức của mình, ông cho rằng tự nhiên là
tính thứ nhất, tri thức là tính thứ hai; thế giới khách quan là đối tượng của nhận
thức, là nguồn gốc của kinh nghiệm và cảm giác. Cảm giác là điểm khởi đầu trên
con đường hình thành tư duy khoa học theo quá trình cảm giác - biểu tượng - kinh
nghiệm - nghệ thuật - khoa học. Các giai đoạn của quá trình nhận thức được
Arítxtốt chia thành các giai đoạn 1) giai đoạn cảm tính là giai đoạn nhận thức mang
tính trực quan (sự quan sát nhật thực, nguyệt thực bằng mắt thường v.v). 2) nhận
thức lý tính là giai đoạn đòi hỏi khái quát hoá, trừu tượng hoá để rút ra tính tất yếu
của hiện tượng. Như vậy, quá trình nhận thức diễn ra theo trình tự cơ thể - tác động
bên ngoài - cảm giác - tưởng tượng - tư duy. Mỗi khâu trong quá trình này đều
quan hệ mật thiết với nhau, khâu sau không thể thiếu khâu trước.
d. Tư tưởng về đạo đức và chính trị
- Với ý đồ chính trị muốn những nhà cầm quyền phải có tri thức, hiểu biết,
Xôcrát coi đạo đức và sự hi��u biết quy định lẫn nhau, có đạo đức là nhờ có
hiểu biết, do vậy đạo đức có sau hiểu biết.
- Đêmôcrít lại xuất phát từ bản chất con người để định nghĩa đạo đức, theo
đó sự hài lòng và không hài lòng là động lực của mọi hành vi; do vậy, đạo đức phải
giải quyết vấn đề hành vi con người và thái độ của nó đối với chính bản thân mình.
Hạt nhân trung tâm của đạo đức là lương tâm, là sự lành mạnh về tinh thần của
từng cá nhân, mỗi người phải sống đúng mực, ôn hoà, không vô độ mà gây hại cho

người khác, không quá giàu có, không thèm lợi nhuận bất lương gây hại cho người
lương thiện. Trong quan niệm về chính trị - xã hội, Đêmôcrít chống lại chủ nô quý
tộc để bảo vệ chế độ chủ nô dân chủ mà quyền lợi gắn liền với sự phát triển của
thương mại và nghề thủ công, ca ngợi tình thân ái, tính ôn hoà, ca ngợi quyền lợi
chung của công dân tự do. Nhà nước cộng hoà dân cử là nền tảng của chế độ dân
chủ chủ nô, đóng vai trò duy trì trật tự, điều hành mọi hoạt động trong xã hội,
trừng phạt những vi phạm pháp luật hay các chuẩn mực đạo đức.
- Đối lập với tư tưởng của Đêmôcrít là tư tưởng của Platôn. Ông phê phán cả
ba hình thức nhà nước là nhà nước của Vua Chúa xây dựng trên khát vọng giàu có
và danh vọng dẫn tới sự cướp đoạt; nhà nước quân phiệt của số ít kẻ giàu có áp bức
số đông, đối lập giữa giàu và nghèo đưa tới cái ác; nhà nước dân chủ, quyền lực
thuộc về số đông, sự đối lập giàu nghèo trong nhà nước này hết sức gay gắt cho
nên đó là nhà nước tồi tệ. Platôn đưa ra mẫu hình nhà nước lý tưởng, trong đó có
ba lớp người làm các công việc khác nhau. Sự tồn tại và phát triển của nhà nước lý
tưởng dựa vào sự phát triển sản xuất vật chất; phân công hài hoà các ngành nghề
và giải quyết mâu thuẫn các nhu cầu xã hội.
- Arítxtốt lại cho rằng đạo đức là khoa học đứng sau triết học và đặc biệt
quan tâm đến phẩm hạnh bởi đó là cái tốt đẹp nhất, là lợi ích tối cao mà mọi công
dân phải có. Nội dung của phẩm hạnh là biết định hướng, biết làm việc, biết tìm tòi
và phẩm hạnh con người thể hiện trong quan niệm về hạnh phúc. Hạnh phúc phải
là cái gắn kết với hoạt động nhận thức, với ước vọng làm điều thiện. Là người đầu
tiên phân tích hình thái giá trị, cho rằng cơ sở bình đẳng và công bằng trong xã hội
là sự công bằng trong trao đổi sản phẩm. Sự công bằng không có được nếu không
có sự bằng nhau, sự bằng nhau không có được nếu không thể đo chung được, tức là
ông đã tìm ra được nguồn gốc của quan hệ bình đẳng. Arítxtốt coi bản chất của nhà
nước là hình thức giao tiếp cao nhất giữa con người với nhau và nhà nước chỉ xuất
hiện khi có sự giao tiếp về lợi ích giữa nhiều gia đình và họ hàng về cuộc sống đầy
đủ và hoàn thiện. Nhà nước được xem xét trong ba phương diện là lập pháp, hành
chính và phân xử và có nhiệm vụ bảo đảm cho mọi công dân (trừ nô lệ) đầy đủ về
vật chất, bảo đảm công bằng về công lý. Mức độ phúc lợi do nhà nước đem lại cho

công dân là tiêu chuẩn để đánh giá nhà nước. Gia đình và cá nhân là thiên chất tự
nhiên của nhà nước, vì vậy con người phải thuộc về nhà nước và nếu vượt qua nhà
nước sẽ là con người không phát triển về đạo đức, hoặc là động vật hoặc là Thượng
Đế.
- Êpiquya cho rằng những yêu cầu, khát vọng của con người phản ánh bản
chất con người. Do vậy, đạo đức học phải dạy cho con người biết lựa chọn những
yêu cầu, khát vọng thiết yếu, tránh những mong ước vô nghĩa và phản tự nhiên.
3. Đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại
- Các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại đã đã đặt ra và giải quyết hầu hết
các vấn đề về bản thể luận và nhận thức luận; các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác -
Lênin đánh giá từ các hình thức muôn hình muôn vẻ của triết học Hy Lạp đã có
mầm mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này từng bước
giải quyết theo thời đại mình.
- Nội dung cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại là cuộc đấu tranh giữa các
trường phái triết học duy vật với duy tâm, biện chứng với siêu hình, vô thần với
tôn giáo mà điển hình là cuộc đấu tranh giữa hai đường lối triết học duy vật của
Đêmôcrít, Êpiquya với triết học duy tâm của Xôcrát, Platôn.
- Triết học Hy Lạp cổ đại, nói chung còn ở trình độ trực quan, chất phác- đặc
biệt đối với các hệ thống triết học duy vật và biện chứng, nhưng đã gắn bó với
khoa học. Tuy có những ý kiến khác nhau, nhưng đã đề cập tới vấn đề con người,
coi con người là tinh hoa của tạo hoá và con người cần chinh phục thiên nhiên để
phục vụ mình.
II. TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI TRUNG CỔ
1. Điều kiện ra đời và phát triển của triết học tây Âu thời Trung cổ
a. Điều kiện kinh tế - xã hội và văn hoá
- Xã hội tây Âu thế kỷ II đến thế kỷ V là xã hội đánh dấu sự tan rã của chế
độ chiếm hữu nô lệ và sự ra đời của chế độ phong kiến. Vào thế kỷ thứ V, những
cuộc nổi dậy của nô lệ bên trong cùng với sự tiến công của những bộ tộc bên ngoài
đã dẫn đến sự sụp đổ của đế quốc La Mã (đã tồn tại từ thế kỷ II tr.c.n đến thế kỷ
V). Sự kiện đó dẫn đến kết quả chấm dứt hình thái xã hội chiếm hữu nô lệ và chế

độ phong kiến tây Âu ra đời. Trong xã hội đó, nền kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp
thống trị. Điều hành sản xuất xã hội là những tiểu nông lệ thuộc vào địa chủ phong
kiến. Vì vậy, trong thời kỳ đầu của thời đại phong kiến tây Âu đã diễn ra sự suy
đồi không chỉ về kinh tế, mà còn về toàn bộ các mặt của đời sống xã hội.
- Xuất hiện tổ chức giáo hội nhà thờ Thiên Chúa giáo và ảnh hưởng của nó
tới toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của xã hội thời kỳ này. Về mặt tinh thần,
thời Trung cổ ở tây Âu lúc đầu Cơ đốc giáo, về sau là Thiên Chúa giáo là hệ tư
tưởng thống trị. Những giáo lý tôn giáo trở thành những nguyên lý về chính trị;
Kinh thánh là luật lệ trong xét xử; Giáo hội độc quyền trong lĩnh vực văn hoá, nhà
trường hoàn toàn nằm trong tay thầy tu, triết học chỉ phục vụ cho tôn giáo và Giáo
hội. Có thể nói tín điều nhà thờ là điểm xuất phát của mọi tư duy; thế giới quan tôn
giáo bao trùm lên triết học, luật học và chính trị.
b. Quá trình hình thành và phát triển của triết học tây Âu thời Trung
cổ
- Từ thế kỷ II - IV là thời kỳ quá độ giữa triết học Hy Lạp với triết học tây
Âu Trung cổ. Hệ tư tưởng xã hội là Cơ Đốc giáo với các đại biểu Téctuliêng (160 -
230), Ôguýtxtanh (354 - 430).
- Từ thế kỷ V - VIII là thời kỳ hình thành chủ nghĩa Kinh viện.
- Từ thế kỷ IX - XV là thời kỳ phát triển của chủ nghĩa Kinh viện.
+ Chủ nghĩa Kinh viện sơ kỳ từ thế kỷ IX - XII với các đại biểu Ơrigenơ
(810 - 877), Abơla (1079 - 1142).
+ Chủ nghĩa Kinh viện cực thịnh thế kỷ XIII với các đại biểu Lơgrăng
(1207 - 1280), Đacanh (1225 - 1274), Đun Xcốt (1265 - 1308).
+ Chủ nghĩa Kinh viện suy thoái thế kỷ XIV - XV với các đại biểu Bêcơn
(1214 - 1294), Ốccam (1300 - 1349).
2. Một số nội dung cơ bản của triết học tây Âu thời Trung cổ
a. Mối quan hệ giữa tri thức với niềm tin tôn giáo
Các nhà triết học thời Trung cổ coi niềm tin tôn giáo giữ vị trí hàng đầu
trong mối quan hệ với lý trí.
- Ôguýtxtanh (354 - 430, Bắc Phi, Angiêri hiện nay) là đại biểu lớn nhất của

triết học Cơ đốc giáo thời kỳ tiền Trung cổ; triết học của ông trở thành cơ sở lý
luận cho Cơ đốc giáo và cả Thiên Chúa giáo sau này. Tư tưởng cơ bản trong học
thuyết của Ôguýt- xtanh là toàn bộ thế giới do Thượng Đế sinh ra và được nhận
thức bởi Thượng Đế. Tuy nhiên, Thượng Đế chỉ sáng tạo ra thế giới tự nhiên, sau
đó giới tự nhiên vận động theo các quy luật của mình mà không có sự can thiệp
của Thượng Đế. Thượng Đế không tồn tại trong sự vật cảm biết nhưng có sức
mạnh vạn năng, có quyền lực tuyệt đối. Ý chí của con người là tự do, nhưng chỉ
trong giới hạn tiền định của Thượng Đế, quá trình nhận thức của con người là quá
trình nhận thức Thượng Đế- chân lý tối cao. Nhận thức đó chỉ đạt được nhờ lòng
tin, bởi lòng tin tôn giáo. Nhận thức Thượng Đế có ba mức độ 1) Thông qua cảm
giác bên ngoài, những cảm giác nói chung là chân thật. 2) Nhận thức thông qua
cảm giác bên trong bàn bạc lại những cảm giác bên ngoài. 3) Nhận thức lý trí, đánh
giá những phán đoán của cảm giác bên trong. Tiêu chuẩn của chân lý là sự tự ý
thức, trong tâm hồn mỗi người đã chứa đựng chân lý tối cao. Thượng Đế là chân lý
tối cao, từ chân lý tối cao này nảy sinh mọi chân lý.
- Chủ nghĩa Kinh viện, phái Duy thực và phái Duy danh tiếp nối giữa thời
kỳ Cơ đốc giáo với thời kỳ Trung cổ tây Âu.

×